• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nói đi, ký ức
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương hai

1

Khi nhớ lại bản thân từ hồi xa xôi nhất có thể (với sự thích thú, giễu nhại, đôi khi là với cả sự vị nể hay khinh bạc), tôi thấy mình có xu hướng gặp các ảo giác loại nhẹ. Đôi khi là mùi hương, đôi khi là thị giác, và không có ảo giác nào làm lợi gì nhiều cho tôi cả. Những giọng nói tiên tri đã kiềm tỏa Socrates hay khích lệ Joaneta Darc tới với tôi đã thoái hóa đến mức chỉ như thứ tiếng ai đó vô tình nghe được giữa lúc cầm lên và đặt xuống cái ống nghe của một đường dây điện thoại giữa buổi tiệc nhộn nhịp. Ngay trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi thường ý thức được rõ rệt về một kiểu hội thoại một chiều đang diễn ra ở một khoang liền kề nào đấy trong tâm trí mình, theo cách khá độc lập với dòng suy nghĩ thực sự của tôi. Đó là một giọng nói trung lập, tách biệt, vô danh, mà tôi thấy chúng hầu như chẳng có ý nghĩa gì với mình – một câu nói bằng tiếng Anh hay tiếng Nga, thậm chí không phải là nói với tôi, và vụn vặt tới mức tôi còn không dám dẫn ra đây vài ví dụ, sợ rằng cái ý định truyền tải sự vô nghĩa của chúng lại bị vướng vào ý nghĩa nào đó. Hiện tượng ngốc nghếch này dường như là một phần đối chiếu về thính giác của những hình ảnh tiền giấc ngủ mà tôi cũng biết rất rõ. Ý tôi không phải nói đến hình ảnh chắc chắn rõ ràng như ban ngày (chẳng hạn như là khuôn mặt của một đấng sinh thành thân yêu đã qua đời từ lâu) được gợi lên chỉ bằng một nỗ lực ý chí; đó là những hành động can đảm nhất mà tinh thần của một con người có thể làm được. Tôi cũng không muốn bóng gió đến thứ gọi là muscae vilitantes1 – những cái bóng phủ lên thanh võng mạc do bụi đậu trên thủy tinh dịch gây ra, chúng được nhìn thành những sợi chỉ trong suốt lướt ngang qua vùng thị giác. Có lẽ gần hơn với những ảo ảnh đi kèm tình trạng mơ màng mà tôi đang nghĩ tới này là một điểm màu, một thoáng dư ảnh mà ngọn đèn bàn gây ra cho bóng tối trong mí mắt khi ai đó vừa tắt phụt nó. Tuy nhiên, một cú sốc kiểu này không nhất thiết phải là điểm khởi đầu cho sự phát triển dần dần của những hình ảnh đi qua trước cặp mắt nhắm chặt của tôi. Chúng đến và đi, mà không cần tới sự tham dự của người quan sát đang gà gật, nhưng chắc chắn là khác với những ảnh tượng trong mơ vì anh ta vẫn còn làm chủ được các giác quan của chính mình. Chúng thường rất kệch cỡm. Tôi vẫn thường bị quấy nhiễu bởi những bóng hình tinh quái, bởi những tên quỷ lùn có nét mặt dữ tợn và đỏ au với một cánh mũi hay cái tai sưng vù. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cảm giác ánh sáng của tôi sẽ mang một đặc tính có phần flou2 một cách dễ chịu, rồi tôi trông thấy – chính xác là nó được phóng lên mặt trong của mí mắt tôi – những hình dáng màu xám đang bước đi giữa mấy tổ ong, hay một chú vẹt nhỏ màu đen biến mất dần giữa những núi tuyết, hay một khoảng xa xôi màu cẩm quỳ đang tan chảy bên trên những cột buồm chuyển động.

1 Chấm đen trước mắt (tiếng La Tinh)

2 Mờ mịt

Vượt lên tất cả những điều trên, tôi xin giới thiệu một ví dụ rất tốt của việc nghe thấy màu. Có lẽ “nghe” không hẳn đã chính xác, vì cảm xúc về màu dường như cũng được tạo ra bởi chính cái hoạt động khoang miệng của tôi hình thành nên một chữ cái nào đó trong lúc tôi tưởng tượng ra hình dạng của nó. Chữ a dài của bảng chữ cái tiếng Anh (và đây cũng là bảng chữ cái mà tôi muốn nói từ đây về sau, trừ khi được nhắc khác đi) với tôi mang một sắc độ màu của gỗ mục, nhưng chữ a trong tiếng Pháp thì lại gợi lên màu gỗ gụ bóng loáng. Nhóm màu đen còn bao gồm cả chữ g cứng rắn (cao su đã lưu hóa) và r (một cái giẻ rách rưới bị xé). N trong bột yến mạch, l trong tay chân lẻo khoẻo, và o trong chiếc gương cầm tay ốp mặt ngà voi góp nên mục màu trắng. Tôi vẫn bối rối với chữ on trong tiếng Pháp, bởi tôi nhìn thấy nó giống như bề mặt căng tràn của chất cồn bên trong một chiếc ly thủy tinh nhỏ. Chuyển sang nhóm màu xanh lam, có chữ x đanh thép, chữ z trong đám mây sấm chớp, và chữ k của trái việt quất. Bởi một mối tương tác rất tinh tế tồn tại giữa âm thanh và hình dạng, tôi nhìn chữ q mang ánh nâu hơn chữ k, trong khi chữ s không mang cùng một màu xanh lam nhạt như chữ c, mà là một hỗn hợp kỳ lạ của màu xanh da trời và ánh xà cừ. Các sắc độ màu kề nhau không trộn lẫn, và nguyên âm đôi không mang một màu biểu trưng đặc biệt nào cho nó, trừ khi trong một ngôn ngữ khác nó được đại diện chỉ bằng một chữ cái duy nhất (từ đó mới có chữ cái mang màu xám bông xốp, có ba chân trong tiếng Nga tương đương chữ sh, một chữ cái cổ ngang với những cây cói trên dòng sông Nile và ảnh hưởng đến đại diện của nó trong tiếng Anh).

Tôi sẽ tăng tốc để hoàn thiện danh sách trong trí tưởng tượng của mình trước khi nó bị ý nghĩ khác xen ngang. Nhóm xanh lục có chữ f của lá cây tổng quán sủi, chữ p của táo xanh chưa chín, và chữ t của quả hồ trăn. Màu xanh nhờ, kết hợp sao đó với màu tím, là mô tả tốt nhất của tôi dành cho chữ w. Nhóm vàng bao gồm rất nhiều chữ e và i, chữ d màu kem, y vàng sáng, và u mà tôi chỉ có thể gán cho giá trị trong bảng chữ cái là “màu đồng với ánh xanh ô liu”. Nhóm nâu có chữ g mềm mang sắc độ cao su đặc, chữ j nhạt hơn, và sợi dây giày màu nâu xám của h. Sau rốt, trong đám màu đỏ, b mang một màu được các họa sĩ gọi là hung đỏ cháy, m là một cuộn vải fla-nen màu hồng, và ngày hôm nay rốt cuộc tôi đã kết hợp được hoàn hảo chữ v với “thạch anh hồng” trong Từ điển màu sắc của Maerz và Paul. Từ dành để chỉ cầu vồng, một kiểu cầu vồng nguyên thủy nhưng chắc chắn vẫn là xám xịt, thì trong ngôn ngữ của riêng tôi sẽ khó lòng phát âm được: kzspygv. Theo chỗ tôi được biết, tác giả đầu tiên bàn về audition coloree1 là một nhà vật lý học bị bạch tạng vào năm 1812, ở Erlangen.

1 Nghe thấy màu sắc

Những lời thú nhận của một người mắc chứng liên kết giác quan chắc hẳn nghe có vẻ nhạt nhẽo và đáng nghi với những ai được bảo vệ khỏi những khiếm khuyết ấy bằng các bức tường chắc chắn hơn lớp phòng vệ của tôi. Mặc dù vậy, với mẹ tôi, dường như tất cả những điều này đều khá bình thường. Vấn đề ấy được nổi lên vào một ngày năm tôi bảy tuổi, trong lúc tôi đang dùng một chồng khối chữ vuông cũ để xây một ngọn tháp. Tôi thản nhiên nhận xét với mẹ rằng màu của chúng sai hết cả. Lúc ấy chúng tôi mới phát hiện ra rằng vài chữ cái của bà cũng có sắc độ giống tôi và rằng, ngoài ra bà còn có ảnh hưởng thị giác từ các nốt nhạc nữa. Nốt nhạc không hề gợi chút ảo giác màu sắc nào nơi tôi cả. Tôi rất tiếc phải nói rằng âm nhạc chỉ tác động lên tôi như một chuỗi ngẫu nhiên những âm thanh ít nhiều mang lại sự khó chịu. Trong vài tình huống cảm động nhất định, tôi có thể chịu được những đoạn bộc phát của tiếng vĩ cầm réo rắt, nhưng buổi hòa nhạc dương cầm và cả bộ nhạc cụ hơi nếu chơi ít thì làm tôi chán, còn chơi nhiều thì chẳng khác nào đánh tôi. Bất chấp số buổi nhạc kịch tôi đã bị ép phải xem mỗi mùa đông (chắc hẳn tôi đã dự khán vở Ruslan và Pikovaya Dama ít nhất một tá lần trong khoảng thời gian bằng nửa số ấy), phản ứng yếu ớt của tôi với âm nhạc đã hoàn toàn bị đánh bại bởi sự tra tấn thị giác khi không tài nào đọc qua vai Pimen hay vô phương tưởng tượng ra loài bướm đêm trong vườn hoa nở muộn của nàng Juliet.

Mẹ tôi đã làm mọi cách để khuyến khích tính nhạy cảm chung của tôi với sự kích thích từ thị giác. Mẹ đã vẽ biết bao nhiêu bức tranh thủy mặc cho tôi; khoảnh khắc hé lộ khi bà cho tôi xem một cây hoa tử đinh hương mọc ra từ hỗn hợp màu xanh dương và đỏ mới tuyệt làm sao! Đôi khi, trong ngôi nhà ở St. Petersburg của chúng tôi, từ một ngăn bí mật trên tường phòng thay quần áo của mẹ (hay phòng sơ sinh của tôi), bà sẽ mang ra một bộ trang sức quý để hầu chuyện trước khi đi ngủ cho tôi. Hồi ấy tôi còn rất nhỏ, và những chiếc vương miện, chuỗi vòng đeo cổ và nhẫn lấp lánh ấy với tôi dường như chẳng hơn gì về mặt bí hiểm và kỳ ảo so với đèn đuốc trong thành phố giữa những lễ hội hoàng gia, khi ấy, giữa màn đêm đông tĩnh lặng, những họa tiết chữ lồng khổng lồ, những vương miện và hình biểu trưng khác được kết từ đèn điện màu – ngọc bích, lục bảo, hồng ngọc – sẽ rực sáng với một kiểu kiềm chế quyến rũ bên trên những chóp mái tuyết phủ của các ngôi nhà mặt tiền trong khu dân sinh.

2

Vô số bệnh tật hồi nhỏ của tôi như một sợi dây liên kết vô hình khiến mẹ và tôi lại gần nhau hơn. Hồi còn là đứa trẻ, tôi cho thấy một năng lực khác thường với môn toán, cũng là môn năng khiếu bẩm sinh của tuổi trẻ mà tôi đã để mất hoàn toàn. Tài năng này đóng một vai khủng khiếp trong những cuộc vật lộn của tôi với cơn viêm họng hay sốt phát ban, khi tôi cảm thấy những trái cầu khổng lồ hay những con số vĩ đại không ngừng phồng lên bên trong bộ não đang đau nhức của tôi. Một gia sư ngốc nghếch đã giải thích toán logarit với tôi quá sớm, và tôi đã đọc được (trong một phiên bản tiếng Anh cuốn Boy’s Own Paper, tôi tin là vậy) về một thợ tính nhẩm người Hindu đã có thể tính chính xác căn mười bảy của 3529471145760275132301897342055866171392 chẳng hạn (tôi không chắc là tôi nhớ đúng số này; dù sao thì căn của nó là 212). Một con số như thế chính là quái vật sinh sôi nảy nở trong cơn sảng của tôi, và cách duy nhất để ngăn chúng khỏi đè chết tôi chính là giết chúng bằng cách moi trái tim chúng ra. Nhưng chúng lại quá khỏe, và tôi sẽ ngồi dậy mà vật vã lắp ghép câu cú để cố giải thích mọi việc cho mẹ mình. Đằng sau những cơn sảng của tôi, bà nhận ra những cảm xúc mà chính bà cũng biết đến, và hiểu biết của bà sẽ mang vũ trụ bị phình to của tôi quay trở lại trạng thái hệ Newton bình thường.

Các vị chuyên gia tương lai trong một môn tri thức văn học ngu dốt như ngành đạo văn hẳn sẽ thích so sánh các trải nghiệm của nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết The Gift của tôi với sự kiện có thật. Một ngày nọ, sau trận ốm dài, trong lúc vẫn còn rất yếu ớt và nằm trên giường bệnh, tôi bỗng được đắm mình trong một trạng thái nhẹ bẫng và an yên đến lạ. Tôi biết mẹ đã đi mua cho tôi một món quà, như mỗi ngày trước đó, để khiến quá trình hồi phục của tôi vui hẳn lên. Lần này sẽ là gì thì tôi không thể đoán được, nhưng xuyên qua mặt kính pha lê trong tình trạng trong suốt kỳ lạ của mình, tôi có thể mường tượng rõ ràng cảnh bà đi xe dọc phố Morskaya về phía đại lộ Nevski. Tôi phân biệt được chiếc xe trượt loại nhẹ được một chú ngựa lông màu hạt dẻ kéo. Tôi nghe tiếng chú khụt khịt thở, tiếng nhịp vỗ đều đặn chỗ bìu, và tiếng những mẩu đất đóng băng và tuyết va đập vào mặt trước xe ngựa. Trước mắt tôi, và cũng là trước mắt mẹ, nổi lên phần lưng của người đánh xe ngựa, trong bộ áo choàng xanh độn dày khừ, và chiếc đồng hồ bọc da (2 giờ 20 phút) gài vào phía sau thắt lưng anh ta, bên dưới nó là hai bờ mông nhồi to sụ như hai quả bí ngô. Tôi trông thấy chiếc khăn lông hải cẩu của mẹ, khi tốc độ lao qua giá lạnh tăng lên, tôi thấy cả bao tay lông mẹ giơ lên mặt – cái cử chỉ duyên dáng trong cuốc xe ngựa mùa đông của một quý bà St. Petersburg ấy. Hai mảnh da gấu lớn che cho bà đến tận eo được gắn bằng móc khóa với hai tay nắm ở phía sau lưng ghế bà ngồi. Đằng sau lưng bà, tóm lấy hai tay nắm này là một người hầu nam đội chiếc mũ đính phù hiệu, đứng trên giá để chân rất hẹp phía trên gờ tận cùng của các thanh trượt.

Vẫn còn theo dõi chiếc xe trượt, tôi trông thấy nó dừng lại ở cửa hàng của ông Treumann (dụng cụ viết lách, các quả bóng bằng đồng, những bộ bài tây). Rất nhanh, mẹ tôi đi ra khỏi cửa hàng ấy với người hầu nam theo sau. Anh ta cầm món đồ bà đã mua, nhìn từ chỗ tôi thì thấy nó giống một chiếc bút chì. Tôi đã kinh ngạc khi thấy mẹ còn không tự cầm cả đến món đồ nhỏ như thế, và câu hỏi không bằng lòng này về kích thước đồ vật đã một lần nữa đem lại “tác dụng phình to trong tâm trí”, dù may mắn là rất chóng vánh, mà tôi đã hy vọng là nó đã biến đi cùng cơn sốt. Trong lúc bà được cài chăn lần nữa bên trong chiếc xe trượt, tôi ngắm làn hơi nước được tất cả thở ra, kể cả chú ngựa. Tôi cũng ngắm cái động tác trề môi thường thấy mà mẹ vẫn làm để hẩy tấm mạng che bằng voan móc đang bám quá chặt trên mặt bà, và trong lúc tôi viết xuống điều này, vẻ êm dịu qua tấm lưới che mà cặp môi tôi từng cảm nhận được khi tôi hôn vào bờ má che mạng của bà lại quay về - bay về với tôi với tiếng hét sướng vui từ quá khứ mang màu xanh-tuyết, đóng khung trong cửa sổ xanh (mà tấm rèm còn chưa kéo hẳn).

Vài phút sau, mẹ vào phòng tôi. Trên tay bà là một gói hàng lớn. Trong ảo ảnh tôi trông thấy nó đã bị giảm đi rất nhiều về kích thước – có lẽ bởi từ trong tiềm thức tôi đã tự căn chỉnh lại thứ mà lôgíc đã cảnh báo với tôi đó vẫn là những vụn vỡ đáng sợ của thế giới phình to trong cơn mê sảng. Lúc này, vật thể ấy hóa ra là chiếc bút chì Faber đa giác khổng lồ, dài tới một mét hai và cũng dày không kém. Nó đã được treo ở cửa sổ cửa hàng làm đồ trưng bày, và mẹ đã giả định rằng tôi muốn có nó, cũng như tôi đã muốn có mọi thứ không phải để bán khác. Người bán hàng đã buộc phải gọi đến một ông đại diện, một “bác sĩ” Libner nào đó (cứ như giao dịch này mang mức độ nghiêm trọng nào đó về mặt bệnh học vậy). Trong một giây kinh khủng, tôi đã tự hỏi có phải ngòi bút được làm từ đá gra-phít chăng. Quả đúng là vậy. Và vài năm sau đó, tôi đã tự thỏa mãn bản thân bằng cách khoan một cái lỗ ở bên sườn bút, khiến ngòi chì rơi thẳng ra ngoài qua chiều dài của cây bút – một minh chứng hoàn hảo cho nghệ thuật vị nghệ thuật về phía hãng Faber và bác sĩ Libner, bởi chiếc bút chì quá to, không thể dùng được, và thực sự cũng không được làm ra để ai dùng.

“Ồ phải.” Bà sẽ nói khi tôi nhắc đến chuyện đó hay một cảm giác khác thường nào đó. “Phải, mẹ biết tất cả.” Và với vẻ ngây thơ có phần đáng sợ, mẹ sẽ bàn về những việc như hình ảnh kép, những tiếng gõ nhẹ bên trong gỗ của chiếc bàn ba chân, và cả những linh cảm, những lần cảm nhận déjà vu1. Dấu vết của khuynh hướng tôn giáo tồn tại trong các vị tổ tiên trực tiếp của bà. Bà chỉ tới nhà thờ vào dịp Lễ Mùa chay và Lễ Tạ ơn. Tâm trạng ly giáo của bà tự thể hiện trong nỗi chán ghét nhưng vô hại với các nghi thức của nhà thờ Công giáo Hy Lạp và các tu sĩ của nó. Bà cảm thấy bị hấp dẫn sâu sắc bởi đạo đức và khía cạnh nên thơ của Tin lành, nhưng lại không cảm thấy cần thiết phải tìm sự trợ giúp từ một tín đồ nào. Sự bất an đáng sợ của cuộc sống sau cái chết và việc thiếu sự riêng tư của nó không hề len lỏi được vào những ý nghĩ của bà. Lòng sùng đạo mãnh liệt và thuần khiết của bà nằm dưới dạng niềm tin tương đương nhau về sự tồn tại của một thế giới khác, và sự bất khả tri về thế giới đó trong những điều kiện của cuộc sống dưới mặt đất này. Tất cả những gì người ta làm được chỉ là thoáng trông thấy, giữa những giây phút hoang mang và ảo tưởng, một thứ gì đó có thực ở phía trước, cũng như những ai được phú cho khả năng suy tưởng suốt ngày đêm một cách bền bỉ khác thường mới có thể hiểu được trong giấc ngủ sâu nhất của họ cái thực tại trật tự của những giờ khắc tỉnh táo, ở đâu đó xa hơn những cơn ác mộng khổ sở đầy rối rắm và vô lý.

1 Cảm giác sự vật, sự việc quen thuộc như đã từng gặp hoặc mơ thấy trước đó.

3

Yêu thương bằng tất cả linh hồn của một người và để phần còn lại cho số phận chính là quy luật đơn giản mà mẹ tuân theo. “Vot zapomni1”, bà sẽ nói bằng giọng bí ẩn khi thu hút sự chú ý của tôi vào thứ đáng yêu này, hay thứ kia ở Vyra – một chú chim chiền chiện đang tung cánh bay lên bầu trời màu phô mai và sữa chảy trong một ngày xuân u ám, tia sét lóe lên giống như chụp ảnh cho một hàng cây ở xa xa trong bóng tối, bảng màu lá phong trên nền cát nâu, dấu chân hình cái nêm của một chú chim nhỏ trên lớp tuyết mới. Như thể bà đã linh cảm được trong vài năm tới, cái phần hữu hình trong thế giới của mình sẽ héo tàn; bà miệt mài trau dồi cảm thức phi thường về những dấu ấn của các khoảng thời gian khác nhau đang được phân phát khắp vùng đất thôn quê của chúng tôi. Bà trân trọng quá khứ của chính mình với cùng nhiệt huyết hoài cổ, giống như lúc này tôi đang làm với hình ảnh bà và quá khứ của tôi. Thế nhưng, theo một cách nào đấy, tôi đã được thừa kế một giả thể cực kỳ tinh tế – vẻ đẹp của một đặc tính mơ hồ, một trạng thái phi thực – và điều này hóa ra lại là sự luyện tập tuyệt hảo cho sức chịu đựng những mất mát về sau này. Những mẩu ký ức và dấu vết của bà trở nên thân thương và thiêng liêng với tôi y như chúng với bà. Có một căn phòng mà ngày xưa từng được giữ lại cho thú vui yêu thích của mẹ bà, một phòng thí nghiệm hóa học; có một cây đoan đánh dấu địa điểm, nằm bên lề con đường dốc lên phía làng Gryzano (trọng âm rơi vào âm tiết cuối), ở chỗ dốc nhất nơi ai đó sẽ muốn cầm vào “còi xe đạp của ai đó” (bika za roga) như cha tôi, một người đạp xe nhiệt thành, thường hay kể, và cũng là nơi ông đã cầu hôn; và ở nơi được gọi là công viên “cũ”, còn có cái sân quần vợt cổ lỗ sĩ, giờ đã thành lãnh địa của rêu phong, đống đất đùn của chuột chũi, và nấm, đây từng là nơi diễn ra những trận tranh tài vui vẻ hồi những năm tám mươi và chín mươi (kể cả người cha nghiêm nghị của bà cũng sẽ cởi áo khoác và dành cho cây gậy vợt nặng nề nhất một cú lắc đáng giá), nhưng nó cũng là nơi mà đến tầm tôi lên mười thì thiên nhiên đã xóa sổ nó hoàn toàn bằng sự triệt để như miếng giẻ nỉ tẩy sạch một bài toán hình học trên bảng.

1 Giờ thì nhớ nhé

Đến lúc ấy, một cái sân hiện đại đã được hoàn thiện ở cuối khu “mới” trong công viên bởi các công nhân lành nghề đến từ Ba Lan, được thuê về phục vụ mục đích ấy. Tấm lưới kim loại của hàng rào rộng đã ngăn cách nó với cánh đồng hoa bao quanh lớp đất nện của nó. Sau một đêm ẩm ướt, bề mặt sân thu được ánh màu nâu bóng lưỡng và những vạch kẻ trắng sẽ được Dmitri sơn lại bằng phấn lỏng trong một chiếc thùng màu xanh. Ông ta là người nhỏ con nhất và già nhất trong đám thợ làm vườn của nhà tôi, chú lùn mặc áo sơ mi đỏ dễ bảo, đi ủng đen ấy sẽ chậm rãi đi lùi, lưng gù lên, trong lúc chổi sơn của ông vẽ xuống một đường. Một hàng rào đậu vàng (“cây keo vàng” của miền Bắc nước Nga), có lối mở ở giữa tương ứng với cửa lưới của sân quần vợt chạy song song với rào lưới và thẳng tới đoạn đường đất được gọi là tropinka Sfinksov “Con đường bướm Sphingid” vì những chú ngài vẫn thường ghé thăm mấy đóa hoa tử đinh hương mịn màng dọc đường biên đối diện hàng rào vào xẩm tối, cũng bị đứt đoạn ở giữa tương tự như vậy. Con đường này tạo thành thanh ngang trên chữ T lớn, có cột thẳng đứng là hàng sồi mảnh mai cùng tuổi với mẹ tôi, hàng cây phân định (như đã nêu ở trên) phần công viên mới bằng toàn bộ chiều dài của nó. Khi đứng từ đáy chữ T nhìn xuôi đại lộ gần lối lái xe, người ta có thể trông rõ khoảng hở nhỏ sáng rỡ khá dễ phân biệt ở cách đó chừng năm trăm mét – hay chừng năm mươi năm sau như tôi lúc này. Vị gia sư lúc đó hoặc là cha tôi, mỗi khi tới ở cùng chúng tôi dưới quê, ông luôn chọn em trai tôi để làm bạn đánh cặp trong các ván đấu đôi thất thường của gia đình. “Bắt đầu!” Mẹ tôi sẽ hô theo kiểu cũ lúc bà đưa bàn chân nhỏ lên trước và nghiêng nghiêng mái đầu đội mũ trắng để tung ra cú giao bóng bền bỉ nhưng yếu sức. Tôi rất dễ nổi cáu với bà, còn mẹ thì nổi cáu với các cậu bé nhặt bóng, hai thằng nhóc chân trần nhà nông dân (đứa cháu trai mũi tẹt của ông Dmitri và cậu anh song sinh của Polenka, con gái người đánh xe chính). Mùa hạ ở phương Bắc trở thành mùa hạ nhiệt đới quanh thời điểm vụ mùa. Chú bé Sergey đỏ lựng sẽ kẹp vợt của mình giữa hai đầu gối và hì hục lau kính. Tôi trông thấy chiếc vợt bướm của mình được dựng cạnh rào – chỉ để phòng hờ. Cuốn sách của Wallis Myers về quần vợt sân cỏ nằm mở trên ghế băng, và sau mỗi hồi đánh trả cha tôi (một tay vợt hạng nhất với cú giao bóng mạnh như súng đại bác kiểu của Frank Riseley và một cú “hất bóng lên” cực đẹp) sẽ hỏi tỉ mỉ cả tôi và em trai liệu cái trạng thái duyên dáng của “động tác tiếp nối” ấy đã nhập vào chúng tôi chưa. Và đôi khi một cơn mưa rào bất chợt sẽ khiến chúng tôi phải núp né dưới một chỗ trú ở góc sân trong lúc ông già Dmitri được cử đi lấy vội mấy chiếc ô và áo mưa từ nhà chính. Khoảng mươi mười lăm phút sau, ông ta sẽ tái xuất hiện dưới một chồng quần áo ở đường chân trời trên đại lộ dài mà ngay trong lúc ông bước lên trước đã lại có những đốm lấm chấm của ánh mặt trời tỏa rạng như mới, và cái đống to lớn trên tay ông thành vô dụng.

Mẹ yêu thích mọi trò chơi liên quan đến kĩ năng và đánh cược. Dưới đôi bàn tay chuyên nghiệp của bà, hàng ngàn mẩu tranh ghép sẽ dần thành hình một cảnh đi săn; thứ trông tưởng như một chi của ngựa hóa ra lại thuộc về một cây du, hay một mảnh không biết đặt vào đâu lại khớp vừa vặn với lỗ hổng ở nền tranh lốm đốm, cho phép ta hưởng niềm vui tinh tế của một sự thỏa mãn tưởng mơ hồ nhưng vẫn rõ rành rành. Có lúc, mẹ từng rất thích chơi bài tố, một môn đến với giới thượng lưu St. Petersburg thông qua đường ngoại giao, do đó vài cặp bài đi kèm với những cái tên Pháp điệu đàng như – brelan cho “bộ ba cùng số”, couleur1 cho “thùng phá” và vân vân. Cách chơi ở đây là “rút bài” thông thường, thỉnh thoảng có thêm sự phấn khích của trò xổ số và quân phăng teo tự do tự tại. Trong thành phố, mẹ thường chơi bài tố ở nhà bạn đến tận 3 giờ sáng, một sự tái tạo lại giới thượng lưu trong những năm tháng cuối cùng trước Đại chiến thứ nhất; và sau này, trong cảnh lưu đày, mẹ thường tưởng tượng ra (với cùng một vẻ băn khoăn và buồn bã như lúc bà nhớ lại già Dmitri) cảnh anh đánh xe Pirogov, người dường như vẫn đang chờ đợi bà trong màn đêm bất tận lạnh buốt của năm nào, mặc dù, trong trường hợp của anh, một tách trà pha rum bên trong căn bếp mến khách nào đấy chắc hẳn đã giúp anh khuây khỏa nhiều phần những buổi canh đêm kia.

1 Săn nấm

Một trong những trò vui lớn nhất của mẹ trong mùa hè lại là một môn thể thao rất Nga, hodit’ po gribi1. Chiên ngập bơ và rưới đậm kem chua, những khám phá ngon lành của bà xuất hiện thường xuyên trên bàn ăn tối. Nhưng không hẳn những phút giây thuộc về vị giác ấy có ý nghĩa gì nhiều. Niềm vui chính của bà nằm ở cuộc truy lùng, và cuộc săn này lại có những quy tắc riêng. Do đó, không một cây nấm tán nào bị nhổ đi; tất cả những gì bà nhặt là các loại thuộc họ nấm ăn được Boletus (edulis hung hung, scaber màu nâu, auraniacus màu đỏ, và vài anh em gần của nó), vài người gọi chúng là “nấm ống”, còn các nhà nấm học thì định nghĩa một cách lạnh lùng là “loài nấm mọc trên đất, thịt dày, đang mục rữa, có một chân thẳng ở giữa.” Chiếc mũ nấm gọn ghẽ - khít chặt ở những cây nấm non và tỏa ra căng tràn ngon lành ở những cây nấm chín – có bề mặt bên dưới rất mịn (chứ không bị chia khía) và một cái cuống chặt chẽ, chắc chắn. Ở thể giản đơn kinh điển, nấm thông khác đáng kể với “nấm đích thực”, với mặt lá tia lố bịch và vòng nấm yếu ớt. Tuy nhiên, chính với loại sau này, các loại nấm tán tầm thường và xấu xí, mà các quốc gia có vị giác nhút nhát hơn đã giới hạn kiến thức và khẩu vị của họ, thành ra trong tâm trí những người Mỹ gốc Ăng-lô bình thường thì món nấm thông quý tộc kia cùng lắm cũng chỉ là một loại nấm tán được cải thiện.

Trời mưa sẽ kích những cái cây xinh đẹp này nở rộ bên dưới tán linh sam, bạch dương và cây dương trong công viên của chúng tôi, đặc biệt là ở phần cũ hơn nằm về phía Đông đường đánh xe chia đôi hai nửa công viên. Lúc này phần đất rậm rạp của nó sẽ vương mùi nấm thông đặc biệt, loại khiến hai lỗ mũi của dân Nga phải nở ra ấy – một thứ mùi hòa quyện đậm đặc, ẩm ướt của rêu ẩm, đất màu, lá cây mục. Nhưng người ta sẽ phải ngó nghiêng, chọc ngoáy kha khá lâu trong lớp đất ẩm trước khi một thứ gì đó thật sự ngon lành, như một họ nhà nấm bé edulis đội mũ hay scaber vằn vện cẩm thạch, có thể được phát hiện và cẩn thận lôi nó lên từ lòng đất.

Trong những buổi chiều u ám, chỉ một thân một mình trong cơn mưa, mẹ tôi, tay xách chiếc giỏ (bị ố xanh ở bên trong do việt quất của ai đó), sẽ thực hiện một chuyến hái nấm thật dài. Đến gần giờ ăn tối, người ta có thể thấy bà xuất hiện từ cuối một lối đi u ám nào đó trong công viên, thân hình bé nhỏ của mẹ đã ướt sũng dưới chiếc mũ trùm bằng len màu xanh-nâu, vương trên ấy là vô vàn những giọt nước đọng tạo ra một quầng sương xung quanh bà. Khi bà tiến lại gần hơn từ bên dưới những tán cây đang nhỏ nước và thoáng trông thấy tôi, khuôn mặt bà sẽ hiện ra một biểu cảm kỳ lạ, không vui không buồn, ai đó có thể nghĩ ấy là dấu hiệu của việc gặp điều rủi, nhưng tôi thì biết đấy là biểu hiện của diễm phúc căng tràn, được kiềm chế một cách đáng ghen tị của người thợ săn đã thành công. Ngay trước khi đến chỗ tôi, với một cử động thả cánh tay và vai đột ngột kèm một tiếng thở “Phào!”, biểu hiện kiệt sức đã được cường điệu, mẹ sẽ thả cái túi xuống hòng nhấn mạnh trọng lượng và sự đầy ắp tuyệt vời của nó.

Ở gần một chiếc ghế băng màu trắng trong vườn, trên chiếc bàn tròn bằng sắt, mẹ sẽ xếp các cây nấm thông thành những vòng tròn đồng tâm để đếm và phân loại chúng. Những cây nấm già với lớp thịt phồng, xỉn màu sẽ bị loại, chỉ còn những cây nấm non và nấm khô. Trong một thoáng, trước khi gia nhân nào đó ôm chúng tới một nơi mà bà không hề rành rẽ, rồi làm nên một cái kết mà bà chẳng mấy quan tâm, mẹ sẽ đứng đó ngưỡng mộ chúng, với sự thoả nguyện trầm mặc. Như vẫn thường xảy ra ở cuối một ngày mưa gió, vầng dương sẽ tỏa một tia sáng xanh nhợt xuống ngay trước khi lặn hẳn, và ở đó, trên chiếc bàn tròn ẩm ướt, những cây nấm của mẹ sẽ nằm đó, rực rỡ sắc màu, vài cây vẫn còn mang dấu ấn của các loài thực vật khác – một cọng lá dính vào cái mũ nâu dính dấp, hay cọng rêu vẫn còn bọc quanh chỗ gốc phình ra của cuống nấm lấm chấm đen. Rồi còn có cả một chú sâu đo tí hon ở đó, đang đo mép bàn như một ngón tay và ngón cái của đứa trẻ con, thỉnh thoảng chú lại vươn thẳng người lên trên, mò mẫm trong vô vọng để kiếm tìm bụi cây mà từ đó chú đã bị ngã xuống.

4

Khu bếp và sảnh của gia nhân không những không bao giờ được mẹ tôi lai vãng, mà với tiềm thức của bà, chúng còn xa vời y như dãy phòng liền kề trong một khách sạn vậy. Cha tôi cũng không hề có thiên hướng tề gia chút nào, nhưng ông có yêu cầu cho các bữa ăn. Với một tiếng thở dài khẽ, ông sẽ mở một cuốn sổ do người quản gia đặt trước mặt trên bàn ăn tối sau món tráng miệng và viết xuống bằng nét chữ sang trọng, uốn lượn của mình thực đơn cho ngày hôm sau. Cha có một thói quen lạ là thường để bút chì hay bút máy của mình rung rinh một chút ngay bên trên mặt giấy trong lúc ông ngẫm nghĩ các chữ tiếp theo. Mẹ tôi sẽ gật đầu hàm ý chấp nhận với gợi ý của ông, hoặc làm một cái nhăn mặt. Trên danh nghĩa, việc quản lý nhà cửa nằm trong bàn tay của cựu nhũ mẫu của bà, vào lúc ấy đã là một bà già mắt mờ, nhăn nheo khủng khiếp (bà sinh ra trong kiếp nô lệ khoảng năm 1830) với khuôn mặt nhỏ nhắn của một chú rùa cô đơn và đôi bàn chân to lớn như phải kéo lê mỗi khi di chuyển. Bà mặc một chiếc váy nâu kiểu nữ tu và tỏa ra mùi cà phê cùng mùi mục nát rất nhẹ nhưng khó quên. Lời chúc mừng đáng sợ của bà dành cho các ngày Lễ Sinh nhật và Lễ Tên thánh của chúng tôi là một nụ hôn kiểu nông nô vào vai. Tuổi tác đã làm nảy sinh tâm bệnh keo kiệt nơi bà, đặc biệt khi liên quan đến đường và các loại mứt, đến mức dần dần, cùng với sự ủng hộ của cha mẹ tôi, những sắp xếp khác trong nhà đã lặng lẽ được thực thi sau lưng bà. Không hề biết đến điều này (hiểu biết ấy sẽ làm tan vỡ trái tim bà), bà vẫn còn bám lấy vị trí như cũ, từ chùm chìa khóa riêng của chính bà, trong lúc mẹ tôi làm hết sức để xoa dịu bằng những lời lẽ làm an lòng mối nghi ngờ thi thoảng vẫn nổi lên trong tâm trí yếu ớt của người phụ nữ ấy. Là nữ chủ nhân duy nhất trong vương quốc nhỏ bé, hẻo lánh và mốc meo của mình, như bà vẫn nghĩ là thật (chắc hẳn chúng tôi sẽ chết đói nếu đó là thật), bà bị đám đầy tớ và hầu gái nhìn theo bằng những ánh mắt giễu cợt trong lúc nặng nề lê bước trên những hành lang dài để giấu đi nửa quả táo hay một đôi chiếc bánh quy Petit-Beaurre đã vỡ mà bà tìm thấy trên một cái đĩa.

Trong lúc ấy, với số gia nhân thường trực khoảng năm mươi người và không ai thắc mắc gì, gia hộ ở thành phố cũng như nông thôn của chúng tôi là một khung cảnh hoạt náo vui vẻ của trò trộm cắp. Trong hoàn cảnh đó, theo lời các bà cô già nhiều chuyện, những người không được ai để tâm nhưng hóa ra đã nói đúng, thì bếp trưởng Nikolay Andreevich và tổ trưởng thợ làm vườn Egor chính là những kẻ chủ mưu, cả hai đều là mẫu đàn ông lầm lì, đeo kính, tóc mai hoa râm kiểu gia nhân mẫu mực. Khi bắt gặp những hóa đơn lạ lùng và khó hiểu, hay việc đột nhiên chẳng còn tí dâu tây từ vườn hay đào trong nhà kính nào thì cha tôi, một luật gia và nghị viên, sẽ cảm thấy bực dọc về mặt chuyên môn khi không thể đáp ứng nổi tình hình tài chính của chính gia hộ mình; nhưng mỗi lần có một trường hợp trộm cắp phức tạp nào đó bị lộ ra, thì lại có những đắn đo hay nghi ngại về pháp lý nào đó ngăn ông làm bất kỳ điều gì với nó. Khi lý lẽ thông thường đòi hỏi ông phải sa thải một gia nhân láo toét, thì đứa con trai nhỏ của ông ta gần như chắc chắn sẽ lâm trọng bệnh, và thế là quyết tâm tìm bằng được những bác sĩ giỏi nhất thị trấn cho thằng bé ấy sẽ hủy luôn mọi cân nhắc khác. Vậy là, vì các lý do này khác, cha tôi thà để mặc toàn bộ tình hình quản lý gia đình trong trạng thái cân bằng mong manh ấy (không phải là không có chút hài hước âm thầm), trong khi mẹ tôi thì nhận được niềm an ủi đáng kể từ niềm hy vọng là thế giới ảo tưởng thời thơ bé xưa kia của bà sẽ không bị vỡ vụn.

Mẹ tôi biết rõ việc vỡ mộng có thể đau đớn nhường nào. Một nỗi thất vọng vặt vãnh nhất với bà cũng mang tầm cỡ của một thảm họa lớn. Một đêm Giáng sinh nọ, ở Vyra, không lâu trước khi đứa con thứ tư của bà ra đời, mẹ vô tình lâm bệnh nhẹ và đã bắt em trai và tôi (một đứa lên năm, đứa kia lên sáu) phải hứa không được nhòm vào mấy chiếc tất Giáng sinh mà chúng tôi sẽ tìm thấy đang treo trên tấm phản đầu giường sáng hôm sau, mà phải mang chúng tới phòng mẹ và xem ở đó, để bà có thể chứng kiến và hưởng thụ niềm vui của chúng tôi. Ngay lúc thức dậy, tôi đã làm cuộc tham vấn ngầm với em trai, sau đó, bằng đôi bàn tay háo hức, mỗi đứa chúng tôi lại cảm nhận được chiếc tất đang xóc xách vui tươi của mình, nhét đầy những món quà nhỏ; rồi chúng tôi cẩn trọng lấy ra từng thứ trong ấy, tháo ruy- băng, mở hé lớp giấy bọc và khám phá mọi thứ trong ánh sáng yếu ớt chiếu vào từ khe rèm, buộc lại những món quà nhỏ bé ấy và nhồi chúng vào nơi chúng đã ở. Tôi nhớ lại sau đó chúng tôi đang ngồi trên giường của mẹ, ôm hai chiếc tất cồng kềnh ấy và gắng hết sức biểu diễn màn kịch mà bà muốn xem; nhưng chúng tôi đã làm lộn xộn lớp giấy gói quá nhiều, giả vờ hồ hởi ngạc nhiên quá kém (tôi còn trông thấy em trai đánh mắt lên trên mà gào lên, một cách bắt chước cô gia sư người Pháp mới của chúng tôi, “Ah, que c’est beau1!”), và như thế, sau khi quan sát chúng tôi một thoáng, vị khán giả của chúng tôi đã bật khóc nức nở. Một thập kỷ đã trôi qua. Đại chiến thứ nhất bắt đầu. Một nhóm người yêu nước cùng ông bác Ruka của tôi ném đá vào Đại sứ quán Đức. St. Petersburg hạ xuống thành Petrograd bất chấp mọi quy tắc ưu tiên thuộc danh pháp học. Beethoven hóa ra là người Đức. Các bản tin thời sự chứa những bức ảnh chụp các vụ nổ, những phát đại bác rời nòng, Poincaré trong chiếc quần bó sát bằng da, những vũng lầy đen đúa, Tsarevich nhỏ bé tội nghiệp trong bộ quân phục của người Circassia, kèm cả dao găm và băng đạn; các cô chị gái cao lớn của cậu ăn vận hết sức luộm thuộm; những toa tàu hỏa dài dằng dặc chất đầy lính tráng. Mẹ tôi đã dựng cả một bệnh viện riêng dành cho binh lính bị thương. Tôi nhớ bà, trong kiểu váy đồng phục xám và trắng của y tá mà bà ghét cay ghét đắng, đang tố cáo, với cùng những giọt nước mắt trẻ thơ ấy, sự trì độn không thể thay đổi được của các nông dân bị què, và sự kém hiệu quả của các bà các cô làm từ thiện bán thời gian. Ấy vậy mà, sau này trong lúc đi biệt xứ, hồi tưởng lại quá khứ, mẹ vẫn thường tự trách mình (một cách không công bằng như bây giờ tôi thấy) vì ít bị tác động bởi những nỗi thống khổ của con người hơn là bởi đám phiền muộn mà loài người đã thảy vào thiên nhiên vô tội – những cái cây già, con ngựa, con chó già nua.

1 A, đẹp làm sao!

Niềm yêu thích đặc biệt của bà dành cho giống lạp xưởng lông nâu làm ngứa mắt đám bà cô khó chịu của chúng tôi. Trong cuốn album gia đình minh họa thời niên thiếu của mẹ, hiếm có một tấm nào không bao gồm một con của giống loài này – thường là với một bộ phận nào đó trên thân thể mềm dẻo của nó bị mờ và trong các bức ảnh các con lạp xưởng này luôn có cặp mắt lạ lẫm, kỳ quái. Một đôi chó già béo phị, Box I và Loulou, vẫn còn lăn lộn trong nắng trên hiên nhà hồi tôi còn bé. Vào lúc nào đó trong năm 1904, tại hội chợ chó ở Munich, cha tôi đã mua về một chú chó con, về sau trưởng thành thành con Trainy rất xấu tính nhưng lại cực kỳ đẹp trai (tôi đặt cho chú ta cái tên đó do nó vừa dài lại có màu nâu y như một toa tàu nằm). Một trong những điệu nhạc chủ đề cho tuổi thơ tôi chính là tràng sủa kích động của Trainy, trong lúc theo đuôi con thỏ mà chú ta không bao giờ bắt được, ở sâu trong công viên tại Vyra, mà từ đó vào lúc xẩm tối chú sẽ quay về (sau khi sau khi mẹ tôi đã phải đứng huýt gió cả một lúc lâu trên đại lộ cây sồi trong sự lo lắng) cùng với cái xác cũ của một con chuột trũi ngậm trong hàm và đầy quả gai cài trong tai. Khoảng năm 1915, cặp chân sau của chú bị tê liệt, cho đến tận lúc đã bị đánh thuốc mê, chú ta vẫn sẽ rầu rĩ lê mình trên sàn lát gỗ dài, bóng lưỡng như một cul de jatte1. Rồi ai đó cho chúng tôi một chú chó con khác, Box II, mà cặp ông bà của chú là Quina và Brom của bác sĩ Anton Chekhov. Chú chó lạp xưởng cuối cùng này theo chân chúng tôi vào cảnh tha hương, và mãi đến năm 1930, ở vùng ngoại ô Prague (nơi người mẹ góa bụa của tôi trải qua những năm cuối đời, sống dựa vào khoản hưu trí nhỏ do chính phủ Séc cung cấp), người ta vẫn có thể bắt gặp chú trong những cuộc đi dạo bất đắc dĩ với nữ chủ nhân của mình, lê bước ở mãi tít phía sau trong cơn gắt gỏng, chú đã già khủng khiếp và bực tức với cái lưới rọ mõm dài kiểu Séc của mình – một chú chó di dân trong chiếc áo khoác vá víu và không vừa vặn.

1 Người cụt chân.

Trong hai năm cuối ở Cambridge của chúng tôi, em trai tôi và tôi thường dành các kỳ nghỉ ở Berlin, nơi cha mẹ chúng tôi cùng hai đứa con gái và cậu em Kirill mười tuổi cư trú, tại một trong những căn hộ rộng rãi, u ám, toát ra vẻ tư sản rành rành mà tôi đã dựng cho biết bao gia đình di dân trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của mình. Vào đêm ngày 28 tháng Ba năm 1922, quãng 10 giờ, trong phòng khách nơi mẹ tôi thường rút lui vào chiếc trường kỷ bọc nệm đỏ ở góc phòng, tôi vô tình đang đọc cho bà nghe bản tiếng Ý của thơ Blok - mới chỉ vừa đến đoạn cuối một bài thơ ngắn về Florence, mà Blok so sánh với bông diên vỹ bung nở tinh tế, ươm khói sương, và bà đang nói gì đó bên trên món đồ đan móc, “Đúng thế, đúng, Florence đúng là trông y như một dimniy iris1, tả chính xác làm sao! Mẹ còn nhớ.” Đúng lúc ấy thì điện thoại reo.

1 Diên vỹ khói

Sau năm 1923, khi bà đã chuyển về ở Prague còn tôi sống ở Đức và Pháp, tôi không thể thường xuyên thăm mẹ; tôi cũng không ở bên khi mẹ qua đời, mà hóa ra đó là lại đêm giao thừa của cuộc Đại chiến thứ Hai. Bất kể khi nào tôi sắp xếp đi Prague được, thì lại luôn có một thoáng choáng váng mà người ta có thể linh cảm trước, một cách bất ngờ, nhưng một lần nữa vẫn đeo tấm mặt nạ quen thuộc của nó. Trong những phòng trọ tồi tàn mà bà chia sẻ cùng người bạn đồng hành thân thiết nhất, Evgeniya Konstantinovna Hofeld (1884 - 1957), người đã thay thế cô Greenwood hồi năm 1914 (cô này thì đã thay thế cô Lavington) với tư cách là bảo mẫu cho hai em gái của tôi (Olga, sinh ngày 5 tháng Một năm 1903, và Elena, sinh ngày 31 tháng Ba năm 1906), có những cuốn sổ mà suốt những năm cuối đời mẹ ghi chép các bài thơ yêu thích vào đó, từ Maykov cho tới Mayakovski, chúng nằm rải rác quanh bà trên những món đồ gỗ cũ nát, đầu thừa đuôi thẹo. Một mẫu khuôn hình bàn tay của cha tôi và một bức tranh màu nước vẽ ngôi mộ của ông trong nghĩa trang Nhà thờ Hy Lạp ở Tegel, giờ là Đông Berlin, cùng chia sẻ chiếc kệ gỗ với các cuốn sách của những nhà văn di dân, đã gần đi đến chỗ rụng rời trong mấy cái bìa giấy rẻ tiền của chúng. Một chiếc hộp xà phòng phủ vải xanh lục làm bệ đỡ cho mấy tấm ảnh nhỏ mờ xỉn trong những chiếc khung xộc xệch mà bà thích đặt gần trường kỷ của mình. Bà không thực sự cần đến chúng, bởi chẳng có gì bị mất đi cả. Như một đoàn khách du lịch vẫn mang cùng họ đi khắp mọi nơi, trong khi họ vẫn còn nhớ từng lối đi của mình, nhớ cơn gió hầm hập, một tòa lâu đài mờ sương, một hòn đảo bị ám bởi lời nguyền, vậy là mẹ có bên mình mọi thứ mà tâm hồn bà lưu trữ được. Tôi có thể nhìn thấy rõ rành rành cảnh mẹ đang ngồi bên một chiếc bàn và bình thản ngắm nghía những quân bài trong một trò bài tây: bà khẽ ngả người trên khuỷu tay trái và ấn má mình lên ngón cái của bàn tay trái, cũng bên tay ấy, gần nơi miệng, bà cầm một điếu thuốc trong lúc bàn tay phải vươn về phía quân bài tiếp theo. Ánh lấp lánh đôi trên ngón tay thứ tư của bà là hai chiếc nhẫn cưới – nhẫn của chính bà và nhẫn của cha tôi, bởi nó quá to so với tay bà, nên nó đã được siết lại cho vừa tay bằng một chút chỉ đen.

Bất kể khi nào trong mơ tôi trông thấy người chết, họ luôn xuất hiện một cách lặng lẽ, buồn bực, bị dồn nén một cách kỳ lạ, khá khác biệt với bản tính dịu dàng, tươi vui của họ. Tôi nhận ra họ, mà không có bất kỳ nỗi ngạc nhiên nào, trong khung cảnh mà họ đã chẳng bao giờ ghé thăm trong suốt khoảng thời gian trần thế của họ, ở trong ngôi nhà của người bạn nào đó của tôi mà họ không hề quen. Họ ngồi xa cách, cau mày với sàn nhà, cứ như cái chết là một vết nhơ u tối, một bí mật gia đình đáng hổ thẹn vậy. Chắc chắn rằng không thể là khi đó – trong những giấc mơ – mà là khi một người hoàn toàn tỉnh thức, trong những giây phút tột đỉnh vui mừng và thành công, ở tầng cao nhất của tiềm thức, thì phàm nhân ấy mới có cơ hội hé nhìn vượt những giới hạn của mình, từ đỉnh cột buồm, từ quá khứ và tháp canh trên tòa lâu đài của họ. Và dù không thấy được gì nhiều trong màn sương, bằng cách nào đó ta vẫn có cảm xúc vui sướng như ai đó đang nhìn về đúng hướng.