• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nói đi, ký ức
  3. Trang 4

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 3
  • 4
  • 5
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 3
  • 4
  • 5
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương một

1

Chiếc nôi đung đưa bên trên vực thẳm, và lý lẽ thông thường bảo với chúng ta rằng sự tồn tại của ta chẳng khác nào một tia sáng ngắn ngủi giữa hai miền vĩnh hằng của bóng tối. Dù hai miền vĩnh hằng ấy vốn là một cặp song sinh, nhưng như một quy luật chung, loài người luôn nhìn vào khoảng vực sâu trước khi họ sinh ra với một tâm thế bình tĩnh hơn hẳn quãng vực sâu mà họ đang tiến đến (bằng khoảng bốn ngàn năm trăm nhịp đập của trái tim trên giờ). Tuy vậy, tôi từng biết một chàng trai trẻ mắc hội chứng sợ hãi thời gian, anh ta đã trải qua một cơn kinh hoàng khi lần đầu tiên xem được đoạn phim gia đình được quay lại từ trước ngày anh ra đời vài tuần. Anh đã trông thấy một thế giới gần như không có gì thay đổi – vẫn ngôi nhà ấy, vẫn những con người ấy – và rồi anh nhận ra rằng khi đó mình chưa hề tồn tại và chẳng ai tiếc thương cho sự vắng mặt của mình. Anh ta thoáng bắt gặp hình ảnh mẹ mình vẫy tay từ cửa sổ trên gác, và cử chỉ lạ lẫm ấy làm anh buồn lòng, cứ như đó là một lời tiễn biệt bí ẩn vậy. Nhưng điều thực sự làm anh ta sợ lại chính là chiếc xe nôi mới tinh đang đứng trên hiên nhà với cái vẻ tự phụ và bành trướng như của một chiếc quan tài; ngay cả chiếc xe ấy cũng đang trống không, cứ như sự đảo ngược của chuỗi sự kiện, xương cốt của anh ta đã rụng rời.

Những tưởng tượng như thế không phải là xa lạ với những cuộc đời trẻ trung. Hay nói một cách khác, những điều đầu tiên và cuối cùng đều thường mang hơi hướm tuổi thiếu niên – có lẽ chỉ trừ khi chúng được định hướng bằng một tôn giáo thiêng liêng và cứng nhắc nào đó. Giới tự nhiên mong chờ một con người trưởng thành chấp nhận hai khoảng tối trước và sau ấy một cách thản nhiên như nhau, cũng như anh ta chấp nhận những viễn cảnh phi thường ở khoảng giữa chúng. Trí tưởng tượng, niềm vui tối thượng của kẻ bất tử và bất lão ấy, cần có giới hạn. Hòng tận hưởng sự sống, ta không được hưởng thụ nó quá nhiều.

Tôi kháng cự sự sắp đặt này. Tôi cảm thấy bị thôi thúc bộc lộ những phản kháng của mình ra bên ngoài mà ngáng đường tự nhiên. Hết lần này đến lần khác, tâm trí tôi thực hiện những nỗ lực phi thường để phân biệt những dấu ấn chủ quan dù là nhỏ nhoi nhất trong miền bóng tối khách quan ở cả hai phía của cuộc đời tôi. Một niềm tin tôi sẵn lòng chia sẻ với những kẻ man di sơn mình sặc sỡ nhất, ấy là miền bóng tối này chẳng qua chỉ là hệ quả của những bức tường thời gian ngăn cách tôi và hai nắm đấm bầm dập của mình với thế giới tự do của miền phi thời gian. Tôi đã du hành ngược thời gian trong tâm tưởng – với những suy nghĩ cứ rời rạc dần theo từng bước tôi đi – tới những miền hẻo lánh nhất, nơi tôi mò mẫm tìm một lối thoát bí mật nào đó chỉ để phát hiện ra rằng ngục tù thời gian là một khối cầu không lối thoát. Chỉ trừ có tự sát, tôi đã từng thử mọi cách. Tôi đã vứt bỏ danh tính của mình hòng đúng nghĩa trở thành một bóng ma và lẻn vào những vương quốc vốn tồn tại trước khi tôi được thành hình. Về mặt tinh thần, tôi đã chịu đựng sự bầu bạn hèn hạ của những nữ tiểu thuyết gia và những ông đại tá về hưu từ thời Victoria, những người vẫn còn nhớ được quá khứ tiền kiếp của mình hồi còn làm nô lệ đưa tin trên một con đường ở La Mã hay những nhà hiền triết ngồi dưới cổ thụ ở Lhasa. Tôi đã lục lọi những giấc mơ xưa cũ nhất của mình để tìm chìa khóa và manh mối – và hãy để tôi nói ngay rằng, về cơ bản tôi hoàn toàn khước từ thế giới thời trung cổ thô tục, xộc xệch của Freud, cùng cuộc săn lùng lập dị của nó với những biểu tượng tình dục (chẳng khác nào tìm kiếm thể thơ sắp xếp các chữ cái đầu tiên của Bacon trong những tác phẩm của Shakespeare) và những mầm mống nhỏ đầy cay đắng của nó, đang dò xét đời sống tình ái của cha mẹ chúng từ cái hốc tự nhiên của chúng.

Hồi mới đầu, tôi đã không nhận ra rằng thời gian là một nhà tù, bởi mới nhìn qua nó dường như không có biên giới. Trong lúc nghiền ngẫm về tuổi thơ của mình (một việc chỉ kém thú vị hơn nghiền ngẫm về sự bất tử của một con người), tôi nhận thấy ý thức của mình bừng tỉnh như một chuỗi những ánh chớp rời rạc, những khoảng trống xen lẫn giữa chúng dần biến mất cho đến khi từng khối nhận thức sáng bừng được hình thành, nắm giữ ký ức một cách lỏng lẻo. Tôi đã học đếm và học nói gần như cùng một lúc từ khi còn rất nhỏ, nhưng cái nhận thức nội tại rằng tôi là tôi và cha mẹ tôi là cha mẹ tôi thì dường như mãi đến sau này mới hình thành, cũng là khi tôi khám phá ra tương quan tuổi tác cha mẹ tôi và tôi bằng liên hệ trực tiếp đối với nhận thức đó. Nhờ vào ánh sáng mặt trời rực rỡ mà tôi nhớ mỗi lần nghĩ về khám phá ấy, thứ lập tức xâm nhập vào ký ức tôi bằng những đốm sáng xiên qua kẽ lá xanh hấp háy, thì có thể dịp ấy rơi vào sinh nhật của mẹ tôi vào cuối hè, ở vùng đồng quê, và tôi đã hỏi cũng như đã đánh giá những câu trả lời mình nhận được. Tất cả những điều này đều giống như nó phải thế theo như thuyết lặp lại hình thái; khởi nguồn của nhận thức tự thân trong não bộ của những vị tổ tiên xa xôi nhất của chúng ta chắc hẳn cũng trùng lặp với bình minh nhận thức về thời gian.

Do đó, khi công thức tinh giản, tươi mới và vừa được phát hiện ra về tuổi của tôi, ở độ lên bốn, đối kháng với công thức của cha mẹ tôi, ba mươi ba và hai mươi bảy, một điều gì đó đã xảy ra trong tôi. Tôi trải qua một cú sốc năng lượng khổng lồ. Y như một lễ Báp-têm1 lần thứ hai, nhưng trong những dòng nước thiêng hơn cả lần bị nhúng nước ở nhà thờ Công giáo Hy Lạp hồi năm mươi tháng trước đó bởi một con chiên nửa Victor2 ồn ào (mẹ tôi từ đằng sau một cánh cửa khép hờ mà truyền thống buộc các ông bố bà mẹ phải rút lui vào trong, cố nhắc nhở vị tăng lữ trưởng bối, Cha Konstantin Vetvenitski), tôi cảm thấy mình bỗng nhiên lao thẳng vào một miền rạng rỡ và đầy biến động, chính là yếu tố thời gian chứ không phải thứ gì khác. Con người chia sẻ nó – cũng như những kẻ tắm táp đầy hào hứng chia sẻ làn nước biển lấp lánh – cùng những tạo vật không chỉ là một bản thể, mà còn được kết nối với nhau bởi dòng chảy chung của thời gian, một miền khá khác biệt với thế giới thuộc về không gian, một miền không chỉ con người mà loài khỉ và đàn bướm cũng có thể lĩnh hội được. Trong giây phút ấy, tôi ý thức một cách sâu sắc rằng bản thể hai mươi bảy tuổi đời, trong một màu trắng hồng và mềm mại đang nắm lấy tay trái tôi kia, là mẹ tôi, và bản thể ba mươi ba tuổi đời, trong một màu trắng - vàng cứng rắn và đang nắm lấy bàn tay phải tôi kia, là cha tôi. Ở giữa họ, trong lúc cả hai đều bước, tôi oai vệ bước đi, rồi chạy lon ton, rồi lại oai vệ bước đi, nhảy từ đốm sáng này đến đốm sáng kia, dọc theo phần chính giữa của con đường mà ngày nay tôi dễ dàng nhận ra với hàng cây sồi non trang trí trong công viên của điền trang ở quê tôi, Vyra, thuộc thành phố St. Petersburg cũ, nước Nga. Quả thực, từ chỗ đứng hiện tại của tôi ở một điểm thời gian xa xôi, biệt lập và gần như trống vắng, tôi nhìn thấy bản thể nhỏ xíu của mình như đang tán tụng sự ra đời của một sinh mạng có tri giác vào cái ngày tháng Tám năm 1903 ấy. Nếu cả người cầm tay trái và người cầm tay phải của tôi đều đã hiện hữu trước đó trong thế giới sơ sinh mơ hồ của tôi, hẳn là họ đã lẩn bên dưới lớp mặt nạ ẩn danh dịu dàng; nhưng giờ đây trang phục của cha tôi, bộ đồng phục lộng lẫy của Kỵ binh Hộ vệ, với lớp giáp phồng vàng ánh kim, chói lóa trên ngực và lưng ông như mặt trời trong suốt mấy năm sau đó tôi vẫn hết sức quan tâm đến tuổi tác của cha mẹ và liên tục tìm hiểu về nó, cứ như một hành khách sốt ruột hỏi giờ để kiểm tra chiếc đồng hồ mới vậy.

1 Thánh lễ dành cho những người bày tỏ lòng ăn năn hối cải và quyết định đặt lòng tin vào Chúa.

2 Một trong hai vị thánh tử vì đạo (Victor và Corona).

Xin quý vị hãy lưu ý rằng cha tôi đã kết thúc khoảng thời gian huấn luyện quân sự của ông từ lâu trước khi tôi ra đời, nên tôi đoán rằng ngày hôm đó ông đóng bộ quân phục cũ lên chỉ như một trò đùa trong dịp lễ lạt. Vậy là nhờ có một câu đùa mà tôi đã phát sinh tia nhận thức hoàn chỉnh đầu tiên trong đời – điều này một lần nữa lại mang ý nghĩa theo thuyết lặp lại, bởi vì những sinh vật đầu tiên trên trái đất ý thức được thời gian cũng là những sinh vật đầu tiên biết mỉm cười.

2

Đằng sau những trò tôi đã chơi hồi lên bốn chính là một cái hang nguyên thủy (chứ không phải là thứ mà các triết thuyết bí ẩn của Freud có thể sẽ dự đoán). Một chiếc trường kỷ lớn bọc vải creton, màu trắng, in cỏ ba lá đen, ở một trong những phòng khách tại Vyra hiện lên trong tâm trí tôi, như một sản phẩm khổng lồ của sự dịch chuyển địa chất từ trước khởi đầu của lịch sử. Lịch sử bắt đầu (với lời hứa của người Hy Lạp công tâm) không xa một đầu của chiếc trường kỷ này là bao. Ở đó có một bụi tú cầu lớn trồng trong chậu, với những cánh hoa màu xanh dương nhạt và vài cánh ánh lục, nó che mất một nửa trụ cẩm thạch có tạc tượng bán thân của Diana ở góc phòng. Treo trên mé tường đối diện chiếc trường kỷ lại là một thời kỳ khác của lịch sử, được đánh dấu bằng một bức điêu khắc màu xám bên trong khung tranh gỗ mun – một trong số những bức tranh về Chiến tranh Napoléon1, trong đó dữ kiện và biểu tượng lại là những đối thủ thực sự, và ở đó người ta sẽ thấy tất cả cùng được nhóm lại trên cùng một mặt phẳng, người đánh trống bị thương, một con ngựa chết, những chiến lợi phẩm, một người lính sắp đâm lê vào người khác, vị hoàng đế không gì xâm hại được đang làm dáng bên cạnh các tướng lĩnh của mình giữa cuộc xung đột bị đóng băng.

1 Các cuộc chiến tranh của Napoléon, thường được gọi tắt là “Chiến tranh Napoleon”, là một loạt các cuộc chiến trong thời kỳ Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte trị vì.

Với sự giúp sức của một người lớn nào đó, người trước hết sẽ dùng cả hai tay rồi sau đó đến một bên chân khỏe mạnh, chiếc trường kỷ sẽ được dịch khỏi tường vài phân để tạo thành một lối đi hẹp, tôi sẽ được trợ giúp thêm một chút để tạo nên phần mái che ấm cúng bằng những chiếc gối ôm của trường kỷ, đồng thời chặn cả hai đầu của nó bằng vài tấm đệm. Đến khi đó tôi sẽ có được niềm vui tuyệt cú là bò xuyên qua đường hầm tối như hũ nút ấy, nấn ná một chút để lắng nghe tiếng reo ca trong tai mình – cái rung động đơn độc mà lại quá đỗi thân quen với những cậu chàng bé nhỏ trong nơi lẩn trốn bụi bặm của chúng – và sau đấy, trong sự bùng phát của một nỗi sợ thú vị, bằng cả hai bàn tay lẫn đầu gối thoăn thoắt lịch bịch, tôi sẽ chạm được đầu bên kia của đường hầm, đẩy tấm đệm ra và được đón chào nồng nhiệt bởi tấm lưới ánh sáng mặt trời trên ván sàn, dưới gầm chiếc ghế mây kiểu Vienna cùng hai chú ruồi mải chơi đang phân thắng thua theo lượt. Một trò chơi hang động khác mang lại cảm giác mộng mơ và tinh tế hơn nữa, đó là mỗi khi thức dậy vào buổi sáng sớm, tôi làm một cái lều từ quần áo ngủ của mình, để mặc cho trí tưởng tượng bay nhảy theo hàng ngàn cách mập mờ cùng với những trận tuyết lở lờ mờ của đám vải lanh và ánh sáng nhàn nhạt dường như đang xâm nhập vào hang ổ nửa tối tăm của tôi từ nơi xa xăm nào đó. Ở nơi ấy, tôi tưởng tượng có những sinh vật lạ lẫm, mờ nhạt đang rong chơi trong khung cảnh hồ nước. Ký ức về cái nôi của tôi, với tấm lưới bên hông làm từ loại sợi bông mềm cũng mang lại niềm khoan khoái khi xoay xở một quả trứng pha lê màu đỏ mận đặc biệt xinh đẹp, cứng chắc một cách tinh tế còn sót lại từ một mùa Lễ Phục sinh không còn nhớ được nào đó; tôi từng gặm một góc tấm ga trải giường cho đến khi nó đã ướt sũng rồi quấn thật chặt quả trứng trong ấy, để ngưỡng vọng và nhấm nháp lại ánh sáng ấm áp, hồng hào của những mặt cắt được bao bọc khít khao ấy. Ánh sáng thẩm thấu qua nó hoàn thiện một cách kỳ diệu cả về cường độ và màu sắc. Nhưng đó còn chưa phải là lần gần nhất mà tôi được thưởng ngoạn cái đẹp.

Vũ trụ mới nhỏ bé làm sao (túi bụng của một chú kangaroo cũng chứa đựng được nó), nó mới tầm thường và yếu ớt làm sao khi so với tiềm thức của con người, với ký ức của chỉ một cá nhân cụ thể, và những biểu lộ của nó bằng ngôn từ! Có thể tôi không đặc biệt yêu thích những ấn tượng sớm sủa nhất của mình, nhưng tôi vẫn có lý do để biết ơn chúng. Chúng dẫn đường tới một vườn địa đàng đích thực của thị giác và những cảm nhận xúc giác. Một đêm nọ, trong một chuyến ra nước ngoài vào mùa thu năm 1903, tôi nhớ mình đã quỳ trên chiếc gối (mỏng dẹt) cạnh cửa sổ toa tàu nằm của mình (có thể là trên chuyến tàu Train de Luxe Địa Trung Hải đã dừng chạy từ lâu, loại tàu có sáu toa mà phần nửa dưới của chúng được sơn màu nâu vàng còn các tấm ván cửa màu kem) và cùng với một tiếng bang không giải thích nổi, tôi đã trông thấy những ánh sáng kỳ ảo như đang gọi mời từ một lưng đồi xa xa, rồi chúng chui vào trong một chiếc túi nhung đen: những viên kim cương mà sau này tôi sẽ đem cho các nhân vật của mình để cất bớt gánh nặng giàu có trong tôi. Có thể tôi đã gắng mở và gạt lên được tấm rèm chặt khít phía trên đầu giường mình, và hai gót chân tôi lạnh cóng, nhưng tôi vẫn cứ quỳ như thế mà nhìn ra. Không còn gì ngọt ngào hay lạ lùng hơn việc ngẫm nghĩ về những chiêm nghiệm đầu tiên ấy. Chúng thuộc về một thế giới hài hòa của tuổi thơ hoàn hảo, và vì thế chúng sở hữu một hình dạng biến ảo tự nhiên trong ký ức mỗi người, có thể viết xuống mà gần như không cần cố gắng chút nào; chỉ đến khi bắt đầu nhớ về sự trưởng thành của một người thì Nữ thần ký ức mới tỏ ra kén chọn và công kích. Tôi cũng phải nói thêm rằng, trong khía cạnh sức mạnh gợi lên các ấn tượng, trẻ em Nga cùng thế hệ với tôi đều trải qua một giai đoạn thiên tài, cứ như số phận đã miệt mài, cố gắng làm hết sức mình để cho chúng tôi nhiều hơn phần của mình, trong hoàn cảnh những biến động lớn đã làm đảo lộn hoàn toàn thế giới như chúng tôi đã biết. Sự thiên tài ấy biến mất khi mọi thứ được khôi phục, cũng như với những đứa trẻ khác, những tài năng trẻ thơ chuyên biệt hơn – những cậu ấm xinh đẹp, tóc xoăn vung vẩy cây gậy hay khuất phục những chiếc đàn đại dương cầm, rồi dần dà sẽ biến thành các nhạc sĩ hạng hai với cặp mắt buồn và những căn bệnh mơ hồ nào đó, một chút gì đó sai lệch trong phần cơ thể thiếu thốn của họ. Nhưng kể cả thế, điều bí ẩn của mỗi cá nhân vẫn còn trêu ngươi kẻ lần tìm ký ức. Dù là trong môi trường hay sự di truyền tôi cũng không tìm được loại nhạc cụ chính xác đã tạo nên tôi, chiếc lăn vô danh đã đóng dấu vào đời tôi một mẫu hình dập tinh tế mà thiết kế độc nhất của nó chỉ trở nên hữu hình khi một ngọn đèn nghệ thuật được sáng tạo ra để soi chiếu qua tấm giấy cuộc đời.

3

Để tinh chỉnh đúng đắn về mặt thời gian cho vài ký ức tuổi thơ, tôi phải nhảy cóc vài sự kiện chỗ này chỗ khác, như các nhà sử học vẫn làm mỗi khi họ phải sắp xếp lại từng phần của một thiên sử thi. Nhưng trong những trường hợp khác tôi lại không thiếu dữ liệu chút nào. Chẳng hạn tôi nhìn thấy chính mình đang leo qua những tảng đá đen ướt át bên bờ biển trong lúc cô Norcott, một bảo mẫu chậm chạp và u sầu đang đi ở phía trước dọc theo một bãi biển vòng cung cùng với em trai Sergey của tôi, trong bụng vẫn nghĩ tôi đang đi theo cô ấy. Tôi đang đeo một chiếc vòng tay đồ chơi. Vừa trèo lên những tảng đá đó, tôi vừa không ngừng lặp lại một cách vui sướng, tràng giang đại hải như một câu thần chú phấn khởi, cái từ “thời thơ ấu” trong tiếng Anh. Từ ấy nghe có vẻ bí hiểm và mới mẻ, và ngày càng trở nên kỳ lạ hơn bởi nó lẫn lộn trong tâm trí thơ bé, ngập tràn hình ảnh và kích động của tôi với nào là Robin Hood và Cô bé quàng khăn đỏ, nào là những chiếc mũ trùm màu nâu của các bà tiên già gù lưng. Trên đá có những cái hốc nhỏ chứa đầy nước biển âm ấm, và thần chú của tôi còn được kèm theo cả vài câu hô biến mà tôi bịa ra bên trên những cái hồ ngọc bích tí hon ấy.

Nơi ấy tất nhiên là Abbazia, trên bờ biển Adriatic. Thứ quấn quanh cổ tay tôi, trông như một cái vòng đánh dấu khăn ăn kiểu cách, được làm từ một thứ hơi trong có màu xanh nhạt và hồng, từa tựa phim celluloid1, chính là quả của một cây thông Noel. Cô chị họ xinh đẹp Onya cùng tuổi đã tặng nó cho tôi ở St.Petersburg vài tháng trước đó. Tôi trân quý nó mãi đến khi bên trong xuất hiện những vệt đen dài mà tôi đã quyết định rằng đó chính là những sợi tóc bị cắt ra của tôi, cứ như trong một giấc mơ. Bằng cách nào đó chúng đã chui vào bên trong vật chất bóng loáng ấy cùng với nước mắt của tôi trong một lần viếng thăm sợ chết khiếp với ông thợ cắt tóc đáng ghét ở gần Fiume. Cùng ngày hôm ấy, ở một quán cà phê ven biển, cha tôi đã vô tình trông thấy hai sĩ quan Nhật Bản ngồi ở chiếc bàn gần chúng tôi, đúng lúc người ta mang đồ của chúng tôi ra, và chúng tôi đã lập tức bỏ đi – nhưng không phải trước khi tôi vội vã nhét trọn viên kem chanh mà tôi âm thầm mang theo suốt quãng đường trong vòm miệng buốt giá của mình. Ấy là năm 1904. Tôi được năm tuổi. Nga đánh nhau với Nhật. Với sự vui sướng hồ hởi, tờ tuần báo tiếng Anh mà cô Norcott đăng ký mua dài hạn tái hiện lại những bức họa chiến tranh mà các nghệ sĩ Nhật Bản vẽ cho thấy các đầu máy của người Nga – được tạo hình y hệt đồ chơi theo phong cách hí họa của người Nhật – sẽ bị chìm nếu quân đội của chúng tôi cố đặt các đường ray ngang qua mặt băng đầy phản trắc trên hồ Baikal.

1 Celluloid (viết tắt Cel) là một tấm giấy bóng trong suốt dùng để vẽ hay tô màu các đối tượng trong quy trình sản xuất hoạt hình vẽ tay truyền thống.

Nhưng để tôi xem đã. Tôi thậm chí còn tiếp xúc với cuộc chiến tranh ấy sớm hơn thế nữa. Một buổi chiều vào hồi đầu năm đó, trong ngôi nhà ở St. Petersburg của chúng tôi, tôi đã được dẫn từ phòng trẻ của mình vào phòng làm việc của cha để nói lời chào hỏi với một người bạn của gia đình, Tướng quân Kuropatkin. Cơ thể to bè trong bộ quân phục của ông khẽ kêu răng rắc, để mua vui cho tôi, ông xếp một nắm que diêm lên chiếc trường kỷ nơi ông đang ngồi, mười que nối đuôi nhau thành một đường ngang, và nói: “Đây là mặt biển lúc trời yên bể lặng.” Rồi ông dựng từng hai que một lên để biến đường ngang thành hình díc dắc – và đó là “mặt biển bão tố”. Ông dẹp đám diêm, như tôi hy vọng là để thực hiện một mánh hay hơn thì chúng tôi bị cắt ngang. Trợ lý của ông được dẫn vào phòng và nói điều gì đó với ông. Với một tiếng gằn náo động bằng tiếng Nga, Kuropatkin nặng nề đứng lên khỏi ghế, những que diêm rơi ra trên trường kỷ khi trọng lượng của ông rời khỏi nó. Ngày hôm ấy ông đã nhận được lệnh khôi phục vị trí chỉ huy tối cao trong quân đội Nga hoàng ở miền Viễn Đông.

Sự kiện ấy có một sự tiếp nối đặc biệt mười lăm năm sau đó, trong cuộc ra đi của cha tôi ở một thời điểm cụ thể từ thành phố St. Petersburg khi những người Bolshevik tới miền Nam nước Nga. Lúc đang băng qua một cây cầu, ông bị một ông già trông như một tá điền râu tóc xám xịt trong chiếc áo choàng da cừu xáp lại bắt chuyện. Ông ta hỏi xin lửa từ cha tôi. Giây tiếp theo, họ nhận ra nhau. Tôi hy vọng rằng ông già Kuropatkin, trong bộ dạng giả trang mục nát của ông, đã thoát được tù tội, nhưng đó không phải là vấn đề ở đây. Điều làm tôi vui là sự thay đổi tình thế trong chủ đề về diêm: những que diêm ma thuật mà ông từng cho tôi xem đã xáo trộn và thay đổi chỗ, cả đội quân của ông cũng đã biến mất, và mọi thứ đổ chổng kềnh y như những toa tàu đồ chơi mà mùa đông năm 1904 - 1905, ở Wiesbaden, khi tôi đã cố cho nó chạy qua những vũng băng trên mặt sân khách sạn Oranien. Tôi cho rằng, việc lần theo những cách sắp xếp từng chủ đề như thế trong cuộc đời một con người nên là mục đích thực sự của một cuốn hồi ký.

4

Kết thúc chiến dịch thảm họa của nước Nga ở miền Viễn Đông năm đó kéo theo những bất ổn nội tại đầy giận dữ. Không mảy may bận tâm tới chúng, mẹ tôi cùng ba đứa con của bà vẫn trở về St. Petersburg sau gần một năm ở các khu nghỉ dưỡng tại nước ngoài. Đó là hồi đầu năm 1905. Các vấn đề trong nước cần đến sự hiện diện của cha tôi ở thủ đô; Đảng Dân chủ Hợp hiến mà ông là một trong những người sáng lập sắp giành được đa số ghế trong Quốc hội đầu tiên vào năm tiếp theo. Vào một trong những lần nán lại ngắn ngủi của ông với chúng tôi ở miền quê vào mùa hè đó, với nỗi buồn của một người con yêu nước, ông nhận ra rằng em trai tôi và tôi có thể đọc và viết tiếng Anh chứ không phải tiếng Nga (trừ mỗi từ KAKAO và MAMA). Ông đã quyết định rằng vị thầy giáo làng sẽ phải ghé qua mỗi buổi chiều để dạy chúng tôi học và đưa chúng tôi đi dạo.

Cùng với tiếng vang gắt đầy thú vị từ chiếc còi nằm trong bộ đồ thủy thủ đầu tiên của tôi, tuổi thơ gọi tôi trở lại quá khứ xa xôi ấy, để tôi bắt tay lần nữa với người thầy vui tính của mình. Vasiliy Martinovich Zhernosekov có chòm râu bờm xờm màu nâu, cái đầu hói và cặp mắt xanh sứ, một bên mang cục thịt thừa ở mí trên rất khiến người khác chú ý. Ngày đầu tiên, thầy mang đến cả một hộp đầy những khối vuông vô cùng thú vị có dán các chữ cái khác nhau ở mỗi cạnh; thầy sẽ điều khiển những khối vuông này cứ như chúng là vật gì cực kỳ quý giá, trong hoàn cảnh này thì đúng là vậy (ngoài chuyện chúng còn tạo thành những đường hầm tuyệt vời cho tàu hỏa đồ chơi). Thầy tôn sùng cha tôi bởi cha vừa cho xây lại và hiện đại hóa ngôi trường làng. Trong một biểu hiện kiểu cũ của lối suy nghĩ tự do, thầy đeo chiếc cà vạt đen thắt hình nơ một cách cẩu thả. Khi nói chuyện với tôi, một thằng bé con, thầy dùng dạng số nhiều của ngôi nhân xưng thứ hai – không phải theo cách cứng nhắc của đám gia nhân, cũng không giống mẹ tôi vẫn làm trong những lần âu yếm mãnh liệt, khi thân nhiệt của tôi lên cao hoặc tôi làm mất một hành khách tí hon trên tàu (cứ như dạng số ít không chịu đựng nổi tình yêu của bà vậy), mà thầy nói bằng giọng thẳng thừng lịch sự giữa một người đàn ông với một người khác mà thầy không đủ thân quen để dùng từ “mày”. Là một người nhiệt thành cách mạng, thầy sẽ khoa tay múa chân kịch liệt trong những lần đi dạo vùng quê của chúng tôi và nói về nhân tính, sự tự do, và sự tồi tệ của chiến tranh, cũng như sự cần thiết đáng buồn (dù rất thú vị, theo tôi) phải thổi tung những tên bạo chúa. Đôi khi thầy sẽ đưa ra một cuốn sách theo Chủ thuyết Hòa bình nổi tiếng thời đó là Doloy Oruzhie!1 (một bản dịch cuốn Die Waffen Nieder!2 của Bertha von Suttner ), và chiêu đãi thằng bé sáu tuổi là tôi những đoạn trích chán ngắt. Tôi đã gắng sức phản bác lại chúng: ở tuổi đời non nớt và thích gây gổ ấy, tôi chỉ đứng về phe thích đổ máu trong lúc bực tức biện hộ cho thế giới của những khẩu súng đồ chơi và các hiệp sĩ Arthur của mình.

1 Doloy Oruzhie! (tiếng Nga): hạ vũ khí xuống!

2 Die Waffen Nieder!: sách của tác giả Bertha von Suttner, người đã nhận giải Nobel Hòa bình năm 1905 cho cuốn sách nói trên.

Theo cách nào đó, tôi đã nợ thầy khả năng tiếp bước theo nhánh riêng của cuộc đời tôi, cái nhánh chạy song song với con đường lớn của thập kỷ đầy biến động ấy. Tháng Bảy năm 1906, khi Sa hoàng giải tán Quốc hội một cách vi hiến, vài thành viên của nó, trong ấy có cha tôi, đã thực hiện một cuộc làm phản ở Viborg và phát đi bản tuyên ngôn hối thúc mọi người chống lại chính quyền. Vì tội này mà hơn một năm rưỡi sau họ bị cầm tù. Cha tôi dành ba tháng nghỉ ngơi, nếu có phần nào cô độc, trong tình cảnh bị nhốt một mình, cùng với với những cuốn sách của ông, bồn tắm gấp lại được và bản hướng dẫn tập thể dục tại nhà của J.P. Muller. Đến tận những ngày cuối đời của mẹ tôi, bà vẫn lưu giữ những lá thư ông đã tuồn ra được để gửi bà – những áng văn vui tươi được viết bằng bút chì trên giấy vệ sinh (mà tôi đã cho xuất bản năm 1965, trong số báo thứ tư của tờ tạp chí bằng tiếng Nga Vozdushnie puti, do Roman Grynberg biên tập ở New York). Chúng tôi vẫn còn ở quê khi ông giành lại được tự do, và chính vị thầy giáo làng đã đạo diễn những hoạt động chào mừng cũng như sắp xếp cờ quạt trang trí (thú thực là một vài trong số chúng có màu đỏ) để đón cha tôi trên đường về nhà từ ga tàu hỏa, dưới cổng vòm lá kim của cây linh sam và vòng hoa đội đầu từ hoa thanh cúc, loài hoa yêu thích của cha tôi. Lũ trẻ chúng tôi đã đi xuống làng, và đó là khi tôi nhớ lại cái ngày đặc biệt ấy, khi tôi trông thấy rõ ràng nhất dòng sông lấp lánh ánh mặt trời; cây cầu, cái hộp thiếc sáng lóa mà ngư dân nào đó đã bỏ lại trên tấm lan can gỗ của nó; ngọn đồi phủ bóng cây đoan với nhà thờ màu hồng-đỏ và chiếc lăng cẩm thạch nơi di hài mẹ tôi an giấc ngàn thu; con đường bụi bặm dẫn vào làng; thảm cỏ cụt màu xanh lá mạ, thi thoảng lẫn một mảng đất cát trống, nằm giữa con đường và những bụi hoa tử đinh hương mà đằng sau chúng là một hàng ọp ẹp những căn lều gỗ câu cá vược rêu phong phủ đầy; tòa nhà bằng đá là trường làng mới nằm cạnh trường gỗ cũ; và cả chú chó đen nhỏ với hàm răng cực trắng trong lúc chúng tôi lái xe vút qua đã xổ ra từ một trong những căn nhà gỗ với tốc độ thần sầu nhưng lại im lặng hoàn toàn, chú ta giữ lại tiếng sủa của mình cho một cơn phẫn nộ ngắn ngủi sau đó, khi cuộc đua tốc độ lặng câm của chú rốt cuộc sẽ mang chú lại gần với chiếc xe chạy nhanh của chúng tôi.

5

Cái thủ cựu và tân thời, tư tưởng tự do và gia trưởng, sự nghèo đói tận mạng và giàu có tiền định đan cài vào nhau một cách kỳ ảo trong thập kỷ đầu tiên lạ lẫm ấy của thế kỷ này. Trong suốt mùa hè năm nọ, có mấy lần chuyện xảy ra như sau: vào giữa bữa trưa, trong phòng ăn sáng rực với rất nhiều cửa sổ có cánh bằng gỗ óc chó ở tầng một dinh thự Vyra của chúng tôi, ông quản gia Aleksey, với một biểu cảm không vui vẻ gì, sẽ cúi xuống và thông báo với cha tôi bằng giọng rất thấp (đặc biệt thấp nếu chúng tôi có khách) rằng có một nhóm dân làng muốn gặp barin1 bên ngoài. Cha tôi sẽ nhấc cái khăn ăn khỏi đùi một cách cứng ngắc và xin mẹ tôi thứ lỗi. Một trong các cửa sổ ở mé Tây của phòng ăn trông ra một phần của lối lái xe vào nhà gần cửa chính. Một người có thể trông thấy phần ngọn của những bụi kim ngân đối diện hiên nhà. Từ hướng ấy, hỗn âm lịch sự của những tiếng chào hỏi từ người dân sẽ vẳng tới tai chúng tôi khi nhóm người vô hình ấy chào người cha vô hình của tôi. Cuộc hòa đàm tiếp theo, thực hiện bằng tông giọng bình thường, sẽ không bị nghe thấy, bởi cánh cửa sổ ngay phía trên nơi cuộc hội thoại ấy diễn ra đã được đóng lại để ngăn cái nóng.

1 Cách gọi tôn trọng dành cho người thuộc tầng lớp quý tộc, địa chủ ở Nga trước Cách mạng.

Nó có thể liên quan đến việc khẩn nài cha tôi dàn xếp cho mối bất hòa nào đó được ổn thỏa, cũng có thể là xin một khoản tài trợ cho chương trình diễn ra ở địa phương, hay là xin phép được thu hoạch một phần nhỏ trên mảnh đất của chúng tôi hoặc chặt bỏ một trong số những cái cây quý giá mà chúng tôi có. Và như mọi khi, nếu lời khẩn cầu được đáp ứng ngay, những tiếng lao xao ấy sẽ lại vang lên một lần nữa, rồi, như một hành động biết ơn, vị barin tốt bụng sẽ trải qua vấn nạn dân tộc là bị lắc lư, bị hẩy lên không và ôm chặt bởi khoảng một chục cánh tay khỏe mạnh.

Trong phòng khách, em trai và tôi sẽ được bảo cứ ăn tiếp đi. Mẹ tôi, với một món ngon lành nào đó đang cầm giữa ngón trỏ và ngón cái, sẽ liếc xuống dưới gầm bàn để xem liệu chú chó lạp xưởng hay tỏ ra bồn chồn và cắm cảu của bà có còn ở đó không. “Un jour ils vont le laisser tomber1,” là câu sẽ được bà Mile Golay thốt ra, một bà già yếm thế cứng ngắc vốn là bảo mẫu của mẹ tôi và vẫn còn ở cùng chúng tôi (rất xung khắc với cô gia sư của chính chúng tôi). Từ chỗ của mình bên bàn, tôi đột ngột trông thấy qua một trong những cửa sổ mé Tây một cảnh tượng rất đỗi huy hoàng. Trong giây phút ấy, hiện lên trong tôi là hình ảnh cha tôi trong bộ vest trắng mùa hè đã bị gió thổi phập phồng, ông choãi tay chân giữa thinh không như đang bay lên với một vẻ thản nhiên đến lạ, những đường nét khôi ngô trên gương mặt trở nên rạng ngời khi ông hướng ánh nhìn lên bầu trời. Ba lần, trong hồi hò dô của những những người tung hô vô hình đang hiện hữu qua trí tưởng tượng của tôi, ông sẽ bay lên theo kiểu như thế, lần thứ hai cao hơn lần đầu rồi ông sẽ ở đó trong lần tung bay cuối cùng và cao quý nhất, ngửa ra đối diện với màu xanh ngọc của buổi trưa hè như thể là mãi mãi, giống như một trong những vị đức cao vọng trọng của thiên đàng đang thoải mái tung bay, với cả đống nếp phồng trên y phục của họ, lên mái vòm của một nhà thờ trong lúc ở bên dưới, từng chiếc một, những ngọn nến sáp trong bàn tay thường nhân cháy lên tạo thành một quần thể lửa giữa đám hương trầm, và những lời nguyện của thầy tu về giấc ngủ ngàn thu, và những đóa hoa huệ đám ma che lấp khuôn mặt của ai đó nằm bên dưới, giữa bể ánh sáng dập dờn, trong chiếc quan tài mở nắp.

1 Tiếng Pháp, có nghĩa là "một ngày nào đó, họ sẽ đánh rơi ông ấy."