“Nhà văn không thể biết trước khi nào thành công sẽ đến với mình. Họ chỉ biết nỗ lực hết sức và luôn chuẩn bị để đón nhận cơ hội bằng việc viết, viết, viết, và viết nhiều hơn nữa.”
- Noreen Ayres
Lại thêm một lời từ chối trong vô số lời từ chối cô nhận được từ các nhà xuất bản. Khi thì nó ở trong một phong thư “lạnh lùng” nằm chờ cô trong thùng thư, lúc lại là những lời lẽ êm ái, lịch sự rót vào tai Noreen Ayres khi cô nhấc ống nghe điện thoại, có khi là những dòng thư từ chối khéo léo chậm rãi “trườn” vào nhà cô bằng đường máy fax. Hầu như không tác giả nào, trong sự nghiệp viết lách của mình, không từng trải qua cảm giác thất vọng này. Nhiều người cảm thấy nản lòng và buông bút, nhưng Noreen không nằm trong số đó. Ba mươi lăm năm kiên trì viết và gửi đi nhiều bản thảo, cuối cùng cô đã thành công và chứng minh được rằng những bản thảo bị từ chối chính là những bản nháp được viết đi viết lại nhiều lần trước khi bản thảo cuối cùng được đón nhận.
Noreen mơ trở thành nhà văn từ năm mười bốn tuổi. Một giáo viên đã nhận ra khả năng của Noreen và động viên cô học lên đại học. Với Noreen lúc ấy, vào đại học là một ý niệm lạ lẫm bởi trong gia đình cô chưa có ai học hết trung học, nói chi đến đại học. Cha mẹ cô cũng chưa bao giờ quan tâm đến chuyện học hành của con cái. Với ngọn lửa quyết tâm được cô giáo thắp lên, Noreen rời gia đình vào năm mười bảy tuổi và tự bươn chải để có tiền học đại học.

Noreen Ayres
Ở trường đại học, các giáo sư của cô cũng nhận ra những tố chất đặc biệt của Noreen thông qua các bài luận của cô. Nhưng mọi việc chỉ dừng lại ở đó vì cô đã sớm lập gia đình và có con khi chưa kịp có tác phẩm nào. Đó là những chuỗi ngày dài nhất của đời cô. Trong bảy năm liền, cô bận rộn trong vai trò làm mẹ. Trong tám năm kế tiếp, với dự định có bằng thạc sĩ để đi dạy, Noreen theo học một chương trình sau đại học. Trong những năm đi dạy và làm thư ký, cô dành hết thời gian rảnh rỗi để sáng tác thơ và viết truyện ngắn. Năm tháng qua nhanh trong khi cô thấy mình chưa có được những bước đi đáng kể nào trong lĩnh vực viết văn. Sau đó, cô được nhận vào làm người đọc morasse (bản in thử) cho nhà xuất bản. Trong sáu năm tiếp theo, cô vẫn tiếp tục viết, được một vài giải thưởng và nhiều lời khích lệ từ một vài biên tập viên nhà xuất bản nhưng thành công dường như vẫn tránh né cô - chưa có nhà xuất bản nào nhận xuất bản sách của cô.
Khá lâu sau cuộc ly hôn với người chồng đầu tiên, ở tuổi ba mươi tám, Noreen kết hôn với Tom Glagola, một nhà văn cũng có nhiều khát vọng như cô. Họ hứa với nhau hai điều: một là sẽ mãi mãi ở bên nhau, hai là quyết tâm cùng trở thành những nhà văn nổi tiếng. Cả hai đều đang phải làm việc toàn thời gian để duy trì cuộc sống nên họ chỉ có thể tranh thủ viết vào thời gian rảnh. Thêm sáu năm nữa trôi qua và họ vẫn chưa có tác phẩm nào được xuất bản. Cảm thấy tuyệt vọng, Noreen cùng chồng đi đến một quyết định táo bạo: nghỉ việc để toàn tâm toàn ý sáng tác. Để có thể trang trải chi phí sinh hoạt, họ phải đem cầm cố ngôi nhà của mình. Họ tự nhủ rằng nếu vẫn không thành công trước tuổi sáu mươi lăm, họ cũng sẽ mãn nguyện vì đã cố gắng hết mình.
Noreen viết rất đều tay và tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu các truyện ngắn của mình. Tuy nhiên, một năm rưỡi qua đi mà vẫn không có tác phẩm nào được xuất bản. Cô bắt đầu nản và tự hỏi liệu mình có đang cố gắng vô ích không. Ở những thời điểm quyết định như thế này, người ta phải lựa chọn: hoặc từ bỏ ước mơ, hoặc tiếp tục “chiến đấu” bằng tất cả nghị lực và ý chí để thực hiện được ước mơ ấy. Noreen quyết định sẽ không ngừng lại.
Cô tham gia một hội nhà văn. Nhờ có sự khích lệ và phản hồi tích cực của các thành viên trong hội nhà văn, Noreen chuyển sang viết tiểu thuyết trinh thám. Cô gửi tác phẩm đầu tay của mình đến ba mươi ba nhà xuất bản và nhận được đủ ba mươi ba lời từ chối. Phần nhận xét của các nhà xuất bản thường là những lời khen về phong cách viết, thay vì về nội dung và tình tiết của truyện như cô mong đợi. Quyết tâm biến thất bại thành cơ hội, Noreen tham gia các khóa học về nghiên cứu tội phạm, giám định hình sự, đọc các bài tường thuật vụ án trên các báo và phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực.
Một ngày kia, một vụ án mạng xảy ra với nhiều chi tiết đặc biệt khiến Noreen chú ý. Nạn nhân là một nhân viên mẫn cán của một cửa hàng tiện lợi, bị giết một cách dã man trong một vụ cướp. Xúc động và bị lôi cuốn bởi những tình tiết bên trong vụ án, Noreen bắt tay vào viết.
Noreen mang theo một trăm trang bản thảo đầu tiên đến dự một sự kiện trong giới văn học có các nhà xuất bản tham dự. Trước đó, Noreen đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nghiên cứu từng nhà xuất bản, thể loại sách mà họ quan tâm và cả triển vọng thành công của họ. Tại cuộc hội thảo, Noreen đưa bản thảo cho người mà bà nhắm đến đầu tiên: đại diện của nhà xuất bản uy tín William Morris. Lần này thì đại diện nhà xuất bản chỉ hỏi Noreen một câu đơn giản: “Bà muốn ứng trước bao nhiêu?”. Vào thời bấy giờ, một nhà văn chưa từng có tác phẩm xuất bản trước đó thường được trả ở mức từ 5.000 đến 7.000 đô-la tiền bản quyền. Vì không biết điều đó, Noreen đưa ra con số mà bà nghĩ là có thể giúp bà toàn tâm toàn ý viết trong vòng hai năm: 150.000 đô-la. Người đại diện nhà xuất bản cho biết sẽ trả lời sớm. Thật bất ngờ, vài ngày sau, ông ấy gọi lại và nói rằng sẽ trả Noreen 120.000 đô-la và đặt hàng hai quyển, một thỏa thuận chưa từng có dành cho một nhà văn mới.
Vậy là cuối cùng, Noreen cũng đã trở thành một nhà văn có sách được xuất bản ở tuổi năm mươi hai. Quyển sách đầu tay của Noreen, A World the Color of Salt, được xuất bản vào năm 1992, nhận được nhiều lời khen tặng từ các nhà phê bình văn học và nhiều lời ca ngợi từ độc giả. Carcass Trade là quyển sách thứ hai của Noreen, được xuất bản vào năm 1994. Và quyển thứ ba, The Juan Doe Murders, được bà hoàn thành vào năm 2000.
Dù không ngừng viết và chờ đợi trong hơn ba thập niên trước khi quyển sách đầu tiên của mình được xuất bản, nhưng cuối cùng Noreen cũng đã đạt được ước mơ của mình. Không ai có thể tiên đoán được Noreen sẽ viết thể loại gì trong tương lai, nhưng chắc chắn bà sẽ không viết dòng nào về sự hối tiếc.