Phật giáo là một tôn giáo có lịch sử lâu đời, từ trước đến nay bị con người cho là đạo mê tín. Nhìn từ phương diện hình thức thì Phật giáo mang đậm màu sắc tôn giáo. Mọi người nhìn thấy tượng Phật mặc áo vàng, nghe qua tiếng kinh kệ chuông mõ, thì đã khẳng định là lạy tượng đất; nhìn vào đời sống của chư tăng trong chùa thì liền nói là tầng lớp ăn bám xã hội. Nào đâu biết được trong Phật giáo mỗi sự mỗi việc, đều có những căn cứ lý luận ý nghĩa riêng, chỉ là hệ thống lý luận này quá sâu sắc, không phải dăm ba câu là có thể giải thích tường tận ý nghĩa được, hơn nữa người nghe cũng phải có trình độ học vấn tương đương mới có thể nghe hiểu. Người nói Phật giáo là mê tín, thực ra chính họ đã phạm vào lỗi mê tín rồi, vì họ chưa từng nghiên cứu tường tận về Phật học, có người ngay cả những kiến thức đơn giản thông thường của Phật giáo cũng không biết, chỉ là người ta bảo sao nghe vậy, đây mới chính là mê tín, tin cuồng theo những lời nói xằng bậy của người khác.
Phật giáo có thể nói là tôn giáo, cũng có thể nói không phải là tôn giáo, vấn đề này phải xem bạn hiểu thế nào về hai chữ tôn giáo. Nếu như nói theo nguyên nghĩa của từ Religion, thì nó chỉ cho tôn giáo sùng bái một vị thần hoặc nhiều vị thần, thế thì Phật giáo căn bản không phải là tôn giáo, vì Phật giáo không chủ trương thần quyền. Nếu hiểu Religion theo nghĩa rộng, phàm là đạo có sự tôn sùng, có sự giáo dục thì đều được gọi là tôn giáo, như đạo Nho, đạo Lão… thì Phật giáo cũng có thể gọi là tôn giáo.
Từ sau khi khoa học phát triển, những tôn giáo hiểu theo nghĩa hẹp là sùng bái một vị thần hoặc nhiều vị thần, đã không trụ nổi trước sự công kích của khoa học, chỉ Phật giáo là không như vậy, khoa học càng phát triển, thì giáo nghĩa của Phật giáo càng phát huy rực rỡ. Những năm gần đây, Phật giáo khắp nơi trên thế giới ngày càng hưng thịnh, thực sự đang phát triển song song cùng khoa học. Cũng như Trung Quốc những năm gần đây, trong tín đồ Phật giáo có rất nhiều người là nhà khoa học và kỹ sư. Có điều này là vì lý luận của Phật pháp đều có thể thông qua những khảo nghiệm khoa học, cho nên người có trình độ càng cao về khoa học, thì càng có thể giải thích được những giáo nghĩa khó hiểu trong kinh Phật, từ đó biết được tất cả sự tướng trong Phật giáo, người bình thường cho là mê tín, đều có những cơ sở lý luận vừa kiện toàn vừa vững chắc. Tác giả căn cứ vào đó để viết “Phật giáo khoa học quan” (góc nhìn khoa học về Phật giáo), xin trình bày vấn đề như sau.
1. Phật giáo là tôn giáo thuần lý trí
Mọi người đều biết khoa học là sản phẩm của lý trí, nhưng không biết Phật giáo cũng là kết quả lý trí. Chính vì đều là sản phẩm của lý trí, cho nên từ lập trường khoa học để nhìn nhận Phật giáo, so với từ các phương diện triết học, văn học, chính trị, kinh tế mà nhìn nhận, thì càng rõ ràng, chính xác hơn. Khoa học từng chiếu sáng sự ngu ám mấy nghìn năm của nhân loại, phá bỏ những cố chấp mê muội của con người, Phật giáo cũng có những cống hiến cho nhân loại không khác gì khoa học. Nay trình bày tỉ mỉ như dưới đây:
1.1. Phá bỏ mê mờ
Nhân loại xưa nay có rất nhiều nhận thức sai lệch, nếu không dùng lý trí để suy nghĩ thấu đáo, thì luôn bị làm cho mê lầm, đã sai lại càng sai. Ví dụ dễ hiểu là, như trước đây mọi người công nhận mặt đất là bằng phẳng, trái đất là hình vuông và đứng yên một chỗ, mặt trời là thứ chuyển động, sau đó các nhà khoa học đã chứng minh trái đất là hình cầu, tự xoay theo trục của chính mình, và quay quanh mặt trời. Lại như nhật thực và nguyệt thực, trước đây mọi người cho rằng hiện tượng này vô cùng thần bí, bây giờ đều biết nhật thực là hiện tượng mặt trời bị mặt trăng che khuất, nguyệt thực là mặt trăng bị bóng của trái đất che mờ, hai hiện tượng này đều có thể tính toán được trước ngày giờ chúng xảy ra.
Tôi còn nhớ phần đầu của giáo trình hình học, có mấy ví dụ nói về các trường hợp mắt của con người có nhiều loại ảo ảnh, trong đó có một ví dụ là vẽ hai đường thẳng song song và có độ dài bằng nhau, trên đầu mỗi đường thẳng có vẽ thêm hai dấu ký hiệu〈〉và 〉〈, vẽ thêm dấu như thế sẽ khiến cho người ta cảm thấy một đường dài một đường ngắn khác nhau. Như vậy chứng minh chỉ dựa vào mắt thường để phân biệt độ dài ngắn thì không đáng tin. Lại như những ngôi sao chúng ta nhìn thấy trên bầu trời vào ban đêm, chúng ta cho rằng nó đang tồn tại, nhưng các nhà thiên văn học đã cho biết, rất nhiều ngôi sao cách trái đất của chúng ta rất xa, xa đến lạ thường, không thể dùng đơn vị để đo lường, mà phải dùng số năm của tốc độ ánh sáng để tính toán, gọi là năm ánh sáng, khoảng cách của một năm ánh sáng là lấy một giây 300.000km nhân cho số giây của một năm. Có những ngôi sao cách trái đất đến mấy chục năm ánh sáng. Cho nên lúc ta nhìn ngôi sao này trên bầu trời, đã là ánh sáng của nó phát ra từ mấy chục năm trước rồi, hiện tại ngôi sao đó từ lâu đã không biết nó bay đi đâu.
Lại như hiện tại chúng ta nhìn thấy bàn ghế, bút nghiên, chén bát ở trong phòng đều là những vật đứng yên, chắc chắn, nhưng các nhà vật lý học cho biết rằng, các nguyên tử ở trong các vật dùng này giống như hệ mặt trời vậy, điện tử quay quanh các hạt nguyên tử, quay tròn với tốc độ của ánh sáng, mà giữa nguyên tử và nguyên tử cũng luôn luôn dao động, giữa điện tử và các hạt nguyên tử, giữa nguyên tử và nguyên tử đều có những khe hở rất lớn tơi xốp vô cùng, hoàn toàn khác với sự tĩnh tại kiên cố bên ngoài mà chúng ta thường nhìn thấy. Có thể thấy mắt thường của chúng ta thực sự không nhìn thấy chân tướng của vật thể, nhất định phải dùng lý trí hợp với logic mới có thể đưa ra được đáp án chính xác.
Phật giáo cũng giống như vậy, đã sửa rất nhiều nhận thức sai lệch. Trung Quốc có câu nói cổ là “bầu trời không có hai mặt trời”, nhưng trong kinh Phật lại nói “tam thiên đại thiên” - thế giới có muôn vạn mặt trời, cũng may mà vua chúa Trung Quốc rộng lượng, không gán cái tội đại nghịch bất đạo cho kinh sách Phật giáo, giống như Nicolaus Copernicus từng chịu. Bây giờ kính thiên văn đã chứng minh tất cả hằng tinh dày đặc trên bầu trời, mỗi hằng tinh là một hệ mặt trời khác nhau. Lại như trong thơ ca Trung Quốc nhắc đến mặt trăng thường có câu “trăng khi sáng khi tối khi tròn khi khuyết”, tròn khuyết của ánh trăng vốn là nhận thức sai lệch của người xưa. Nếu như quả thật mặt trăng có tròn có khuyết, thì ai đục cho nó khuyết đi chứ? Ai đắp cho nó tròn lên chứ? Trong kinh Phật nói rất hay, chỉ nói trăng sáng trăng tối, điều này đơn thuần nói rõ toàn bộ đạo lý mặt trăng phản xạ ánh sáng mặt trời. Những ai chưa học qua sinh lý học đều cho thân thể này của ta là độc quyền sở hữu của mỗi mình “ta”, nào biết bên trong thể xác này có rất nhiều loại vi khuẩn đang chiếm cứ, và cùng “ta” hưởng thụ chung. Hơn 2.500 năm trước, đức Phật đã dạy cho chúng ta biết, thân người là ổ của vi trùng, đại khái là có 80 loại, xem thêm trong kinh Trị thiền bệnh bí yếu và kinh Chính pháp Niệm xứ. Kinh Phật không những kể ra tên của từng loại vi trùng, mà còn miêu tả hình thái động tác của chúng. Trong lúc khoa học chưa phát triển, muốn một người bình thường tin vào vấn đề này là chuyện rất khó. Đức Phật thực sự đã nói rõ ràng như thế, hơn nữa Ngài còn tự mình nói, Như Lai là bậc nói lời chân thực, nói lời như pháp, không nói lời giả dối, không nói lời khác đi, nhưng những vi trùng nhỏ như vậy, không phải là thứ mắt thường có thể nhìn thấy được, mà lúc đó lại không có kính hiển vi để mọi người kiểm chứng, làm sao có thể nói cho con người tin hiểu một cách triệt để. Bây giờ những người có một ít hiểu biết thông thường về sinh lý học, thì họ đã rất dễ dàng chấp nhận. Trong kinh Phật lại nói đức Phật quán sát trong một bát nước có 84.000 vi trùng, hiện tại cũng cảm thấy không có vấn đề gì rồi.
Trước khi đại số học chưa được phát minh, mọi người chỉ thừa nhận số dương mà không thừa nhận số âm và số 0, càng không biết như thế nào là số nguyên, chứng tỏ nhân loại lúc đó hiểu biết về số chưa được trọn vẹn. Bất cứ quan niệm nào Phật giáo cũng đều nhận thức toàn diện, rộng khắp. Như nói về xúc giác, thông thường cho rằng thân và vật kết hợp cùng nhau mới gọi là xúc, không biết sau khi tiếp xúc xong cũng còn giác, nếu lúc không còn tiếp xúc mà không biết sự không tiếp xúc đó, thì lúc tiếp xúc cũng không biết có hợp, cho nên kinh Phật gọi lúc tiếp xúc gọi là hợp xúc, lúc tách rời gọi là ly xúc, cũng giống như trong toán đại số, ngoài số dương ra, cũng công nhận số âm. Lại như Phật giáo đối với lạc gọi là lạc thọ, khổ gọi là khổ thọ, không lạc không khổ gọi là xả thọ, tương đương với ba vị của đại số là âm, dương và số 0. Lại như nói, ngoài thiện ác ra thì không thiện không ác gọi là vô ký. Những điều này chứng tỏ cách nói toàn diện của Phật giáo, nó vừa có tính tương đồng với tinh thần khoa học lại có chỗ vượt qua những kiến thức phổ thông.
Còn có một vấn đề khác, cả khoa học và Phật giáo đều bác bỏ, chính là linh hồn. Lý do một người thông thường tin vào linh hồn là: thân thể của con người là xác thịt, là vật chất, mà vật chất là thứ không có linh giác, cho nên phải có linh hồn để làm chủ sai khiến thân thể. Ví dụ như một chiếc xe hơi, phải có tài xế điều khiển. Linh hồn này ẩn trong thể xác của mỗi người, thân xác có linh hồn mới thành người sống, linh hồn rời thân thể thì trở thành người chết. Cách lập luận này dường như rất hợp lý, nhưng dùng lôgíc học hoặc nhân minh học của Phật giáo để kiểm nghiệm, thì phát hiện có sự khập khiễng. Bây giờ chúng ta hỏi ngược lại: Linh hồn là vật chật hay không phải vật chất? Nếu họ nói là vật chất, thì vật này phải có dài ngắn nặng nhẹ, hiện tại ngành giải phẫu học cơ thể người đã rất phát triển, cấu tạo các bộ phận trong cơ thể người đã được biết rất rõ ràng, tuy nhỏ như từng tế bào vi khuẩn, cũng đều biết được tên gọi và tác dụng của chúng. Nhưng từ trước đến nay chưa từng phát hiện thứ gì đó kỳ quái mà không biết tên gọi và tác dụng của nó, nếu nói vật chất này trước khi phẫu thuật hoặc lúc thân thể con người chết đi nó đã thoát ra ngoài rồi, nhưng linh hồn đã là vật chất, nếu không có lực khác tác động vào thì không thể tự bay đi được, nếu nhờ hơi ấm vốn có trong cơ thể người đẩy ra khỏi thân xác, thì xung quanh người chết phải tìm thấy nó rồi. Huống nữa, vật chất là thứ vô tri, linh hồn đã là vật chất, thì thân thể cần gì phải mượn một vật chất vô tri khác làm chủ chứ? Nếu nói vật chất là có tri giác, thì thân thể cũng tự có tri giác, cần gì phải mượn một vật chất có tri giác khác để làm chủ chứ? Cho nên nói linh hồn là vật chất, nhất định không bảo vệ được lập luận của mình. Nếu nói linh hồn không phải là vật chất, thì chúng ta phải hỏi: Thứ không phải là vật chất thì làm sao có thể đi ra đi vào thân thể được? Đi ra đi vào được thì không thể nói không phải là vật chất.
Phật giáo đã bác bỏ linh hồn, thế thì cái gì làm chủ tể lúc còn sống và chịu luân hồi lúc đã chết? Câu trả lời của Phật giáo là: Vì thứ này là bản thể của vạn vật, không có hình tướng, không trú ở trong hay ngoài, không có ra vào, Phật giáo miễn cưỡng gọi nó là thần thức, là Phật tính. Thần thức là chỉ cho bản thể đang bị tâm tham ái làm cho mê mờ, Phật tính là chỉ bản thể không còn bị tham dục trói buộc, thực ra thần thức và Phật tính tuy hai mà một tuy một mà hai. Thần thức và linh hồn mà người ta thường nói về bản chất không giống nhau. Người ta cho rằng linh hồn có hình có tướng, thường ở trong thân thể, có thể đi ra hay đi vào. Nhưng phải nói rằng, Phật tính hay thần thức mặc dù không có hình tướng, không trú ở trong hay ngoài của thân, không có đi ra đi vào thân, nhưng gặp duyên chín muồi, cũng có hiển thị ra vật chất có hình tướng có thể đi ra đi vào, ở trong hay ở ngoài thân thể. Cho nên nó không phải vật chất, lại không phải là phi vật chất. Về vấn đề này, các nhà khoa học ngày nay vẫn chưa thể giải thích rõ ràng, chỉ là nói một cách võ đoán rằng: “không có việc này”, để cho rằng bác bỏ hoàn toàn. Nhưng Phật giáo dùng hiện lượng chứng nghiệm của đức Phật, có thể phân tích nói rõ đúng sai thật giả, đồng thời chỉ dạy chúng ta dùng các pháp môn tu hành, để có thể chứng đắc chân lý giống như Ngài vậy.
Cho nên khoa học và Phật giáo đích thực là hai ngọn đèn sáng của thế giới, ánh sáng của nó xua tan sự mê mờ của thế gian, phá trừ nhận biết lầm lạc của con người, khiến cho trí tuệ của nhân loại không ngừng phát triển đến những cảnh giới cao, và đạt đến chính giác vô thượng. Đáng tiếc là khoa học hiện đại vẫn chỉ giới hạn ở chỗ hiểu rõ về tướng mạo của vật chất, những phần liên quan đến tâm ý, nếu không mượn ngọn đèn trí tuệ của Phật giáo thì không đủ để phá trừ được nhận thức sai lầm. Ví dụ phần cảm giác của các cơ quan cơ thể người, thì liên quan đến vấn đề của tâm, từ loại cảm giác này dẫn đến rất nhiều tác dụng tâm lý khác nhau (Bách Pháp Minh Môn luận gọi đó là Tâm sở hữu pháp). Phật giáo nghiên cứu về vấn đề này rất rõ ràng, vượt xa những hy vọng đạt được của tâm lý học hiện tại. Giả dụ bây giờ chúng ta nghe một nghệ sĩ âm nhạc đang trình bày một bản nhạc nổi tiếng, nhĩ thức liền nhận ra giai điệu của bản nhạc, ý thức ứng theo đó nhận biết tâm tình của bản nhạc, từ đó sinh khởi rất nhiều tâm sở, khiến chúng ta cảm giác du dương êm tai, rồi sinh ra muôn vàn tưởng tượng, vì thế mà sinh lòng yêu thích, lưu luyến không muốn rời xa (nếu dùng từ ngữ của Pháp Tướng tông để nói, là dẫn sinh các tâm sở xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, tham, si, phóng dật). Đây là chỉ cho những người có trình độ âm nhạc nhất định mà nói; nếu một người căn bản không hiểu gì về âm nhạc, thì nghe xong khúc nhạc đó, họ hoàn toàn không hiểu gì về giai điệu, càng không hiểu được tư tưởng tình cảm của bản nhạc, chỉ có cảm giác ê a ồn ào, chẳng những không sinh lòng yêu thích, e rằng ngược lại còn sinh tâm chán ghét. Nếu phân tích theo vật lý học, bản nhạc nổi tiếng này, chẳng qua chỉ là một chuỗi của sóng không khí, bao gồm đường hình sin (cũng gọi là hàm sóng âm) của sóng âm, đó chính là trạng thái chân thực khi màng nhĩ bị rung động bởi sóng không khí. Cảnh giới hiện lượng của nhĩ căn là như vậy. Giai điệu từ nhĩ thức nhận ra, tình cảm, tư tưởng từ ý thức nhận thức được, thì không thể nào tìm ra nó trên rất nhiều hàm sóng âm được; thậm chí yêu thích hay chán ghét, tuyệt nhiên trái ngược, càng không thể có được trên hàm sóng âm. Chúng ta thường hay quên mất điều này, xem những thứ được sinh ra từ phân biệt của nhĩ thức ý thức, gắn vào sóng không khí được biểu thị trên chuỗi đồ thị, rồi cho nó là thực có - đây là nhận thức sai lầm lớn nhất của chúng ta. Nhận thức sai lệch này đã âm thầm ăn sâu vào tim gan chúng ta, ngoài Phật giáo ra, không có ai có thể chỉ ra được sai lầm này. Thế là mọi người đều nói, đó là một bản nhạc thê lương, chỉ biết dường như thê lương là thứ thật có của bản nhạc này, mà quên mất đây là do duy thức biến hiện ra. Ví dụ hành tỏi, người thích ăn thì bảo là thơm, người không thích ăn thì nói là thối, nếu mùi thơm thối thật có ở trong tỏi, thì không thể do nơi người ăn mà có sự khác nhau được.
1.2. Loại bỏ tình cảm
Có thể nói Phật giáo chuyên tìm ra nhận thức sai lầm của con người rồi từ đó sửa sai một cách hợp lý, hướng dẫn con người bước đi trên con đường giác ngộ. Cho nên Phật giáo là tôn giáo thuần lý trí, chẳng những không xen lẫn tình cảm, mà còn loại bỏ hoàn toàn tình cảm, điểm này hoàn toàn giống với khoa học. Triết học mặc dù cũng rất xem trọng lý trí, nhưng lại chủ trương lập luận, suy cho cùng cũng không tránh được thiên kiến bè phái đấu đá lẫn nhau. Các ngành khoa học xã hội khác cũng không tránh khỏi vấn đề này. Đến văn học nghệ thuật thì nghiêng nặng về tình cảm, tình cảm chan chứa thì trí tuệ lu mờ, cho nên đánh giá về văn học nghệ thuật thì từ nghìn xưa đến nay không có một giá trị chuẩn. Tình cảm và lý trí luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Lúc một người bị tình cảm thôi thúc thì lý trí thường vì thế mà suy giảm, cũng có thể nói lý trí đã bị tình cảm che mờ. Ngược lại, lúc lý trí được phát huy cao, thì tình cảm (ví dụ như các tâm lý tham ái, lo sợ…) cũng sẽ suy giảm. Lý trí giống như ánh sáng mặt trời, tình cảm giống như áng mây trôi. Giống như tình cảm của cha mẹ dành cho con, mặc dù thuộc tình cảm chân thực thiêng liêng, nhưng thường làm cho cha mẹ phán đoán sai lầm về hành vi của con cái. Cũng như tình yêu đất nước nhiệt tình, mặc dù không phải là tình yêu riêng tư, nhưng có lúc lại không kiểm soát được lý trí, mà gây ra tai họa nặng nề. Đến như tình yêu nhiệt tình nam nữ, thường làm ra những việc thiếu trí tuệ, thậm chí chết vì tình yêu một cách ngu si. Nhìn nhận trên lập trường của Phật giáo, những loại tình cảm này tuy có công tư, nặng nhẹ khác nhau, nhưng đều thuộc tình cảm thiếu trí tuệ, đều cần phải tịnh hóa. Cho nên kinh Lăng Nghiêm nói, chúng sinh thăng trầm trong sáu nẻo đều do nơi tình cảm hay tư tưởng, tưởng nhiều thì sinh lên, tình nhiều thì đọa lạc, thuần tưởng thì sinh thiên, thuần tình thì đọa vào địa ngục A tỳ, tình tưởng như nhau thì sinh vào cõi người.
Thái độ nghiên cứu của các nhà khoa học từ trước đến nay không hề được xen lẫn mảy may tình cảm nào, nhưng rất xem trọng trí tưởng tượng. Tất cả cấu tạo của nguyên tử, hoạt động của các thiên thể, sự lan truyền của sóng điện từ, kết cấu phức tạp của các dụng cụ máy móc thí nghiệm khoa học, đều nhờ vào trí tưởng tượng để bù đắp cho khả năng còn hạn chế của mắt thường. Ví dụ, phép chiếu của hình học là một môn khoa học đòi hỏi trí tưởng tượng cao nhất. Khi học sinh học môn này, trước tiên họ phải tưởng tượng trong không trung có ba mặt phẳng trong suốt cắt nhau và vuông góc với nhau, do đó phân chia thành tám góc vuông. Rồi tưởng tượng rằng có một đường cong nào đó, hoặc một mặt phẳng nào đó, hoặc một khối lập thể nào đó, được đặt trong một góc vuông nào đó. Rồi lại tưởng tượng rằng có ba loại tia sáng, được chiếu từ ba hướng, mỗi tia chiếu vuông góc với một trong ba mặt phẳng cơ bản. Từ đó tưởng tượng có được hình chiếu là một đường thẳng, một mặt phẳng hoặc một hình lập thể nào đó. Ba loại hình chiếu này trong thiết kế máy móc, mô hình kiến trúc hiện nay, được gọi là hình chiếu trước, hình chiếu ngược và hình chiếu phẳng. Nếu tưởng tượng dùng một mặt phẳng, dựa trên một góc độ nào đó, cắt một khối lập thể nào đó (loại máy móc hoặc vật kiến trúc nào đó) rồi vẽ ra đường tiếp tuyến của hình lập thể tiếp xúc với mặt cắt, liền trở thành hình tiết diện hay là hình mặt cắt. Sức tưởng tượng này cực kỳ quan trọng đối với một người nghiên cứu khoa học thuần túy hoặc khoa học ứng dụng, nhưng hoàn toàn không cần bạn thêm một vài đường cong tuyệt đẹp. Giá trị của một bản thiết kế máy móc quan trọng ở độ chính xác, chứ không phải là tính thẩm mỹ. Ngay cả chữ trên bản vẽ cũng chỉ cho phép quý vị viết các ký tự công trình đơn giản và gọn gàng, mà không cho phép viết hoa hoặc viết nghệ thuật.
Trong Phật giáo có nhiều phương pháp bảo chúng ta áp dụng trí tưởng tượng vào việc tu hành, gọi chung là thiền quán. Ví dụ, năm phương pháp quán của ngũ đình tâm quán là quán bất tịnh, quán sổ tức, quán từ bi, quán nhân duyên, quán giới phân biệt. Ngoài ra còn có: quán pháp không, quán duy thức, quán pháp giới, quán viên đốn và mười sáu pháp quán được nêu trong kinh Vô Lượng Thọ. Trong các pháp quán ấy có quán tưởng nghĩa lý của Phật pháp, cũng có quán tưởng hình thái của sự vật. Như đối tượng của pháp quán bất tịnh chính là cấu tạo của thân thể con người, đối tượng của pháp quán cửu tưởng1 là quá trình phân hủy của thân thể con người sau khi chết. Pháp quán thứ nhất trong 16 pháp quán là quán mặt trời lặn, hướng dẫn người ta quán tưởng mặt trời hồng lặn xuống núi ở phương tây, phải nhìn đến độ nhắm mắt mở mắt đều thấy rõ ràng, mới xem là thành công. Pháp quán thứ hai là thực hành quán tưởng về nhân vật và cảnh vật của thế giới Cực Lạc. Phương pháp tưởng tượng này giống hệt với phép chiếu hình học. Với chủ nghĩa kinh nghiệm của tác giả, bởi vì từ lâu đã được huấn luyện về phép chiếu hình học, cho nên lúc thực hành phép quán tưởng mặt trời lặn không gặp khó khăn gì nhiều. Cư sĩ Vương Tiểu Từ mới mất, cũng từng rất thích pháp quán thứ nhất và thứ hai, có lẽ do ông từng được đào tạo như vậy, nên dễ dàng thực hành pháp quán tưởng này. Nhưng lúc thực hành bất kỳ phương pháp thiền quán nào, lúc đang huấn luyện trí tưởng tưởng cao độ, thì nhất định không được xen tạp niệm tình cảm nào, như tâm tham ái, tâm chán ghét, tâm sợ hãi, tâm buồn rầu... nếu không sẽ rơi vào nguy hiểm của loạn tâm.
1. Tức là chín cách quán tưởng về xác chết hôi xấu để giúp người tu hành đoạn trừ vọng niệm và tình chấp đối với nhục thể của con người. Là một trong những pháp quán bất tịnh. Chín pháp quán là: 1. Thanh ứ tưởng, cũng gọi Tưởng tướng hoại, Thanh tưởng. Quán tưởng xác chết bị gió thổi nắng dãi biến thành màu vàng, đỏ rồi xanh bầm. 2. Nùng lạn tưởng, cũng gọi Tưởng tướng lạn, Giáng trấp tưởng. Quán tưởng da thịt xác chết rữa nát, từ trong chín cái lỗ (hai con mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, cái mồm, đường đại tiện và đường tiểu tiện) máu mủ rịn ra và giòi bọ nhung nhúc. 3. Trùng đạm tưởng, cũng gọi Tưởng tướng trùng đạm, Thực bất tiêu tưởng. Quán tưởng xác chết bị giòi bọ rúc rỉa và chim thú mổ cắn để ăn. 4. Bành trướng tưởng, cũng gọi Tưởng tướng thanh bột. Quán tưởng xác chết trương phình lên. 5. Huyết đồ tưởng, cũng gọi Tưởng tướng hồng hủ, Nùng huyết tưởng. Quán tưởng máu mủ từ xác chết tuôn ra lênh láng. 6. Hoại lạn tưởng, cũng gọi Tưởng tướng trùng thực. Quán tưởng xác chết da thịt nứt nẻ rữa nát. 7. Bại hoại tưởng, cũng gọi Tưởng tướng giải tán. Quán tưởng da thịt rã tan, chỉ còn gân xương rời rạc, vương vãi. 8. Thiêu tưởng, cũng gọi Tưởng tướng hỏa thiêu. Quán tưởng xác chết bị đốt thành tro. 9. Cốt tưởng, cũng gọi là Tưởng tướng sinh, khô cốt tưởng. Quán tưởng xác chết tan hoại hết, chỉ còn lại đống xương trắng ngổn ngang.
1.3. Phát khởi niềm tin chân chính
Lương Khải Siêu2 từng khẳng định: “Phật giáo là trí tín, hoàn toàn không phải là mê tín”, đây là lời nói chính xác. Tín ngưỡng trong Phật giáo chỉ cho tín ngưỡng lý thể dựa trên lý trí có thể suy đoán đạt được, mà trên thực tế có thể vẫn chưa chứng nghiệm được, hoàn toàn khác với đối tượng tín ngưỡng của những tôn giáo khác. Niềm tin của hàng đệ tử Phật giáo là: tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể thành Phật; trong Phật tính có đầy đủ các pháp, vốn thanh tịnh, vốn không sinh diệt, vốn không dao động; muôn sự muôn vật đều từ nhân duyên hòa hợp mà sinh, không có tự tính, chỉ do tâm hiện, chỉ có thức biến mà có. Mục đích của tín ngưỡng Phật giáo là đạt được chính đẳng chính giác vô thượng, đây chính là địa vị cao siêu nhất mà trí tuệ phát triển đến, cũng chính là cảnh giới hoàn hảo đẹp đẽ nhất mà nhân sinh tiến hóa đến. Nếu đem so sánh tín ngưỡng của Phật giáo với các tôn giáo khác dạy người ta tín ngưỡng một đấng Sáng thế vạn năng, khiến tín đồ cam tâm tình nguyện làm con cái của họ, làm mất đi cá tính của bản thân, bỏ qua chủ quyền của bản thân, chôn vùi lý trí của chính mình, thì đúng là cách xa một trời một vực. Đức Phật dạy chúng ta rằng: “Các con đều có đức tướng và trí tuệ của Phật, vì các con bị năm dục tạp niệm che mờ nên chưa thể chứng đắc, cho nên thường chịu đau khổ, chưa được giải thoát”. Chúng ta nghe rồi, biết được rằng chúng ta và Phật vốn bình đẳng không khác, lập tức khởi lòng tự trọng chính mình, phát tâm dũng mãnh tinh tấn, siêng tu tập các điều thiện, hết lòng mong mỏi đạt được trí tuệ Phật. Ngược lại, nếu chúng ta nghe theo lời của các tôn giáo khác, nói chúng ta do một vị thần tạo ra, thần nắm quyền thưởng phạt trong tay, chúng ta chỉ như một người nô lệ hầu hạ chủ nhân của mình; nếu như phụng mệnh cẩn thận, sau khi chết được lên cõi trời, vẫn chỉ xứng làm con của thần, tuyệt đối không thể bình đẳng hưởng thụ quyền lợi như họ. Thử hỏi người có khí phách trượng phu có thể chịu nhục như thế được không?
2. (1873 - 1929), là nhà tư tưởng và nhà hoạt động chính trị Trung Quốc thời cận đại.
Người nghiên cứu khoa học dường như chỉ xem trọng lý trí chứ không nói đến tín ngưỡng, nhưng đi vào chi tiết thì khoa học cũng có tín ngưỡng. Ví dụ như khi chúng ta học vật lý, hóa học, những thí nghiệm mà chúng ta thực hành chỉ chiếm một phần trăm phần nghìn của toàn bộ lý thuyết. Chúng ta thực hành từng thí nghiệm xong mới tiếp thu rất nhiều học thuyết này? Hay là không đợi đến khi hoàn thành thí nghiệm đã tin tưởng nó rồi? Trên thực tế, chúng ta đều đã chọn biện pháp thứ hai, rồi kiên định quả đoán tin tưởng nó. Bởi vì chúng ta đã dùng lý trí để hiểu rất nhiều lý luận, mà chưa tìm thấy ví dụ nào về việc có nhà khoa học lừa dối, cho nên tin tưởng rằng những điều tuy chúng ta chưa từng tự thân chứng nghiệm qua cũng đáng tin cậy giống như vậy. Vì thế, các nhà khoa học cũng có niềm tin của họ, tin rằng những lý luận phức tạp được diễn dịch ra căn cứ vào công lý mà mọi người đều công nhận, thì cũng chính là chân lý được mọi người công nhận. Họ tin rằng các lý thuyết hoặc giả thuyết được quy nạp ra, trước khi các trường hợp ngoại lệ mới được tìm thấy, thì ít nhất nó cũng có thể được coi là chân lý thích hợp cho tình huống hiện tại. Họ tin rằng tất cả sự thay đổi của vật chất, đều chịu sự chi phối của quy luật nhân quả, chắc chắn không phải tự nhiên mà sinh ra, càng không phải do đấng Sáng thế tạo ra, cũng chắc chắn không thể do thần quyền làm chủ tể.
Niềm tin của Phật tử cũng giống niềm tin của các nhà khoa học. Vì họ đã sử dụng lý trí để hiểu về một số lý luận trong Phật giáo, và không tìm thấy điểm nào không hợp với logic, cũng không tìm thấy lý do lừa dối, cho nên họ cũng tin tưởng kiên định vào những lý luận chưa được chứng nghiệm khác. Ví dụ về Phật tính, phần lớn tín đồ Phật đều chưa tự thân chứng nghiệm được, chỉ tin lời của đức Phật luôn là lời chân thực, rồi dựa vào đó để thực hành, cầu mong chứng thực. Một khi chúng ta tự thân chứng đắc được, lúc đó đã trở thành sự thật rồi, tin hay không tin không còn là vấn đề cần bàn nữa. Ví dụ tôi nói, lúc đói bụng ăn cơm có thể no, việc này ai cũng biết, không cần khuyên người ta tin. Nhưng nếu tôi nói, lúc đói bụng uống một loại vitamin nào đó có thể no, nếu không dùng những luận cứ dựa trên nguyên lý khoa học, thì không thể bảo người ta tin được, trừ khi mời họ thử nghiệm tại chỗ. Nếu như không có viên vitamin để thử nghiệm hoặc không có ai chịu thử nghiệm, như thế cũng không sao, chỉ cần tôi nêu ra đầy đủ lý do, thì cũng sẽ có người tin. Còn nếu tôi nói, lúc đói bụng chỉ cần người khác ăn cơm tôi cũng thấy no, thì không cần nói thử hay không, cho dù tôi nêu ra bất kỳ lý do nào, mọi người cũng sẽ không tin. Cho nên, một nhà tôn giáo nói một người chết có thể chuộc tội cho vạn người khác, làm sao khiến người ta tin được chứ? Nếu tin thì cũng chỉ là mê tín mà thôi.
2. Tinh thần nghiên cứu của Phật giáo
Phật giáo dạy người ta tin tưởng, cũng dạy người ta nghi ngờ, đó gọi là “nghi nhiều ngộ nhiều, nghi ít ngộ ít, không nghi không ngộ”. Tin tưởng là tin vào lý mà ngôn ngữ văn tự có thể giải thích rõ ràng; nghi ngờ là nghi những việc ngôn ngữ văn tự không thể diễn tả được. Thiền tông Trung Quốc bảo người ta nêu ra một nghi tình, rồi tập trung tham cứu, cho đến lúc công phu thuần thục, đáp án sẽ tự nhiên đến với người thực hành. Phạm vi nghiên cứu của Phật giáo rất rộng, tham vọng trong nghiên cứu rất lớn. Người bình thường cho rằng các nhà khoa học giỏi hoài nghi nhất, thích nghiên cứu câu hỏi “vì sao” nhất, thực ra cũng không phải như thế, các nhà khoa học phần lớn chỉ hỏi “cái gì”, chứ không dám hỏi “vì sao”, người dám đặt câu hỏi “vì sao” nhiều nhất có lẽ chỉ có Phật giáo. Ví dụ, các nhà điện học chỉ nói các phân tử của sắt được sắp xếp ngay thẳng sẽ tạo ra lực từ, nhưng không tiếp tục đặt vấn đề vì sao sinh ra lực từ, vì sao các phân tử đồng sắp xếp ngay thẳng lại không sinh ra lực từ? Lại như mọi người đều biết nước đạt đến 100 độ C sẽ chuyển thành hơi nước, các nhà khoa học chỉ nói đến như thế, mà không giải thích tại sao nước phải hấp thu ẩn nhiệt mới có thể trở thành khí, cũng không hỏi ẩn nhiệt này vì sao lại tiềm tàng trong hơi nước. Newton chỉ phát hiện ra lực hấp dẫn của tâm trái đất, nhưng cho đến nay chưa có ai giải thích vì sao trái đất có lực hấp dẫn.
Cho nên chúng ta không nên tin mù quáng vào khoa học, cho rằng tất cả những câu hỏi “tại sao” trên thế giới này đã được các nhà khoa học giải đáp hết rồi. Thực ra chỉ nói về phương diện vật chất, đã có vô số câu hỏi “tại sao” chưa có ai giải đáp. Tín đồ đạo Phật thực sự rất thông minh và dũng cảm, giống như sư tử sau khi bị trúng tên của thợ săn, họ không nhìn vết thương, mà chỉ xem mũi tên ấy từ đâu bắn đến. Phật giáo luôn tìm nguyên nhân, luôn đặt câu hỏi “tại sao”. Vấn đề vũ trụ và con người, không đơn giản chỉ tìm câu trả lời từ phương diện vật chất, mà phải nghiên cứu trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Cho nên, tinh thần nghiên cứu của Phật giáo thực sự sâu sắc hơn cả khoa học.
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của khoa học, không ngoài hai phương pháp diễn dịch và quy nạp trong logic học. Phương pháp quy nạp là từ sự thay đổi chức năng của mỗi một vật, mà tìm ra quy luật tuân thủ chung của chúng. Phương pháp diễn dịch là từ tiền đề đã biết, hoặc quy luật đã được chứng thực nào đó, suy ra các lý luận chưa biết. Các nhà khoa học sử dụng hai phương pháp này với thái độ rất nghiêm túc, nhưng đôi khi các kết luận được quy nạp chưa hẳn đáng tin cậy. Ví dụ, công thức lực vạn vật hấp dẫn của Newton không thêm vào vận tốc chuyển động của vật thể, hay như sai lầm của hai định luật bảo tồn năng lượng và bảo tồn vật chất. Nhưng căn cứ vào phương pháp diễn dịch để xây dựng các công thức toán học thì lại không mắc lỗi này, bởi vì lý luận cơ bản mà họ căn cứ, tuy không giống với chứng nghiệm của tịnh trí hiện lượng Phật giáo, nhưng cũng không trái với thế giới hiện lượng, cho nên nhìn từ góc độ người học Phật thì cũng được xem là sự thật.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Phật học, cẩn thận và nghiêm túc hơn khoa học. Căn cứ vào nội minh của Phật giáo, gọi là chân tướng của sự vật, phải dùng tịnh trí chân hiện lượng để đoạn trừ phiền não chướng và sở tri chướng, mới có thể hiển hiện được. Nay dùng cách phổ thông, không thể không lùi một bước để dùng hiện lượng tỷ lượng trong nhân minh học của Phật giáo, loại hiện lượng tỷ lượng này thực sự phù hợp với lý trí của các nhà khoa học, cũng được nhân gian công nhận. Nên ba chi của nhân minh học Phật giáo tương đồng với tam đoạn luận của logic học, chỉ có thứ tự trái ngược nhau. Nhân minh, đầu tiên là “lập tông”, tiếp theo là “biện nhân” (lý do), sau cùng là “nêu thí dụ”; còn logic học thì trước tiên lập “tiền đề lớn”, tiếp theo xác lập “tiền đề nhỏ”, cuối cùng là “kết luận”. Kết luận là lập tông của nhân minh, tiền đề nhỏ là lý do, tiền đề lớn là thí dụ. Nay nêu ví dụ để minh họa như dưới đây:
Tam đoạn luận của logic học
Tiền đề lớn: tất cả các vật hễ là kim loại đều có thể truyền điện
Tiền đề nhỏ: nhôm thuộc kim loại
Kết luận: nhôm có thể truyền điện
Ba chi của nhân minh học
Lập tông: nhôm có thể truyền điện
Biện nhân: vì nhôm là kim loại
Thí dụ: hiện tại chúng ta thấy rằng, tất cả kim loại đều có thể truyền điện, như đồng - đồng dụ. Hiện tại chúng ta thấy rằng những vật không thể truyền điện đều không phải là kim loại, như sứ - dị dụ.
Hai phương pháp lập luận này ngoài tiền đề lớn và ví dụ có hơi khác nhau, còn lại đều tương đồng. So với tiền đề lớn, thì đồng dụ và dị dụ trong chi phần thí dụ của nhân minh chu đáo hơn. Hơn nữa trong thí dụ không dùng từ “hễ” như ở tiền đề lớn, mà đặc biệt dùng chữ “hiện tại” càng đậm tính linh hoạt mà không mắc lỗi. Phần thí dụ là cách quy nạp vấn đề rất vững chắc, sử dụng chữ “hễ” trong tiền đề lớn có phần hơi võ đoán, nhôm có thể truyền điện hay không còn phải chờ suy đoán, làm sao lúc chưa đoán định được, thì đã nói hễ là kim loại đều có thể truyền điện, lập luận như thế có phần mạo hiểm. Cho nên lúc biện luận với đối phương, sử dụng phương pháp nhân minh càng vững vàng và đúng hơn dùng phương pháp tam đoạn luận của logic học. Vì vậy, có thể thấy phương pháp nghiên cứu mà Phật giáo sử dụng nghiêm túc và chặt chẽ hơn, hơn hẳn phương pháp nghiên cứu khoa học.
2.2. Công cụ nghiên cứu
Các nhà khoa học rất coi trọng công cụ sử dụng trong nghiên cứu, họ biết rõ ba căn mắt - tai - thân (trong nghiên cứu khoa học hai bộ phận mũi và lưỡi không quan trọng lắm, các loại mùi và vị phải chăng cũng có thể dùng đồ thị dao động để biểu thị, điều này hiện nay vẫn chưa đề cập đến) khi phân biệt ánh sáng, âm thanh, nhiệt độ, độ cứng không đủ độ tinh tế, hơn nữa khả năng phân biệt của mỗi người cũng khác, không có tiêu chuẩn nhất định, cho nên đã sớm nghĩ ra nhiều công cụ, như trắc quang kế (bộ phận cảm quang của máy chụp ảnh cũng là một loại quang kế), máy đo sóng, máy đo âm thoa, máy đo độ cứng, nhiệt kế, máy đo độ nóng…, sử dụng độ nhạy của các vật thể khác nhau, tạo ra những biểu thị số liệu cụ thể, để tránh lỗi sai do chủ quan. Ngoài ra đo lường các thiên thể thì có kính thiên văn, quan sát các vi sinh vật thì có kính hiển vi. Lại như sóng điện từ và đường lực từ của điện lực, các cơ quan của con người căn bản không thể cảm giác được, mà phải dùng máy đo điện và máy đo cường độ từ trường. Ngoài ra còn có máy đo và vẽ bản đồ như máy kinh vĩ đo góc độ và khoảng cách, máy tỷ trọng đo nồng độ của nước, các dụng cụ có độ chính xác cao dùng để đo trọng lượng, độ dày, chiều dài, thời gian…, tên gọi và chủng loại của các thiết bị này nhiều không thể đếm hết.
Các nhà khoa học sử dụng các thiết bị có độ chính xác cao này, thu được các số lượng đơn vị khác nhau rất có giá trị, sau đó sử dụng phương pháp diễn dịch của toán học để suy ra mối quan hệ giữa các số lượng đơn vị, và dựa vào đó vẽ đồ thị đường sin để minh hoạ các trường hợp thay đổi khác nhau của vật chất. Như thế độ chính xác của các thiết bị này là 100% rồi? Nhưng không, các loại thiết bị này cũng có khuyết điểm. Các nhà khoa học biết rõ nó có khuyết điểm nên tiếp tục nghĩ ra phương pháp khắc phục sai lầm. Các nhà khoa học dùng các loại thiết bị khác bổ sung vào những chỗ thiếu sót của máy móc, và dùng lý trí để sửa lỗi của các thiết bị, nhưng ai vận dụng lý trí này? Nếu lỡ như những thứ này bị lỗi thì làm sao để sửa chữa chúng? Các nhà khoa học từ trước đến giờ chưa ai nghĩ đến trường hợp này. Họ không muốn, cũng không dám tiếp tục nêu ra vấn đề này, đành phớt lờ bỏ qua nghi vấn, khiến các nhà triết học nghĩ quàng nghĩ xiên, các nhà tôn giáo nói thần giảng quỷ.
Vấn đề này Phật giáo nắm bắt một cách chắc chắn, cho rằng đây là công cụ chính của tất cả công cụ, là bộ máy tiêu chuẩn nhất của các loại máy, là chiếc gương sáng có thể soi thấu mọi vật mọi cảnh. Nếu lỡ công cụ chính này mất đi hiệu lực và tác dụng, bộ máy tiêu chuẩn mất đi tính chính xác, chiếc gương bị phủ lên một lớp bụi bẩn, thì tất cả đều không phải là chân tướng. Phật giáo dạy chúng ta rằng, bản thể của tâm trong tất cả chúng sinh đều như gương sáng, cùng với Phật không khác, chỉ vì trên chiếc gương đã bị bụi bẩn phủ lên, mất đi chức năng soi chiếu của chính nó, bắt buộc phải dồn sức vào cọ rửa, mới có thể khôi phục bản thể trong suốt của nó. Tam tạng mười hai bộ kinh mênh mông bể sở, mỗi mỗi đều giải thích dùng phương pháp nào để cọ rửa loại bụi trần nào, mục đích của nó là khôi phục được công năng soi chiếu trong sáng, để nó có thể triệt để hiểu rõ chân lý sự thật của nhân sinh vũ trụ. Nhưng công phu cọ rửa lớp bụi bẩn ấy thật không đơn giản, phải sử dụng công cụ và phương pháp để cọ rửa. Tượng Phật thân vàng, chuông mỏ trống bảng, tràng phan hương hoa, thờ cúng ở trong các ngôi chùa hiện nay, người bình thường hiểu nhầm đạo Phật là mê tín, họ đâu biết đây chính là công cụ cọ rửa tâm. Trong các ngôi chùa Mật tông, cách sắp xếp trang trí càng sặc sỡ kỳ quái, làm cho người ta có cảm thấy thần bí, thực ra trong Phật giáo hoàn toàn không có thứ gì thần bí cả, mọi sự mọi vật đều có cơ sở lý trí, chỉ có điều lý luận thâm sâu, người bình thường không dễ dàng hiểu được mà thôi. Lại nhìn thấy sự chuyên cần niệm Phật của Tịnh độ tông, thực hành ngồi thiền, hành thiền của Thiền tông, khai đường truyền giới của Luật tông, cho đến tụng kinh thiền quán của những tông phái khác trong đạo Phật, mỗi phương pháp đều là công phu cọ rửa tâm. Cho nên ở đây tôi chân thành khẩn thiết xin người đọc, đừng khởi tâm thần bí, tâm mê tín, tâm xem thường đối với những phương pháp của Phật giáo đã trình bày ở trên. Nên biết rằng, mọi hành vi cử chỉ, mọi sự việc sự vật trong nhà Phật, đều phát xuất từ trí tuệ Phật, đúng như câu nói Phật pháp như nước cam lộ, giọt nào cũng ngọt, như ngọc Ma ni, mặt nào cũng tròn, độc giả thử tự mình trải nghiệm, sẽ hiểu được những lời này là lời chân thật.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học là cấu tạo của vật chất, sự vận động thay đổi của vật chất, sự giao biến giữa vật chất và vật chất, và quan hệ các loại số lượng xảy ra trong quá trình vận động. Nếu dùng danh từ trong Phật học để nói đến những đối tượng nghiên cứu này, thì chỉ là sắc pháp và các hành pháp bất tương ưng như thời, phương, thế tốc, thứ đệ mà luận Bách Pháp Minh Môn nói đến, chứ chưa nghiên cứu các loại tâm pháp như tâm vương tâm sở. So sánh sắc pháp và tâm pháp, thì sắc pháp cứng nhắc hơn nhiều; tính thay đổi sinh diệt của tâm pháp linh hoạt vô cùng, không giống như sắc pháp dễ dàng đoán biết được. Sắc pháp tuy đơn giản, nhưng khi các nhà khoa học thực hiện nghiên cứu, vẫn không thể nghiên cứu tổng hợp hay toàn bộ được. Như có sự biến động của hiện tượng loại A diễn ra, lúc chịu sự ảnh hưởng của một hay nhiều các hiện tượng B, C, D khác, chỉ có dừng lại động tác của hiện tượng C và D, chỉ để lại hoạt động của một hiện tượng B, sau đó mới có thể suy ra được mối quan hệ nhân quả trong sự thay đổi của hiện tượng A và B. Ví dụ, cường độ của dòng điện chịu sự ảnh hưởng của điện áp và điện trở, muốn biết được sự tương quan của dòng điện và điện áp, buộc chúng ta phải giữ điện trở ở một mức cố định, hoặc muốn biết sự tương quan giữa dòng điện và điện trở, thì phải giữ điện áp ở một mức cố định. Cho nên đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học, thường nghĩ cách làm cho những sự vật phức tạp trở thành những thay đổi cực kỳ đơn thuần, hoàn toàn không thể cùng một lúc nghiên cứu toàn bộ thay đổi của sự vật.
Phật giáo cũng áp dụng phương pháp đơn giản hóa đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của Phật giáo không chỉ có sắc pháp, mà còn là thể hỗn hợp của sắc pháp và tâm pháp, sự thay đổi của nó vô cùng phức tạp vượt xa sắc pháp, cho nên lúc nghiên cứu cũng cần đơn giản hóa đối tượng. Hiện tại trong Phật giáo pháp môn niệm Phật rất thịnh hành, tức là dùng sức chú ý tập trung vào sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, không để tâm tán loạn. Ví dụ khác là tham cứu một câu thoại đầu trong tham thiền, bảo người ta quán xét “mặt mũi vốn có lúc chưa được cha mẹ chưa ra”, và các pháp môn thiền quán khác, cũng đều là một ý này, đợi đến lúc tác dụng của tâm từ đơn thuần mà vào chính định, giống như gió ngưng sóng lặng, mặt nước như gương, lại dùng chiếc gương này để chiếu soi mọi vật, tự nhiên sẽ đạt được cái nhìn chân thực, khác hoàn toàn với lúc chúng ta dùng tâm phiền não tán loạn nhìn được. Tâm tán loạn của chúng ta giống như mặt nước bị gió thổi sóng dâng, lao xao nhiễu loạn, chắc chắn sẽ không chiếu soi được chân tướng của sự vật.
Phương pháp khoa học đơn giản hóa đối tượng vừa trình bày phía trên không phù hợp để ứng dụng cho vật vô tình, nhưng nếu ứng dụng với vật hữu tình, như nghiên cứu các phản ứng của tâm lý hoặc sinh lý, thì cảm thấy khó rồi. Ngành giải phẫu học ngày nay tuy rất phát triển, chức năng của các bộ phận trong cơ thể người đều biết rất rõ ràng, nhưng điều này là nghiên cứu tử thi, chứ không phải nghiên cứu cơ thể sống. Bởi vì trong cơ thể người không những nhân tố vật chất vô cùng phức tạp, mà còn xen tạp vô số nhân tố của tâm, lúc còn sống, người nghiên cứu không thể nào làm cho rất nhiều nhân tố này ngừng lại, vì thế không dễ dàng mà khảo sát được mối quan hệ đơn thuần nào đó. Nếu để mặc cho rất nhiều nhân tố này cùng nhau tồn tại, mà tiến hành nghiên cứu toàn bộ sự chuyển động hỗn hợp sinh động của sắc pháp và tâm pháp, thì các nhà khoa học cũng bó tay. Đối với những vấn đề như thế này, chỉ có ứng dụng định tuệ mà Phật giáo tu tập mới có thể giải đáp được.
3. Bình đẳng quan của Phật giáo
Ý nghĩa của từ bình đẳng trên thế gian là nghĩa hẹp, hiểu ở phần ngọn, chỉ nói đến bình đẳng trong địa vị chính trị, bình đẳng trong địa vị kinh tế, bình đẳng trong cơ hội giáo dục, bình đẳng trong quyền lợi nam nữ, mà không thể chú trọng đến bình đẳng triệt để. Trong cuộc sống có rất nhiều sự khác nhau, bàn về gia đình thì có giàu nghèo, bàn về tướng mạo thì có xấu đẹp, bàn về nhân phẩm thì có tốt xấu, bàn về trí tuệ thì có ngu trí, bàn về sức khỏe thì có yếu mạnh, mọi mặt đều có sự khập khiễng và căn bản không thể bình đẳng. Nhưng theo giáo nghĩa của Phật giáo, đây chẳng qua chỉ là sự sai khác của giả tướng, còn nói đến bản thể của nó thực sự là bình đẳng triệt để. Cho nên kinh Phật dạy: “Tâm, Phật, chúng sinh cả ba không sai khác, hoàn toàn bình đẳng”. Bình đẳng trong Phật giáo nói đến, không phải là bình đẳng cục bộ, mà là bình đẳng toàn diện, không chỉ nói về bình đẳng giữa người với người, bình đẳng giữa Phật với Phật, mà giữa người với Phật, người với động vật, người với trời thần ma quỷ đều bình đẳng. Không chỉ nói về bình đẳng của loài hữu tình, mà tâm pháp và sắc pháp, nhân pháp và quả pháp, tất cả đều bình đẳng, gọi là “pháp này bình đẳng không phân cao thấp”. Nhưng sở dĩ chúng sinh có tướng sai khác, bởi vì mê mất bản tính, khởi tâm tà kiến điên đảo, nên lầm thấy có muôn thứ sai khác. Sự thật thì bản tính của mỗi người đều bình đẳng như nhau, chưa từng thay đổi. Đây là lý luận cơ bản của Phật giáo, toàn bộ giáo nghĩa đều bắt nguồn từ đây.
3.1. Giả tướng của ta và người
Phật giáo nói con người là thể tập hợp của năm uẩn. Năm uẩn là năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc chính là vật chất, thọ tưởng hành thức là bốn chức năng của tâm. Thọ là sự cảm nhận về vui buồn, sướng khổ, tưởng là trí tưởng tượng hoặc tư tưởng, hành là hành vi tâm lý tạo tác thiện ác, thức là khả năng phân biệt hoặc phán đoán. Từ trên phương diện vật chất mà nói, thân thể của mỗi người không có gì ngoài da, lông, xương, thịt, mồ hôi, máu. Nếu nó được gửi đến phòng thí nghiệm hóa học để phân tích, thì kết quả không gì khác hơn là một nhóm lớn các nguyên tử như carbon, hydro, nitơ, phốt pho, kali, canxi, sắt… Cơ thể của bạn là như thế, thân thể của tôi cũng chẳng khác, cho nên cơ thể của động vật khắp thế giới cũng đều như thế. Tôi không thể hỏi nguyên tử sắt trong cơ thể tôi và nguyên tử sắc trong cơ thể bạn có gì khác nhau? Bởi vì phân tích từ phương diện vật chất, trên thực tế giữa tôi với mọi người cũng như mọi loài động vật không tìm thấy chỗ nào khác nhau.
Từ phương diện tinh thần, từ lâu Mạnh Tử đã nói: “Lòng thương người ai cũng có, lòng xấu ác ai cũng có, tâm đúng sai ai cũng có, lòng khiêm nhường ai cũng có”. Điều này chính là nói con người ai cũng có bốn chức năng tinh thần là thọ - tưởng - hành - thức, và hoàn toàn giống nhau. Nói rộng ra đến động vật, mặc dù chức năng của tưởng - hành - thức không mạnh mẽ bằng con người, nhưng cảm nhận về sướng khổ thì rất rõ ràng. Từ động vật bậc cao cho đến các loài động vật bậc thấp, tất cả đều có biểu hiện tâm lý lánh khổ tìm vui, ham sống sợ chết. Cho nên Phật dạy, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, bình đẳng như nhau. Nhưng mà chúng ta cứ bám theo cơ thể của sự tập hợp năm uẩn này, cố chấp sai lầm, dẫn đến khởi lên ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, từ đó thấy mình và mọi người xung quanh hoàn toàn không giống nhau, rồi hết sức để cung phụng cái tôi giả hợp này, lo vẫn chưa đủ, nên thường mưu cầu danh tiếng và lợi ích cho mình, gom hết mọi thứ về cho mình, thậm chí không tiếc giết hại chúng sinh, lấy máu thịt đó cho sướng miệng no bụng mình. Nếu người ta làm tổn hại đến lợi ích, danh tiếng của cái tôi giả dối này, thì liền sinh tâm tức giận và buồn bã, không ngừng dốc sức để chiến đấu với họ. Nếu vẫn chưa đủ sức thắng, thì tiếp tục dùng đủ mánh khóe gian xảo để mong thắng họ. Họ đâu biết rằng, cái tôi này là cái tôi không thật, kẻ địch cũng không phải là thật, một khi hiểu được chân lý này, há không phải buồn cười lắm sao!
Kinh Phật dạy: “Các pháp do duyên sinh, ta nói đó là không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo”. Hiện tại bản ngã mà con người đang chấp trước, chính là pháp do nhân duyên hòa hợp của năm uẩn mà sinh ra, trên tâm pháp thọ - tưởng - hành - thức đã tìm không ra bản ngã (hiện tại các tôn giáo tin lầm linh hồn là bản ngã, đã bị bác bỏ ở đoạn văn trên); trên phương diện vật chất, chẳng những không có cái tôi nào ở trong da, lông, xương, thịt, mồ hôi, máu, mà trong từng hạt nguyên tử càng không có ngã. Cho nên nói một cách triệt để, thì tướng ngã này là không, từ góc độ thế tục mà nói, thì vẫn có thể chấp nhận giả danh này. Chúng ta chỉ cần không chấp trước, không khởi ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, xem mọi người với mình cùng một thể bình đẳng, biết mưu cầu lợi ích cho tất cả chúng sinh, như thế chính là thực hành lời Phật dạy, và đang bước trên con đường trung đạo rồi.
Hơn nữa, Phật giáo không những nói rằng, người không có tướng ngã, thì tất cả các pháp cũng không có tướng ngã. Gọi là pháp vô ngã, tức là các pháp không có tự tính, vì tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi. Nếu có một thực thể hay tự tính, thì không cần phải chờ đủ duyên mới có thể sinh khởi. Chẳng những vật chất là như thế, mà tất cả danh từ, tất cả học thuyết, tất cả chủ nghĩa, thảy đều như thế. Ví dụ, một đất nước phải hội đủ ba nhân tố là cương vực, nhân dân, chủ quyền, cùng nhau hợp lại mới thành, mất đi bất kỳ nhân tố nào trong đó cũng không thể gọi là một đất nước, mỗi một nhân tố hoàn toàn không phải là một đất nước, nhưng tách rời ba nhân tố này, thì đất nước lại không có tự thể, vì nó không có tự thể, cho nên nói đất nước là giả tướng từ ba nhân tố này sinh ra. Lại ví như quân đội cũng không có tự thể, thực tế mà nói, chẳng qua cũng chỉ là một đội ngũ thường dân thông qua huấn luyện quân sự, và khoác lên mình vũ trang mà thôi.
Chúng ta nếu quán xét như vậy, mới có thể hiểu được tướng chân thật của sự vật, mà không bị những tướng giả hợp mê hoặc, vọng khởi đủ các loại tà kiến. Chính như có một bộ phận lớn các học thuyết chủ nghĩa đều là sự tập hợp của một nhóm danh từ mà thôi, làm gì có một thực thể chân thực không thay đổi. Hiện tại có rất nhiều người mê tín về chủ nghĩa cục bộ, mê tín về lực lượng vũ trang xâm lược, cho rằng đó là những thực thể chân thực đáng tin, nên bảo vệ cái tướng không thật của pháp ngã, nhân ngã, mà trong nhà Phật thường gọi là “ngu si”, gọi là “kẻ đáng thương”.
“Đã như vậy thì”, có người vừa nghe xong liền hỏi vặn lại tôi: “Phật pháp mà ông vừa nói, vốn không có tự tính, cũng là không, là những điều giả dối rồi”. Tôi nói: “Hoàn toàn đúng, bạn nói như thế mới hiểu được Phật pháp”. Kinh Kim Cương có dạy rằng: “Những điều gọi là Phật pháp, thì chẳng phải là Phật pháp”. Lại có đoạn: “Nếu có người nói Như Lai có thật thuyết Pháp, tức là phỉ báng Phật, không thể hiểu được những lời dạy của Như Lai. Này Tu-Bồ-Đề, thuyết pháp là không có pháp có thể thuyết, đó mới thật là thuyết pháp”. Phật thuyết pháp cho chúng sinh, là vì chúng sinh ngu si, chúng sinh chất chứa muôn vàn phiền não tà kiến, nên Phật mới nói các phương pháp để đối trị phiền não. Cho nên Phật pháp được xây dựng khi ngu si có mặt, nếu ngu si được chuyển hóa hết, thì Phật pháp cũng không còn.
3.2. Ý nghĩa chân thực của khách quan
Cách nhìn của con người thời hiện tại đối với các sự vật đều thích sử dụng hai chữ “khách quan”, và cho rằng đây là tinh thần khoa học. Thật ra hai chữ này có nghĩa gì? Không có ai nghiên cứu thấu đáo, triệt để. Theo Phật giáo, đã có quán thì cũng đã có năng quán (người quán) và sở quán (vật được quán). Năng quán là chủ, sở quán là các pháp, cho nên hễ có sở quán thì ắt có chủ quán. Gọi là khách thì đó là hữu tình hay vô tình? Vô tình thì không có nhận biết, hữu tình thì người quán sát làm chủ, chủ hay khách cũng vô định, đối với tôi là khách, nhưng đối với người kia lại là chủ. Cho nên từ khách quan mà thế tục sử dụng không phải là liễu nghĩa.
Nay nói thuận theo thế tục, thì khách quan không ngoài ba điểm: Một là không xen lẫn yếu tố tình cảm, hai là dựa vào sự thật đã được công nhận, ba là dựa vào đoán định của lý trí. Theo thế tục, chỉ cần có ba điểm này thì được gọi là khách quan rồi. Nhưng nói theo Phật pháp liễu nghĩa, thì sự khách quan này cũng chưa triệt để. Phật giáo nói tất cả các pháp vốn thanh tịnh và bình đẳng; vì chúng sinh ngu muội nên ở trong tướng thanh tịnh bình đẳng này nhận lầm có tướng ngã, chấp nó là thật có, nên đối với những thứ xung quanh mình, chấp rằng đó chẳng phải tôi, mà xem bản thân là trung tâm. Phàm những ai không phải mình nhưng thuận theo cái tôi này, thì tôi liền sinh tâm tham ái, nếu làm ngược lại cái tôi đó nó liền sinh ghen ghét đố kỵ. Chúng sinh này như vậy, các chúng sinh khác cũng đều như vậy. Thế là vốn là tâm thanh tịnh bình đẳng, thì nay trở thành tâm vẩn đục, không bình đẳng. Ví dụ, hồ nước vào mùa xuân phẳng lặng như gương, nếu bỗng nhiên lấy đá ném vào hồ, thì trên mặt nước liền có muôn vàn làn sóng hình tròn cùng tâm xô nhau. Mỗi hình tròn đó giống như tướng ngã của mỗi chúng sinh, từ giữa tâm đó mà khởi lên vô số vòng sóng hình tròn lan ra ngoài. Bởi vì muôn vàn con sóng hình tròn xô đẩy lẫn nhau, mà làm cho mặt nước bình đẳng thanh tịnh, trở thành tướng hỗn loạn không bằng phẳng nữa. Trên mặt nước không bằng phẳng này, không có một phân tử nước nào không chịu ảnh hưởng từng cơn sóng dao động. Từ ví dụ này chúng ta có thể suy ra tất cả sự vật trên thế giới, không có thứ gì không có chủ quan của chúng sinh xen vào, bất cứ lý lẽ được cho là khách quan nào cũng từ rất nhiều lý lẽ chủ quan đan kết thành. Cho dù số lượng sử dụng máy móc để đo đạc được, và dùng công thức do toán học tính toán ra, thì vẫn không tránh khỏi chủ quan. Cho nên nhất định phải đoạn trừ ngã tướng, chủ thể, khách thể không còn nữa, sau đó mới có chân lý khách quan thuần túy. Không có tướng ngã, không có khách thể, chủ thể, giống như mặt hồ không có sóng, phẳng lặng như gương, vật đến thì bóng hiện, như gương chiếu vật, như thế mới đích thực là khách quan.
3.3. Từ bi và bác ái
Các nhà tôn giáo thường tuyên truyền bác ái, người học chưa hiểu rõ đã tự động hòa theo, cho rằng đây là đạo lý hiển nhiên, lý luận tuyệt đối chân thực, đâu ngờ Phật giáo không những không nói bác ái, mà ngược lại còn xem ái là nguyên nhân của khổ đau, là gốc của sinh tử luân hồi, chuyển hóa nó sợ còn không kịp. Thế thì Phật giáo nói từ bi và bác ái khác nhau như thế nào? Ý nghĩa của hai từ này hoàn toàn khác nhau. Vì đã gọi là ái, tức là có đối tượng để ái, đã có chủ thể và khách thể, tất nhiên sẽ có phân biệt người và ta, mình là người chủ động yêu thương, và kia là đối tượng được yêu thương. Đã có tướng mình, tướng người, liền có sai khác. Yêu thương mình hơn yêu thương người khác, người đời phần nhiều đều như vậy, đây quả nhiên là cái thấy của tục đế. Nhưng nếu nói yêu thương người phải hơn yêu thương mình cũng chỉ là thiên lệch thôi. Hơn nữa đã nói là yêu thương, nhất định sẽ có điều kiện để đáng được yêu thương, ví dụ nói, bởi dung mạo của anh ấy đẹp, học vấn cao, phẩm chất đạo đức tốt; nhưng dung mạo, học vấn, phẩm hạnh đều là những thứ không phải cố định, không phải là thứ tuyệt đối, một khi nó thay đổi thành không tốt, hoặc không đẹp như lúc trước, hay không đẹp bằng người khác, thì bạn sẽ không yêu thương anh ta nữa. Lại nữa, đối tượng tôi yêu thích, người ta cũng yêu thích, tôi yêu thích nên tôi lấy làm của tôi, vậy thì người khác mất đi đối tượng họ yêu thích, vì thế tôi được thì người mất, người được thì tôi mất, thế là sinh lòng đố kỵ, ghen ghét, phát tác ra hành vi, đó là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Bàn đến quả của nó, đó là nỗi khổ oán ghét mà gặp nhau, nỗi khổ cầu mong không được, nỗi khổ yêu thương mà xa cách, vậy là thế gian thanh tịnh trở thành đời ác năm trược.
Cho nên Phật dạy ái là gốc của sinh tử luân hồi, là nguyên nhân sinh khởi ưu sầu khổ não. Ái đã là nguyên nhân của mọi nhiễm ô, cho dù nó rộng lớn bao la đến vô cùng, thì cũng không có cách nào biến nhiễm ô thành thanh tịnh được. Đây chính là lý do mà Phật giáo không đề xướng bác ái. Lại có một câu cửa miệng rằng “yêu kẻ thù của mình”, cũng là câu mà các nhà tôn giáo thường nhắc đến, thực ra đã gọi là địch thù, thì trong tâm đã có tướng kẻ thù rồi, khởi tâm đối với tướng kẻ thù thì chỉ có oán hận, căm ghét, đố kỵ, chứ tuyệt đối không khởi tâm yêu thích, hoan hỷ; cho dù bạn miễn cưỡng thương yêu kẻ địch của mình, thì cũng chỉ là lòng giả dối, tâm lừa gạt. Phật giáo hoàn toàn không nói như thế, mà dạy chúng ta đối với những người làm tổn hại mình, trước tiên nên dùng tâm quán xét bình đẳng, không suy nghĩ là bạn hay thù, chúng ta không cần phải yêu thương họ, chỉ khởi tâm đại bi đồng thể là được rồi, nghĩ cách làm mất đi tâm não hại của họ, khiến cho họ chuyển thành sinh tâm hoan hỷ. Như vậy mới là Phật pháp, nên tại đây tôi tiếp tục giới thiệu cùng quý độc giả về ý nghĩa chân thật của tâm từ bi.
Phật giáo giải thích hai chữ từ bi như sau, từ là ban vui, bi là cứu khổ. Từ bi không phải xuất phát từ việc xem mình là trung tâm, mà được xây dựng trên tinh thần bình đẳng của tất cả chúng sinh. Đây là điểm khác biệt hoàn toàn giữa từ bi và bác ái. Đoạn văn trên có trình bày qua, từ phương diện vật chất, tất cả chúng sinh đều có cùng một thể tính, hoàn toàn không sai khác. Từ góc độ tinh thần, tất cả chúng sinh có đầy đủ tâm thức như nhau, hơn nữa tinh thần càng có ranh giới phân biệt, điều đó càng biểu hiện rõ chúng sinh có cùng một thể tính bình đẳng, cho nên trong Phật giáo gọi từ là bình đẳng từ, vô duyên từ, bi là đồng thể bi. Lúc chúng ta thực hành phương pháp quán từ bi, trước tiên nên quán xét tất cả chúng sinh (bao gồm chính mình trong đó) đều cùng một thể bình đẳng, như thấy chúng sinh đang cần điều gì, tôi sẽ tùy theo khả năng của mình mà cho thứ đó, khiến họ được hài lòng và vui vẻ. Lúc tôi bố thí cho chúng sinh, thì không thể có ý nghĩ tôi là người bố thí, người kia là người nhận bố thí, giữa hai người cho và nhận, cũng không có ý nghĩ tài vật bố thí nhiều hay ít, nếu được như vậy sẽ không khởi tâm kiêu mạn, không mong cầu danh tiếng, không mong chờ báo đáp, không duyên theo tất cả tướng, đây mới gọi là vô duyên từ, bình đẳng từ. Nếu thấy chúng sinh đang gặp đau khổ, nên quán tưởng đồng thể, người kia chịu khổ, tức là mình đang chịu khổ, không có sự phân biệt người hay mình, nên khởi tâm đại bi, tùy theo năng lực của mình, mà giúp người vượt qua khổ đau. Lúc mình cứu độ chúng sinh, cũng không được phân biệt tướng mình và tướng của người khác, không mong danh dự hay báo đáp, không chấp trước các tướng, đó mới gọi là đồng thể đại bi.
Sau khi hiểu về lý luận của từ bi, tự nhiên không muốn sát hại chúng sinh để cung cấp cho miệng ngon bụng đầy; tự nhiên không muốn lấy những thứ không phải của mình để tiêu xài cho bản thân; tự nhiên sẽ không tham cuồng vào sắc đẹp, khởi tâm tà dâm. Vì thế, chúng ta hiểu được các loài gà vịt lợn cá và chúng ta đều cùng một thể; tiền tài sắc đẹp ngoài tâm không tìm đâu mà có, người mang lòng tham và đối tượng bị tham, cả hai đều không thể đạt được. Thế nên chúng sinh phạm vào sát đạo dâm, cũng đều do ngu muội mà thôi. Nếu sau khi chúng ta hiểu rõ về lý luận từ bi này, đối với rất nhiều sự tích cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm, sẽ không cho là mê tín, hay lên án đó là chuyện hoang đường, vì chúng ta đã biết rằng pháp thân của Bồ Tát Quán Thế Âm và bản tính của chúng ta là cùng một thể bình đẳng, vì cùng một thể tính, nên tôi có chiêu cảm thì Bồ Tát cũng ứng hiện, nhưng phải có tâm chí thành tha thiết, nếu không sẽ bị tham dục phiền não ngăn ngại, tức không dễ dàng tương ưng với bản thể. Nếu bản thể của Bồ Tát và của chúng sinh không phải là một thể bình bình đẳng, mỗi mỗi đều có một không gian nhất định, thì Bồ Tát không thể tùy duyên ứng hiện, cũng bị phiền không thể đến đi cứu độ chúng sinh. Một tiếng Phật hiệu cũng không còn ý nghĩa gì nữa!
3.4. Phân biệt thiện - ác
Đừng làm việc ác, nên làm việc lành, hai câu này đúng là đứa trẻ lên ba cũng biết. Nhưng hai câu nói này không phải là khẩu hiệu thường dùng của nhà Phật, mà các tôn giáo khác cũng nói như vậy, vì thế thông thường những người không hiểu thấu đáo, liền căn cứ vào tám chữ này mà cho rằng tất cả tôn giáo đều tốt, đều khuyên người làm thiện. Đối với những người có đầu óc khoa học, thích phân tích mọi thứ kỹ càng, không thích qua loa sơ sài, thì cho rằng vấn đề không đơn giản như vậy. Trước hết chúng ta cần hỏi: Các tôn giáo khác định nghĩa như thế nào về thiện - ác? Tiêu chuẩn của thiện - ác là gì? Mục đích của việc khuyên người dừng ác làm thiện là gì?
Liên quan đến định nghĩa về thiện và ác, mỗi tôn giáo khác nhau. Có tôn giáo xem việc lạy tổ tiên là việc ác, nhưng Phật giáo và Nho giáo thì xem đó là việc thiện. Có tôn giáo cho rằng các loài động vật bậc thấp là sản phẩm do đấng sáng thế đặc biệt tạo ra cho nhân loại ăn, vì thế giết và ăn các loài đó không phải là việc ác. Có tôn giáo chủ trương chỉ ăn một số loài động vật nào đó, mà không ăn các loài động vật khác, ăn loài vật không nên ăn mới tính là tạo việc ác. Nhưng theo Phật giáo, hễ giết bất kỳ loài vật nào đều là làm ác.
Liên quan đến tiêu chuẩn của thiện - ác, mỗi tôn giáo cũng có lý luận khác nhau, phần lớn dựa vào lời răn cấm của các vị giáo chủ tôn giáo lập ra, phạm vào những điều răn ấy tức là ác. Nhưng Phật giáo phân ra rất rõ ràng, đệ tử tại gia có tiêu chuẩn của tại gia, đệ tử xuất gia có tiêu chuẩn của xuất gia, tiêu chuẩn của giới Bồ Tát và của giới tỳ kheo cũng không giống nhau. Có trường hợp đệ tử tại gia phạm nhưng không xem là ác, cũng lỗi ấy nhưng người xuất gia phạm vào thì xem là ác, có trường hợp người thọ trì giới tỳ kheo phạm thì không xem là ác, nhưng người thực hành giới Bồ Tát phạm vào thì xem là ác.
Liên quan đến mục đích của bỏ việc ác làm việc thiện, các tôn giáo cũng không giống nhau, có tôn giáo cầu được sinh lên cõi trời, có tôn giáo theo Thánh mong hiền, nhưng Phật giáo thì cầu được quả vị giác ngộ chân chính bình đẳng vô thượng, chứ không mong cầu phúc báo nơi nhân gian hay cõi trời. Như thế có thể thấy, bàn về hai chữ thiện - ác thôi, đã không hề đơn giản như người bình thường nghĩ tưởng.
Phật giáo bàn về đạo lý thiện - ác đã nói tường tận, tỉ mỉ. Nói đến thiện thì có phân chia thành hành thiện và chỉ thiện, thiện hữu lậu và thiện vô lậu. Hành thiện là làm thiện mang tính tích cực, chỉ thiện chỉ thiện tiêu cực; thiện hữu lậu là chỉ việc làm thiện chưa triệt để, còn sự xen lẫn phiền não dẫn đến quả thiện còn phiền não; thiện vô lậu là chỉ việc làm thiện triệt để tròn đầy, không có mặt của phiền não. Đối với vấn đề thiện - ác, phần lớn người đời không phân biệt rõ ràng, cho nên người ta thường nói: “Tôi chỉ làm theo lương tâm của mình, tự hỏi lòng mình không thấy hổ thẹn, từ trước đến nay chưa từng làm việc ác”. Trên thực tế, câu nói này vẫn chưa thấu đáo. Theo giáo nghĩa triệt để (giáo lý liễu nghĩa) của Phật giáo, thì bản thân họ tuy nói không làm ác, nhưng thực ra từ sáng đến tối chẳng có lúc nào rời được ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, mọi sự mọi việc đều mưu cầu lợi ích cho mình, gieo trồng các hạt giống phiền não đau khổ. Lương tâm mà họ nói đến chỉ là sáu thức phân biệt hư dối, chính là sáu loại giặc thường cướp lấy chân tâm thanh tịnh quý báu mà Phật giáo nói đến, từ lâu họ đã đắm chìm trong ngu muội sâu nặng, nhận giặc làm con, ngày ngày làm ác, giờ giờ làm ác, mà tự mình không hề hay biết.
Cho nên, một người muốn dừng ác làm thiện, trước tiên phải hiểu rõ ý nghĩa chân thực của thiện - ác, sau đó mới biết nên làm như thế nào. Muốn hiểu rõ ý nghĩa chân thực của thiện ác, nhất định phải hiểu rõ quan điểm bình đẳng của Phật giáo. Theo quan điểm bình đẳng của Phật giáo, tất cả chúng sinh đều bình đẳng, không phân biệt khách quan, chủ quan, không có sai khác giữa ta với người. Chúng sinh vì bị vô minh che đậy, nên ở trong cảnh không có phân biệt khách thể, chủ thể mà nhận lầm có khách thể, chủ thể, trong cảnh không có phân biệt ta và người lại phân biệt sai lầm ta và người; từ chấp ngã này sinh tâm ngã mạn, cho rằng mình quan trọng hơn bất cứ ai, cho mình là người đáng yêu nhất, rồi ra sức chiếm lấy mọi loại vật chất đáng hưởng thụ, để phục vụ cho cái “ta”. Đây chính là khởi đầu của mọi việc ác, gọi là mười loại ác nghiệp tham, sân, si, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói lời hai lưỡi, nói lời ác, nói dối, nói lời thêu dệt, cho đến các loại tà kiến phiền não cũng từ đó mà sinh ra. Nói một cách triệt để, hễ ngã kiến có mặt thì không bàn là đối với người hay ta có lợi có hại như thế nào, chỉ cần tất cả hành vi tâm lý tương ưng với ngã kiến này thì đều là tạo nghiệp ác. Ngược lại nếu không có mặt của ngã kiến này, thì tất cả hành vi đều là việc nghiệp thiện. Đây mới chính là định nghĩa thấu đáo về thiện - ác trong Phật giáo. Nhưng vì chúng sinh từ kiếp lâu xa đến nay đã tích chứa sâu nặng, nên Phật mới phương tiện thuyết pháp, lập nên các loại tiêu chuẩn, để chúng sinh lần lượt tu tập theo.
Còn các tôn giáo khác không xem việc sát hại động vật là việc ác, thậm chí nói động vật có sự sống nhưng không có tính linh, hoặc chủ trương động vật là sản phẩm của thần tạo hóa ban cho con người làm thức ăn, thế thì không những không hiểu chân lý, mà đúng là tà kiến, mong độc giả đừng bị những sai lầm ấy làm mê hoặc. Có những tôn giáo xem việc tín ngưỡng một vị thần hay nhiều vị thần là việc thiện, người tin sẽ được phúc sinh lên thiên đường, người không tin thì phải tội bị đọa vào địa ngục. Điều này theo Phật giáo thì tín ngưỡng vị thần này, tức là trái với tính bình đẳng, là ác chứ không phải thiện, hoàn toàn ngược lại với tín ngưỡng Phật tính bình đẳng của Phật giáo. Phật giáo bình luận thiện ác đều xuất phát từ tâm địa, không xem trọng sự tướng, khác với thế gian xem trọng sự tướng. Ví dụ, chỉ thấy người ta mắng người đánh người, thì chưa đủ để xác định được thiện hay ác, mà phải xem họ làm với tâm như thế nào, sau đó mới đoán định. Nếu vì lợi ích của người khác thì hành động đánh hay mắng vẫn được xem là thiện, nhưng nếu vì mưu cầu lợi ích cho chính mình thì dù có kính trọng lễ phép với người ta cũng là hành vi ác, huống hồ là đánh mắng. Theo giới bổn Bồ Tát thì người thực hành giới Bồ Tát, như phá trừ ngã kiến, nhưng vì lợi ích cho chúng sinh, tuy có hành vi sát sinh, trộm cắp, tà dâm, cũng không xem là ác, mà ngược lại là việc làm thiện. Ví dụ, trong nước có một bạo chúa, tham lam, hiếu chiến, khiến vô số người dân mất của, mất mạng, người thực hành giới Bồ Tát không thể khoanh tay đứng nhìn, mà dốc sức dốc trí, loại trừ vị bạo chúa này, tuy giết hại họ, cũng không nói là phạm giới sát sinh, mà còn được công đức lớn. Như vậy chứng tỏ Phật giáo là tôn giáo tích cực và hợp lý như thế nào rồi.
4. Nguyên lý duyên sinh
Bình đẳng quan của Phật giáo là chỉ cho bản thể của Phật tính chân như; duyên sinh quan là chỉ cho mọi hiện tượng tâm và vật nương nơi bản thể mà vọng hiện. Hai loại quan niệm này hợp nhất, chính vì nói tất cả pháp duyên sinh, cho nên nói tự tính vốn không; vì tự tính vốn không, cho nên nói tất cả các pháp đều bình đẳng. Nếu các pháp thật có, thì pháp pháp khác nhau, giữa pháp này và pháp kia không thể tương thông thay đổi, thì làm sao có thể bình đẳng? Cho nên nguyên lý duyên sinh của Phật giáo là một lý luận căn bản giải thích các loại vận hành thay đổi của vũ trụ vạn vật, các loại học thuyết khác đều không trái với nguyên lý duyên sinh này. Khoa học đang dần dần phát triển, đặc biệt có thể chứng minh sự đúng đắn của lý luận duyên sinh. Khi khoa học chưa phát triển, đối với sự vận hành và sinh khởi của con người, vũ trụ, có nhiều cách lý giải khác nhau, nếu dùng quy luật nhân quả mà Phật giáo và khoa học đều công nhận để phê bình, thì các lý giải đó đều thuộc tà kiến hoang đường và không có tính hợp lý, nay chọn một vài lý thuyết tà kiến đó để trình bày như dưới đây.
4.1. Tà thuyết trái với luật nhân quả
Những loại tà thuyết này có thể phân thành bốn loại: Thuyết vô nhân, thuyết bất bình đẳng nhân, thuyết định mệnh, thuyết chủ nghĩa duy vật máy móc.
4.1.1. Thuyết vô nhân
Thuyết vô nhân là một kiểu lý thuyết ngu muội, thiếu trí, xét về lý luận thì không thể thành lập được. Giả sử tất cả sự vật tự có mặt chứ không cần nhân và duyên, vậy thì tại sao giữa không trung không tự dưng sinh ra vàng bạc châu báu? Chúng ta hà tất phải nỗ lực kinh doanh các loại sự nghiệp? Có người cứ việc ngồi chờ sung rụng, kết quả tập thành thói xấu biếng nhác và bị vận mệnh chi phối. Ví dụ như các loại bài bạc, xổ số đều từ các tâm lý này tạo nên. Sở dĩ người ta nói ra lý thuyết này cũng chỉ vì nguyên nhân hình thành của các loại sự vật trong cuộc sống, không phải qua loa hời hợt mà có thể tìm ra được. Nhìn từ bề ngoài của sự việc, dường như có rất nhiều chuyện tình cờ xảy ra ngoài ý nghĩ của con người. Trên thực tế, sự sinh diệt liên tục của mỗi sự vật sự việc đều dựa trên quy luật nhân quả. Có điều, nhân quả của vật chất tương đối đơn giản, dễ nhận biết, nhưng những việc của con người thông thường đều là sự hỗn hợp của sắc pháp và tâm pháp, một khi nhân tố tâm lý được thêm vào, thì mối quan hệ nhân quả của nó trở thành vô cùng phức tạp, thời gian diễn biến cũng sẽ kéo dài. Có rất nhiều nhân sau khi được gieo xuống lại thường không phải một đời có kết quả, thậm chí cách mấy đời sau, mới gặp duyên mà sinh quả. Những việc như thế này đối với người chưa chứng đắc túc mệnh thông, đương nhiên là không thể tìm ra được nhân, vì thế họ mới khẳng định việc này không có nhân. Chúng ta đã từ sự thay đổi của vật chất, mà biết được mối quan hệ của nhân quả, thì cũng biết sự vật hỗn hợp giữa sắc pháp và tâm pháp chắc chắn có quy tắc nhân quả nhất định, không có trường hợp ngoại lệ vô lý, cũng không thể tạm thời không tìm thấy nhân của nó, mà tùy tiện khẳng định là không có nhân, nếu không thì sẽ rơi vào các loại phán đoán suy luận sai lầm như trên đã trình bày.
4.1.2. Thuyết bất bình đẳng nhân
Gọi là bất bình đẳng nhân là nói nhân này có thể sinh ra vạn pháp, nhưng nhân này không phải do nhân khác sinh ra, không bình đẳng với vạn pháp, cho nên gọi là không bình đẳng. Trong thuyết bất bình đẳng nhân có chủ trương một nhân sinh vạn pháp, cũng có chủ trương vài nhân không tương thông với nhau sinh ra. Như hiện nay các tôn giáo nói có một đấng sáng tạo vạn năng, có thể tạo ra mặt trời, trăng sao, cỏ cây, sông núi, người, vật, muông thú, đấng sáng tạo này chính là một nhân trong bất bình đẳng nhân. Nếu là mọi loài mọi vật đều từ một nhân này sinh ra, mà không cần các nhân hỗ trợ khác (tức là duyên), thì tất cả vạn pháp trên thế giới phải có mặt cùng một lúc, không có thứ tự trước sau. Nhưng căn cứ theo những sự vật mà chúng ta nhìn thấy, đều có thứ tự sinh ra trước sau, những thứ được khoa học phát minh cũng ngày càng đổi mới, đều là những thứ mà trước đây chưa từng có. Nếu nói đấng sáng tạo có thể muốn gì làm nấy, mỗi lúc tạo mỗi thứ, nên có trước sau, thế thì hỏi cái tâm muốn tạo tác này là có điều kiện hay không điều kiện? Nếu có điều kiện thì đấng sáng thế không thể tự chủ, không phải là đấng toàn năng; nếu không có điều kiện thì vẫn là mọi thứ cùng một lúc được sinh ra. Thêm vào đó, đấng sáng thế đã không cần tạo ra, vậy thì vạn vật cần gì được tạo? Và vì lý do gì mà đấng sáng thế tạo ra vạn vật? Nếu nói là để thỏa mãn niềm vui của mình, thế thì cớ gì lại tạo ra địa ngục, ma quỷ, vô vàn các loại xấu xa đáng ghét? Nếu nói đấng sáng thế thích làm như thế, vậy thì đấng sáng thế này trở thành chủ nhân của mọi tội ác rồi. Vả lại, đấng sáng thế này nếu quả thật là đấng toàn năng, thì phải tạo ra con người vạn vật phúc đức, trí tuệ, đoan trang, mỹ lệ, không nên tạo ra thế giới xấu ác như thế, để rồi sau đó lại đi cứu họ, chuộc tội giúp họ. Nếu tạo không được, thì không phải là vạn năng. Nếu có thể tạo được nhưng vẫn cố ý tạo thế giới xấu ác khổ đau, thì tội này không thể tha thứ. Cho nên thuyết một nhân về mặt lý trí sai hoàn toàn.
Những buổi đầu khoa học có mặt, từng ngộ nhận nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không thể phân tách, nguyên tử này tổng cộng có 92 loại, là nhân của tất cả các loại vật chất, đây là thuyết nhiều nhân trong bất bình đẳng nhân. Không lâu sau, học thuyết này đã bị hủy bỏ, nhưng do cố chấp điện tử là đơn vị nhỏ nhất, nên lại cho rằng nguyên tử là một thể chân thường bất biến, thế là lại từ thuyết nhiều nhân chuyển thành thuyết một nhân. Sau khi nguyên tử được phát kiến, sai lầm của thuyết này mới được sáng tỏ, hóa ra vật chất trước đây từng cho là thường trụ bất biến, có thể trở thành phi vật chất, trước đây cho rằng năng lượng và vật chất là hai họ khác nhau, bây giờ mới biết hóa ra là người một nhà. Từ đó các nhà khoa học đã tự động hủy bỏ thuyết bất bình đẳng nhân này, quay lại dựa vào quy luật nhân quả bình đẳng của Phật giáo.
4.1.3. Thuyết định mệnh
Người sáng lập thuyết này cho rằng mọi sự đều có sự định sẵn, hay do trời định, chẳng phải sức người có thể cưỡng lại được, kết quả khiến con người có tâm lý tiêu cực, thiếu trách nhiệm. Phái Lạc Thiên của Trung Quốc cũng thuộc loại này. Trung Quốc thịnh hành thuyết thiên mệnh, nếu quả thuộc định lý, tức là trở thành thuyết định mệnh. Nếu không phải định lý, thì từ đâu mà suy đoán? Nên biết, gieo nhân tuy tại đời trước, duyên hợp thì tại đời này, đời trước tuy trồng nhân ác, đời này nếu có thể siêng làm việc thiện, thì vô duyên cũng không thể sinh quả ác. Như có tâm sám hối, đó là tăng thượng duyên nghịch của nhân ác, cũng có thể tiêu trừ quả ác. Ông Viên Liễu Phàm đời nhà Minh từng đích thân thực nghiệm việc này, ban đầu mọi việc xảy ra đều chính xác như lời dự đoán của nhà toán số, nhưng sau khi nghe lời dạy của thiền sư Vân Cốc hiểu được lý này, liền lập chí thay đổi số mệnh, siêng năng làm việc thiện, kết quả vượt xa dự định ban đầu (có thể xem trong “Liễu Phàm Tứ Huấn”).
Cho nên cái gọi là thuyết định mệnh, trong cái cố định thực có bất định, nếu có thể thấu rõ được nguyên lý duyên sinh của Phật giáo, thì không đến nỗi mê tín theo thiên mệnh, rơi vào tiêu cực như vậy. Huống nữa họa phúc vốn do tự mỗi người tạo nên, vì vậy muốn tìm lành tránh dữ, không thể mong cầu ở bên ngoài. Nhưng nếu có thể hiểu rõ tội và phúc vốn duyên sinh không thật, tuy siêng năng tu phúc đức nhưng không chấp vào phúc đức, vậy thì cảnh giới càng cao hơn một bậc nữa rồi.
4.1.4. Thuyết duy vật máy móc
Các nhà triết học của thuyết duy vật máy móc cho rằng mọi thay đổi của con người là chịu ảnh hưởng của di truyền và môi trường hoàn cảnh của mỗi thời đại. Họ cho rằng tâm là hiện tượng biểu hiện của vật chất, cho nên tất cả nhân tố thay đổi chỉ là vật chất và thời gian mà thôi. Dựa vào thuyết này để bàn, nếu có người sống trong cùng một thời đại, sinh trưởng trong một gia đình giống với tổng thống thứ 32 của Mỹ Franklin Delano Roosevelt, bắt đầu từ thời thơ ấu, hưởng thụ cuộc sống vật chất giống như Roosevelt, thì tương lai người này nhất định sẽ trở thành một vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ, và có một sự nghiệp vĩ đại giống như vậy. Thuyết này và việc lắp ráp thành công một chiếc ô tô bằng một số bộ phận và vật liệu giống nhau sẽ trở thành một thương hiệu giống nhau, có công dụng giống nhau, có cùng một ý nghĩa, vì vậy thuyết này được gọi là thuyết máy móc. Thuyết này xem bất cứ sự thay đổi nào của con người cũng giống như sự phục tùng quy tắc khoa học của máy móc vậy.
Theo quan điểm của Phật giáo, vật chất thực sự là nhân tố, nhưng nhân tố tâm lý đặc biệt quan trọng. Vật chất tất nhiên có thể dẫn đến tác dụng của tâm, nhưng tâm cũng có thể dẫn đến những thay đổi của vật chất. Lý luận của thuyết duy vật máy móc vẫn căn cứ trên các định luật vật chất bảo tồn của môn vật lý cũ. Lớp nhà triết học này nếu như có thể đọc được vật lý học hiện đại, họ nhất định sẽ kinh sợ, ngay lập tức đem tác phẩm của mình ném vào lò sưởi, rồi quay lại cầm kinh Phật mà đọc. Bởi vì các nhà khoa học hiện đại sẽ nói với họ rằng, vật chất có thể biến thành năng lượng phi vật chất, năng lượng lại lấy thời gian và không gian làm nhân tố quan trọng, thời gian lại không thể tách rời nhân tố tâm. Do đó, suy ra rằng không chỉ năng lượng và vật chất là một nhà, mà cả vật chất và tâm chẳng phải đều là người của mình sao? Cơ sở của thuyết duy vật máy móc đã bị gãy đổ, cũng không cần thiết phải bác bỏ từng chi tiết nữa.
Bốn loại luận thuyết ở trên đều được Phật giáo gọi là biến kế sở chấp, giống như lông rùa sừng thỏ, không thể có được. Nếu tin vào các luận thuyết này, sẽ bị các tệ hại: Một là khiến cho con người đối với những việc làm của mình không có lòng tự tôn, không có ý thức trách nhiệm, đổ lỗi sơ suất sai lầm của mình là do vận mệnh, do thần trời, do hoàn cảnh xã hội; một khi đạt được thành công thì gom công về mình, cho rằng chỉ mình tôi (đây là thuyết nhất nhân) tạo nên, người khác không được tranh công. Hai là khiến cho con người chỉ biết ra sức khuếch trương tham dục, mà không chịu tích cực phục vụ xã hội. Ba là khiến cho con người thiếu hẳn lòng từ bi đối với mọi người xung quanh, dưỡng thành tâm lý ngã mạn tự cao, tranh đoạt, hiếu chiến. Muốn tránh được các tệ nạn này, chỉ có tin sâu luật nhân quả vạn hữu của Phật giáo.
4.2. Luật nhân quả vạn hữu
Luật nhân quả của Phật giáo phù hợp với tất cả sự thay đổi của tâm, sự thay đổi của vật chất, sự thay đổi của hỗn hợp tâm và vật chất. Từ chúng sinh cho đến thành Phật, từ thế gian cho đến xuất thế gian, không ai không chịu sự chi phối của định luật này, cho nên tác giả gọi định luật này là luật nhân quả vạn hữu. Nhân quả là gọi tắt, nói đầy đủ phải là nhân duyên quả báo. Nhân là nhân chính, duyên là nhân phụ, thứ do nhân và duyên hòa hợp mà sinh ra gọi là quả, quả này đối với nhân tạo ra mà nói gọi là báo. Trong kinh Phật có một bài kệ nói rõ về định luật nhân duyên quả báo này: “Dù trải qua trăm kiếp nghìn đời, những nghiệp đã tạo không dời đi đâu, nhân duyên hội ngộ chín muồi, quả báo trả lại cho người tạo nhân”. Bài kệ này giải thích ba điểm: Thứ nhất, các nghiệp chúng ta đã làm gọi là nhân, nhân này mặc dù trải qua thời gian rất dài cũng không tự mất đi, giống như định luật động lực học của Newton, nói vật thể tĩnh thì nó sẽ tĩnh mãi mãi, nếu vật thể động nó sẽ động mãi, nếu nó không có lực bên ngoài tác động thì sẽ không tự mình thay đổi. Thứ hai, nhân này cho dù thời dài dài ngắn, hễ gặp duyên thì tựu quả, giống như vật thể tĩnh gặp một lực từ bên ngoài tác động thì nó sẽ động, hoặc vật thể động gặp lực bên ngoài tác động thì chuyển hướng hoặc dừng lại hoặc chuyển động nhanh hơn. Thứ ba, tự tạo nhân, tự chịu quả, tất cả họa phúc đều do tự mình làm tự mình chịu, chứ không phải do thiên thần thưởng phạt, cũng không phải mình làm mà người khác chịu, người khác làm mà mình chịu, như các tôn giáo khác đã nói.
Luật nhân quả của khoa học cũng nằm trong luật nhân quả vạn hữu này, chẳng qua giới khoa học chỉ nghiên cứu đến quy luật nhân quả giữa vật với vật, mà không tiếp tục nghiên cứu các nhân tố của tâm hoặc các vấn đề nhân quả liên quan đến con người. Cho nên quan hệ nhân quả trong khoa học vô cùng đơn giản. Ví dụ, cho một sợi dây đồng di chuyển trong từ trường để cắt đường lực từ, thì trong sợi dây đồng này liền sinh ra điện áp. Theo như sự thay đổi của vật chất này, dây đồng là nhân chính, động lực và đường lực từ là nhân phụ, và điện áp là quả. Vì dây đồng là một vật vô tình, nên không gọi là báo. Nếu không có dây đồng, điện áp sẽ không tự sinh ra, vì vậy dây đồng là nhân chính. Nhưng đã có dây đồng, mà không có động lực để đẩy nó, và không có đường lực từ để nó cắt, thì điện áp vẫn không thể phát sinh, vì vậy động lực và từ trường là duyên. Có nhân này, có duyên này, thì nhất định sẽ sinh quả này, chắc chắn như vậy, vì thế gọi đó là luật nhân quả. Bởi vì có quy tắc nhất định, cho nên chúng ta có thể thiết kế trước, chế tạo ra máy phát điện… nếu không như vậy, thì có thể chế tạo thành hay không, ắt phải nghe theo vận mệnh, hoặc cầu mong ở trời thần. Nhờ luật nhân quả này, các ngành công nông thương nghiệp mới được thành lập. Nông dân trồng lúa được gạo, trồng đậu được đậu. Xưởng dệt sử dụng bông làm nguyên liệu và sử dụng máy móc nhân công để dệt thành vải. Các nhà máy bột mì sử dụng lúa mạch làm nguyên liệu, có thêm nhân công, máy móc để làm thành bột mì, tất cả đều là nhân quả rõ ràng. Mối quan hệ giữa vật chất với vật chất như thế, và mối quan hệ giữa tâm với vật chất, giữa tâm với tâm cũng như vậy. Huống gì tâm và vật vốn cùng một thể, từ đó suy rộng ra quy luật nhân quả này không sai đâu được.
Chỉ có mối quan hệ nhân quả giữa sắc pháp và tâm pháp do Phật giáo trình bày phức tạp hơn nhiều so với những ví dụ trình bày ở trên, cho nên ba nhân tố nhân duyên quả được phân tích một cách tỉ mỉ. Ở đây chỉ trình bày tóm lược, muốn tìm hiểu tường tận, phải nghiên cứu kinh luận của tông Pháp tướng. Nhân được kinh Phật ghi chép lại có hai thuyết là sáu nhân và mười nhân, sáu nhân xuất xứ từ luận Câu Xá, mười nhân xuất xứ từ luận Du Già, đều mở rộng phạm vi của nhân bao gồm cả duyên trong đó. Về phân loại của duyên, kinh Trường A Hàm chia thành bốn loại: Nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, và tăng thượng duyên. Cách phân loại nhân duyên này đều được Đại thừa và Tiểu thừa công nhận. Kinh điển Phật giáo tiếng Pali thì phân thành 24 duyên, tức là chia chẻ Đẳng vô gián duyên và Tăng thượng duyên mà thành. Dùng 24 duyên này để giải thích các mối quan hệ tương quan giữa danh sắc với tâm pháp, tương quan của tâm pháp với tâm pháp, tương quan của tâm pháp với tâm sắc pháp, tương quan của tâm với thân, tương quan của thân với tâm, tương quan của thể hỗn hợp tâm pháp sắc pháp với thể hổn hợp tâm pháp, sắc pháp, giải thích vô cùng tỉ mỉ. Ở đây chỉ giải thích về bốn duyên thông dụng.
Đầu tiên là nhân duyên, tức là nhân chính. Nhìn từ phương diện vật chất, bông vải là nhân chính của vải, lúa mạch là nhân chính của bột mì, dây đồng là nhân chính của điện áp. Nhìn từ phương diện tâm, hay từ thể hỗn hợp tâm và sắc để nói, thì những hành vi tạo tác của thân - khẩu - ý, kinh Phật gọi là nghiệp cũng gọi là nhân.
Thứ hai, duyên đẳng vô gián là chỉ cho tám thức tâm vương và tâm sở đều là sinh diệt trong từng sát na, lúc ý niệm trước diệt cũng đồng thời tạo duyên cho niệm sau sinh khởi, sinh diệt liên tục không gián đoạn như thế, tác dụng này gọi là Đẳng vô gián duyên. Duyên này chỉ có mặt ở tâm pháp, trong sự thay đổi của vật chất không nói đến duyên này.
Thứ ba, duyên sở duyên là chỉ lúc đối lập nhau giữa tâm phân biệt với tướng được phân biệt, tâm phân biệt lấy tướng được phân biệt làm sở duyên, tướng của sở duyên này là trợ duyên của tâm sinh khởi, cho nên gọi là sở duyên duyên.
Thứ tư, duyên tăng thượng là chỉ cho tất cả sắc pháp hoặc tâm pháp, có tác dụng thuận hay nghịch đối với nhân chính, làm ảnh hưởng đến sự mức độ phát triển của nhân, đều gọi là tăng thượng duyên. Trong quy luật nhân quả thuần vật chất, chỉ cần có mặt của nhân duyên và tăng thượng duyên thì đã có thể tựu quả rồi, nhưng trong pháp hỗn hợp gồm tâm pháp và sắc pháp, thì phải có đầy đủ bốn duyên này. Quả từ những nhân duyên này hòa hợp sinh thành, chia làm năm loại: Quả dị thục, quả đẳng lưu, quả ly hệ, quả sĩ dụng, quả tăng thượng. Xem thêm ở luận Câu Xá và luận Thành Duy Thức.
Theo kinh điển Phật giáo, sông núi, đất đai, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, động vật, thực vật, cho đến tất cả môi trường sống, đều là quả của nghiệp lực do tất cả con người trên thế giới này cùng tạo ra, chứ không phải do đấng sáng thế nào, mà loại nghiệp nhân này có khi là gieo từ đời trước, có khi là ngay đời hiện tại. Ví dụ, thành phố cảng thương mại Thượng Hải, vào thời đầu nhà Thanh chưa có, từ sau Ngũ khẩu thông thương3 (năm 1942), mới do nhân sĩ của các nước và Trung Quốc hợp sức xây dựng nên. Các loại kiến thiết vật chất không chỉ là công sức trực tiếp và gián tiếp của nhân dân Thượng Hải, mà còn là đóng góp gián tiếp của nhân dân trên toàn thế giới. Loại nhân quả này thuộc về hiện tại, chỉ có nhân thành tựu thời gian năm tháng thì toàn thuộc về đời trước. Quy luật nhân quả của Phật giáo không bị giới hạn bởi thời gian. Có nhân được gieo trồng từ đời trước đến đời hiện tại gặp duyên mà tựu thành quả, có nhân được trồng từ đời trước đến đời sau nữa mới có thể tựu quả, có nhân được trồng ở đời hiện tại tựu quả ngay trong đời này, có nhân được trồng ở đời này nhưng phải đến đời sau mới tựu quả, toàn bộ đều tùy thuộc vào duyên có đầy đủ hay chưa mà đoán định. Con người thường hiểu nhầm quả báo mà đời này phải chịu do nhân đã gieo từ đời trước, cho rằng đó là do đời này tạo, nên nhầm lẫn cho rằng người nào đó đời này làm thiện mà lại bị quả báo ác, một người nào đó làm ác lại được quả báo lành, mà không biết rằng phúc báo của người ác này là do họ gieo nhân từ kiếp trước, những nhân mà họ gieo trong kiếp này còn chưa thành quả mà.
3. Tháng 8 năm 1842, nước Anh nhờ vào quy định thứ hai trong Điều ước Nam Kinh, ép buộc Trung Quốc mở cửa năm thành phố là Quảng Châu, Phúc Kiến, Hạ Môn, Ninh Ba, Thượng Hải làm bên cảng thông thương, nên có tên gọi “ngũ khẩu thông thương”.
Luật nhân quả này nói rõ quả báo là tự làm tự chịu, cho dù cha con cũng không thể thay thế nhau được. Người đời thường nói, nhà nào đó tổ tiên tích đức nên con cháu được phúc báu, thực tế thì điều này không chính xác. Nên biết con cháu hưởng được phúc báo là nhờ con cháu tự tạo, không liên quan đến phúc đức của tổ tiên để lại, nhưng tổ tiên đã tích phúc, thì có thể chiêu cảm cùng nghiệp gặp nhau, cho nên được người có phúc đến làm quyến thuộc, đây mới là cách giải thích chính xác. Hơn nữa, nhân quả này là tính bình đẳng, nhân sinh ra sẽ làm quả của thứ được sinh, quả của thứ được sinh cũng chính là nhân sinh ra, nhân quả không cố định, mà là đối đãi mà có. Lấy nhân quả của vật làm ví dụ, vải là quả của sợi bông, và cũng là nhân của vải bông, vải bông là quả của sợi bông, lại là nhân của áo quần. Lấy việc con người để ví dụ thì, cha là con của ông, cũng là cha của con mình, ông cũng như vậy, có thể suy rộng đến vô cùng. Vì thế, nên biết nhân bất bình đẳng không những không phù hợp với tỷ lượng (nhận thức ngoại cảnh có so sánh, phân biệt, suy luận), mà cũng trái với hiện lượng (nhận thức trực tiếp, không qua suy luận, khái niệm). Lại từ luật nhân quả này có thể đoán biết đời người nhất định có ba đời, tức là đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai. Vì nhân quả tiếp nối nhau không gián đoạn, trong luật nhân quả không có nhân đầu tiên, cũng không có quả cuối cùng, trước nhân lại có nhân, không có bắt đầu, sau quả lại có quả, kéo đến vô cùng. Đức Phật dạy sáu nẻo luân hồi, lý của nó cũng căn cứ theo luật nhân quả này. Mặc dù chúng ta không có thần thông để chứng kiến, nhưng xét theo lý, thì lý thuyết này đáng tin cậy.
Hay nói: Mối quan hệ nhân quả giữa vật chất và vật chất, rõ ràng rành rành, ai ai cũng biết, mối quan hệ nhân quả giữa vật chất và tâm cũng còn dễ hiểu, như tất cả vật chất đều có thể khiến con người cảm thấy sướng khổ vui buồn, nhưng liệu vai trò của tâm phải chăng cũng có thể làm cho vật chất xảy ra thay đổi? Nói: Tất nhiên, dùng tâm làm nhân mà sinh ra quả vật chất, gọi là dị thục quả, tức là quả chín ở những thời điểm khác, không phải trong một đời mà có thể tựu quả, loại quả này không dễ thấy biết, nhưng dùng tâm làm nhân để khiến vật chất xảy ra thay đổi, thì ở ngay trong cuộc sống đã xảy ra nhiều rồi. Ví dụ, chúng ta nghe người khác nhắc đến ô mai, bất ngờ nước bọt tiết ra. Lại ví như khi chúng ta leo lên gần vách đá dốc đứng, ý nghĩ về sự nguy hiểm khởi lên trong tâm, liền cảm thấy bàn chân mềm ra không chút sức lực. Hoặc giống như ngủ mơ thấy một phụ nữ và xuất tinh, người phụ nữ này chẳng lẽ có thật? Xưa Lý Quảng lên núi thấy con hổ, dương cung bắn, đến gần để xem thì là một khối đá chứ không phải hổ, nhưng mũi tên đã xuyên sâu vào khối đá; sau khi biết đó là một khối đá, bắn mãi cũng không xuyên qua được. Ngài Cưu Ma La Thập lúc bé theo mẹ vào chùa, thấy một cái bình bát, đùa nghịch lấy chụp lên đầu, nhưng lúc muốn lấy xuống thì phát hiện đây là một bình bát bằng sắt, nên không mang xuống nổi. Qua những ví dụ này, chúng ta có thể biết được tác dụng của tâm cũng có thể thay đổi vật chất. Do trọng lượng và độ cứng của vật chất, vốn không phải thật có của vật chất, phải chờ tăng thượng duyên của thân căn, mới có thể khiến thân thức sinh khởi cảm giác trọng lượng và độ cứng. Lúc tăng thượng duyên thay đổi, thì trọng lượng và độ cứng này cũng tự thay đổi theo, cho nên đá có thể trở nên mềm như thịt, sắt có thể trở nên nhẹ như ngói. Chuyện này tuy rất kỳ lạ, nhưng theo Duy thức học thì thật sự bình thường, hợp lý. Cho nên, biết luật nhân quả bao gồm cả sự thay đổi của tâm sắc và sắc tâm, nghĩa là không có thay đổi của một pháp nào không tuân theo quy luật này, gọi đó là luật nhân quả vạn hữu, ai nói không phải chứ?
4.3. Vọng chấp sinh diệt thường đoạn
Người đời vì không thông hiểu tất cả các pháp do nhân duyên sinh, nên cho rằng các pháp thường còn thật có, có chấp không bỏ, vì thế đối với tài sản thân mệnh của mình ai cũng vô cùng yêu quý, một khi thấy người mất đi, hoặc thấy tài sản bị hủy hoại, thì lại cho rằng nó đoạn diệt, không thể sống lại, khiến cho con người ta bi quan tiêu cực. Nếu biết rằng tất cả các pháp đều do nhân duyên sinh, tức là biết tất cả các pháp vốn không có tự tính, sinh là giả sinh, diệt cũng không thật diệt. Vì mọi pháp theo nhân duyên mà có sinh diệt, cho nên nói không thật sự thường còn, cũng chẳng phải thật có, vì sinh diệt này đều là giả, cho nên diệt chẳng phải mất hẳn. Nếu là mất hẳn thì sau khi mất làm sao có thể tái sinh? Nếu là thật có thì ắt không thể mất.
Các nhà vật lý trước đây từng ngộ nhận vật chất thật có, cho nên nói vật chất thường còn bất diệt. Nếu vật chất thực sự là thật có, thì nó không thể mất đi; nếu vật chất thật sự có thể mất đi, thì mất rồi không sinh lại được, thì người vật núi sông này chắc chắn sẽ bị mất hẳn, mãi không bao giờ được sinh ra lại. Hiện nay các nhà khoa học mới chứng minh được vật không phải thường còn, mà có thể sinh diệt thay đổi, nhưng sự mất đi này không phải thực sự mất đi, mà là giả mất. Vật chất mất đi thì năng lượng sinh ra, năng lượng mất đi thì vật chất sinh ra, hai loại này có thể thay đổi lẫn nhau. Cho nên, biết sinh và diệt chỉ là giả tướng có thay đổi, còn bản thể của nó chưa từng sinh diệt, chưa từng biến động, thay đổi. Cho nên Phật dạy tất cả các pháp vốn không sinh không diệt. Nhưng người không hiểu thấu nghĩa chân thực này lại ngộ nhận tất cả giả tướng vốn không sinh diệt, chấp là thật có, trở thành thường kiến. Và nghe Phật dạy giả tướng có sinh diệt, thì lại hiểu nhầm là bản thể có sinh diệt, rơi vào đoạn kiến. Thường kiến giống như tục kiến (hiểu biết thông thường của thế gian), đoạn kiến chính là tà kiến, sai lầm này còn tệ hại hơn cả quan niệm thông thường.
Mỗi lần nghe người đời nói, đời người là không, khuyên mọi người nhìn thấu điều này, có ăn thì cứ ăn, có mặc thì cứ mặt, việc gì cứ tự làm khổ mình? Thế là nói sao nghe vậy, cho đó là hiểu biết đúng đắn. Nhưng theo Phật giáo, thì họ không hiểu gì cả, toàn là những lời nói thiếu trí tuệ thiếu hiểu biết, một nửa là đoạn kiến một nửa là thường kiến. Chữ không mà người đời nói có nghĩa là không có gì cả, là hoàn toàn mất đi, không phải ý nghĩa của “không” trong chân không diệu hữu của Phật giáo, vì họ vẫn còn say sưa theo sở thích ăn mặc, họ cho rằng ăn mặc là thật có, những thứ khác đều không, họ thấy thứ đoạn diệt thì đã đoạn diệt, chưa đoạn diệt thì nhanh nhanh mà hưởng thụ, há chẳng phải ngoài đoạn kiến ra thì còn có mặt của thường kiến sao?
Từ sự thấy thường còn, thấy đoạn diệt, thấy sai lầm này mà một mặt ra sức hưởng lạc, tham đắm năm dục, mặt khác làm mất tâm từ bi, biếng nhác tu thiện. Đây vẫn là quan điểm sống của người thông thường hiện nay chỉ biết an phận lo cho mình. Những người chấp đoạn diệt tà kiến sâu nặng thì cho rằng nhân quả báo ứng chỉ là chính sách ngu dân do thần đạo bày ra. Họ tự cho rằng mình không phải là kẻ ngu, chỉ lo lợi lộc trong thiên hạ không thuộc về mình, chỉ sợ quyền hạn trong thiên hạ không tập trung về mình, không tiếc tính mạng của chúng sinh, giết hại để cung phụng cho mình, những người như thế ngày ngày đang tạo nghiệp địa ngục, sau khi chết làm sao không vào địa ngục chịu muôn khổ cực chứ? Nay trình bày biểu đồ để biểu thị lý sinh diệt đoạn thường như dưới đây để phá bỏ sự thấy biết sai lầm.
Phật dạy:
Bản thể — không sinh không diệt — chẳng phải đoạn diệt
Giả tướng — có sinh diệt — chẳng phải thường còn
Chúng sinh — nhận giả là thật — thấy biết sai lầm
Đã sinh — chưa diệt — cho là thường
Chưa sinh — đã diệt — cho là đoạn
Lại nêu ra một sự thật khoa học làm ví dụ để giải thích thêm vấn đề này: Dây điện đèn điện được lắp đặt trong các ngôi nhà hiện tại, sau khi nhà máy điện phát điện, chỉ cần bật công tắt thì đèn sẽ sáng. Đối với người không hiểu nguyên lý về điện thì cho rằng độ sáng của đèn này luôn ổn định, không thay đổi, cho rằng dòng điện cũng không thay đổi, đâu biết số lượng và phương hướng của dòng điện liên tục thay đổi, đương nhiên ánh sáng của đèn cũng thay đổi, nhưng thay đổi rất nhanh, cho nên mắt thường không thể cảm nhận được, vì thế mới có ảo giác ánh sáng là “thường”. Lại cho rằng dòng điện này là từ nhà nhà máy phát điện truyền đến, giống như nước từ trong ống nước chảy ra vậy, do đó lại sinh ra ảo giác “đến”. Nếu nói theo điện học, thì dòng điện này gọi là dòng điện xoay chiều, thay đổi về số lượng, dựa theo đường cong hình sin. Đầu tiên nó từ 0 tăng đến một hướng nhất định, khi đạt đến giá trị cao nhất định, nó sẽ giảm dần về 0, rồi từ số 0 nó tăng dần theo hướng ngược lại, đạt đến điểm cao nhất, rồi lại tiếp tục giảm xuống đến 0, cứ như thế nó tuần hoàn thay đổi. Từ đó chúng ta có thể biết rằng dòng điện không ổn định trong từng nháy mắt, trong chốc lát ở đó sinh trưởng biến diệt, sinh rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh, tuần hoàn sinh sinh diệt diệt mãi không dứt. Cũng có thể suy ra rằng dòng điện này dao động qua lại trong dây điện. Khi bật công tắc, chất lượng của nó trong dây điện chưa hề gia tăng. Khi đóng công tắc, chất lượng của nó trong dây điện cũng không giảm bớt. Rất nhiều nguyên tử đồng trong dây điện vẫn duy trì số electron ban đầu của chúng, hoàn toàn không vì đóng mở công tắt của đèn điện mà tăng hoặc giảm. Đã không có sự gia tăng thì không có electron sinh ra, đã không có sự suy giảm thì không có electron diệt mất. Dòng điện sinh diệt liên tục thì biết “chẳng phải thường”. Các electron của nguyên tử đồng không giảm không mất, thì cũng biết là “chẳng phải diệt”. Khi bật đèn, electron có thể tạo ra ánh sáng, do đó công năng của electron khi tắt đèn khác với khi bật đèn, cho nên biết chúng “chẳng phải là một”. Nhưng các electron lúc chuyển động cũng chính là các electron lúc tĩnh, vì vậy biết chúng “chẳng phải khác”. Khi dòng điện truyền đến, thực ra chỉ khiến các elec- tron dao động trong dây điện, chứ không phải thật có các electron được nhà máy điện truyền đến, cho nên biết “chẳng phải đến”. Khi dòng điện dừng lại, các electron trong dây đồng không rời đi, cho nên biết “chẳng phải đi”.
Từ ví dụ này, lại xem những câu nói trong kinh điển Phật giáo đã nói “không sinh không diệt, không thêm không bớt, không đoạn không thường, không một không khác, không đến không đi”, thì có thể hiểu hơn phân nửa rồi!
5. Tinh thần tích cực của Phật giáo
Hai danh từ tích cực và tiêu cực thông dụng hiện nay, ý nghĩa của nó rất mơ hồ, cũng giống những thứ không có định vị. Nhưng theo tầng nghĩa thông thường, ý nghĩa của từ tích cực, chủ yếu là chỉ tinh thần nỗ lực, dũng cảm, tiến bước, chưa bằng lòng... Ý nghĩa của từ tiêu cực là chỉ sự lười biếng, sợ hãi, e dè, lùi bước, bằng lòng... Cảm tưởng của người bình thường đối với Phật giáo, luôn cho rằng Phật giáo là tiêu cực, chán đời, vì họ thấy chư tăng thường lánh ở núi rừng không tham gia canh tác sản xuất, không lui tới những nơi đông đúc náo nhiệt như cư sĩ tại gia, thực ra đây toàn là phán đoán sai lầm. Phật giáo vốn là tôn giáo thuần lí trí, cho nên trí não của đệ tử Phật thường yên tĩnh vô cùng, để giải quyết triệt để những mê chấp của con người, không thể không chọn nơi vắng lặng để dụng công tu tập, không thể không bỏ đời sống sản xuất, nhưng trong thực tế họ đang nắm giữ địa vị quan trọng trong sản xuất không thua kém gì các nhà chính trị hay nhà giáo dục. Còn những nơi đông người, nếu như vì danh lợi hưởng lạc thì đương nhiên là không đi, nhưng vì mang lại lợi ích cho mọi người, thì sao lại không đi? Nhưng vì người tu Phật tâm tham dục nhẹ, không muốn chỉ tính toán cho bản thân, cũng không mong cầu danh tiếng hão huyền, vì vậy nhìn vẻ ngoài là tiêu cực, nhưng đối với các việc xấu ác đích thực là tuyệt đối tích cực mà người đời thường nói đến, là nỗ lực, dũng cảm, tiến bộ, không hài lòng, nhưng động lực chính mà họ truy cầu tích cực là gì, chẳng qua cũng chỉ là vì mình, vì danh tiếng lợi dưỡng mà thôi. Vì danh lợi nên nghe tiếng gà gáy đã thức dậy, không thể nói là không chăm chỉ; vì danh lợi mà phấn đấu với mọi hoàn cảnh, không thể nói là không dũng cảm; vì danh lợi nên rất sợ tụt hậu, không thể nói là không tiến bộ; vì danh lợi nên được voi đòi tiên, mãi không thấy đủ. Đệ tử Phật vì không có những động lực này, cho nên đối với những việc như thế, tất nhiên chỉ có thể bày tỏ thái độ thụ động như lười biếng, thu mình, rút lui, biết đủ...
Tuy nhiên, đệ tử Phật cũng có động lực riêng. Họ vì muốn cho tất cả chúng sinh tuyệt đối bình đẳng, vì mong cho tất cả chúng sinh tuyệt đối tự do, vì mong cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, vì mong cho tất cả chúng sinh trí tuệ đầy đủ, vì mong cho tất cả chúng sinh tròn đầy chính giác, cho dù xả bỏ thân mạng trong khắp đại thiên thế giới, cũng không thấy tiếc, trăm kiếp nghìn đời, mãi không thối chuyển, nếu có chúng sinh nào chưa thành Phật, tôi chắc chắn chưa nhập Niết bàn, tinh thần như thế này mới đúng thật là chăm chỉ, dũng cảm, tiến bộ và không bằng lòng, mới là tích cực thực sự!
5.1. Mong cầu tự tại
Tinh thần tích cực tiến thủ của Phật giáo, nói tóm gọn trọng một câu là mong cầu tự do. Tự do mà người đời mong cầu không ngoài tự do về thân thể, chỗ ở, kinh doanh, hội họp, ngôn luận, thông tin, xuất bản, tín ngưỡng, tư tưởng… Sau đó, Tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt đã thêm một điều nữa là tự do “không ngại thiếu thốn”, mở rộng phạm vi tự do. Nhưng theo quan điểm của Phật giáo, phạm vi của các tư tưởng tự do này quá nhỏ, tiêu chuẩn quá thấp, và yêu cầu không mấy mạnh mẽ. Tôi có một câu chuyện thích hợp làm ví dụ. Có một người ăn xin mơ ước làm hoàng đế, mọi người hỏi anh ta: “Anh làm hoàng đế rồi, thì sẽ hưởng phúc như thế nào?” Anh ta nói, “Tôi được làm hoàng đế rồi, chỉ mong hàng ngày nhón chân, ăn bánh quẩy cho đã”. Nói ra cũng thật đáng thương, người đời cũng toàn giống như người ăn mày này vậy, nghèo đến ngớ ngẩn, bảo anh ta mở miệng đòi nợ, cũng không dám đòi trời mà!
Nhưng đệ tử Phật thì dũng cảm hơn nhiều, tâm cũng mạnh mẽ hơn, tự do mà họ mong cầu nhất định là phá vỡ mọi tiêu chuẩn phạm vi. Họ nói họ cần được tự do thì phải bắt đầu từ thân mình. Trên thân thể của họ có sáu công dụng của mắt - tai - mũi - miệng - lưỡi và ý, họ yêu cầu sáu loại công dụng này có thể phát huy tự do một cách tuyệt đối, không bị bất kỳ sự trói buộc, chướng ngại nào. Bắt đầu từ đôi mắt, họ hỏi con mắt tại sao chỉ có thể nhìn thấy một dải ánh sáng ngắn trong sóng điện từ, mà không thể nhìn thấy sóng ánh sáng bên ngoài màu tím và bên trong màu đỏ, cho đến sóng nhiệt, sóng điện vô tuyến? Tại sao chỉ có thể nhìn thấy ảnh ngược trên võng mạc, mà không thể trực tiếp nhìn thấy sóng ánh sáng? Tại sao không thể nhìn thấy người, vật, núi, sông trên mỗi hành tinh? Tại sao không thể nhìn thấy hạt nhân điện tử, tia vũ trụ, tia lực từ? Tại sao không thể nhìn thấy những sự việc trong quá khứ và tương lai? Tại sao không thể thấy những gì mà tất cả chúng sinh nhìn thấy? Tại sao không thể rời tất cả các đối tượng mà vẫn có thể nhìn thấy được? Họ yêu cầu gỡ bỏ được những chướng ngại này để đạt được tự do tuyệt đối trong sự thấy biết.
Thứ đến hỏi tại sao lỗ tai không thể nghe được sóng âm thanh ở tần số 20 Hz trở xuống và 20.000 Hz trở lên? Tại sao không thể nghe được âm thanh tiếng nói của tất cả chúng sinh trên toàn thế giới và thậm chí cả vũ trụ? Tại sao không thể nghe được tiếng rung động của các phân tử? Tại sao không thể nghe được tiếng nói của người xưa từ hàng nghìn năm trước? Tại sao không thể gạt bỏ sóng âm mà vẫn có thể nghe được? Họ cũng yêu cầu đạt được tự do tuyệt đối trong việc lắng nghe âm thanh.
Thứ ba lại hỏi, tại sao lỗ mũi không thể thoát khỏi sự giới hạn của thời gian và không gian để ngửi được tất cả mùi vị từ trong ra ngoài, từ xưa đến nay? Tại sao không thể ngửi thấy mùi của chính lỗ mũi mình? Tại sao không thể sử dụng biểu đồ đường cong hình sin của tần số khác nhau để biểu thị cho các loại mùi thơm thối khác nhau? Họ cũng yêu cầu đạt được tự do tuyệt đối trong việc ngửi mùi hương.
Thứ tư, hỏi rằng tại sao lưỡi nhất định phải tiếp xúc với vật chất sau đó mới có thể nếm được vị? Tại sao không thể tự nếm lưỡi mình xem là vị đắng hay vị ngọt? Tại sao tôi không thể nói ngôn ngữ của tất cả các loài động vật? Tại sao lưỡi không thể bao phủ ba nghìn đại thiên thế giới để nói chuyện với tất cả chúng sinh? Tại sao không thể chỉ dùng một loại âm thanh để diễn nói, khiến cho tất cả chúng sinh tùy theo loại của mình mà có thể thông hiểu? Họ cũng yêu cầu được tự do tuyệt đối về việc nếm hương vị và nói năng.
Thứ năm, tại sao cơ thể không thể thoát khỏi lực hút trái đất và di chuyển giữa các hành tinh? Tại sao nó không thể thay đổi theo ý muốn, hoặc lớn hoặc nhỏ, lớn đến trải đầy hư không, nhỏ đến mức có thể ở trong hạt phân tử, làm rối tung tổ chức của nó? Tại sao không thể ném toàn bộ hệ mặt trời vào thiên hà? Tại sao không thể lấy nước sắt trong lò luyện thép? Tại sao bạn không thể cảm thấy sự ngứa ngáy mà vô số chúng sinh đang gánh chịu? Tại sao bạn không thể nuốt hết các thế giới trong mười phương? Họ cũng mong cầu đạt được sự tự do tuyệt đối trong tất cả các bộ phận của cơ thể.
Thứ sáu, tại sao tâm ý không thể biết sự thay đổi của tất cả sự vật trong mười phương ba đời và tâm lý của tất cả chúng sinh? Tại sao không thể vượt qua tám loại khổ đau của cuộc đời là khổ do sinh già bệnh chết, khổ do yêu thương mà xa lìa, khổ do oán hận gặp nhau, khổ do năm ấm không điều hòa Tại sao không thể tưởng tượng tình hình của không gian bốn chiều trở lên? Tại sao mọi vật chất không thể theo tâm mà hiển hiện và thay đổi? Tại sao không thể lìa tất cả các đối tượng mà vẫn có ý nghĩ tồn tại? Họ cũng mong cầu đạt được sự tự do tuyệt đối của tâm trí.
Nếu như quý vị nói yêu cầu của họ là không hợp lý, thì tôi sẽ hỏi quý vị có lý do gì mà không thể yêu cầu? Quý vị chớ cho rằng những thứ ngoài bánh quẩy đều là vô vị. Nói là: chim bằng bay vạn dặm, ý chí này lẽ nào chim yến có thể biết được? Tinh thần tích cực không bằng lòng với thực trạng hiện tại, mạnh dạn tìm hiểu, chỉ Phật giáo mới có được.
5.2. Nguyện vọng vĩ đại
Các ví dụ về tự do nêu ở trên, nếu không có lý do có thể đạt được, tất nhiên không thể cưỡng cầu, nếu trên mặt lý luận có thể đạt được, nhưng trong thực tế không có cách nào thực hiện được, thì cũng lực bất tòng tâm. Nhưng dựa theo giáo nghĩa Phật giáo, loại tự do này thực ra mỗi người vốn có đủ, không phải từ bên ngoài, chỉ vì vọng tưởng và chấp trước, quên mất bản tính, mà khởi các loại phiền não, như tằm làm kén tự trói buộc mình, không biết thoát ra từ đâu, uổng công chịu mọi khổ đau. Nếu có thể tu hành theo pháp, dứt sạch nghiệp mê mờ phiền não, thì bản tính trong sáng, không còn bị trói buộc. Cho nên biết rằng tự do tuyệt đối là lý có thể đạt được, cũng là đạo có thể đạt được, nếu có người tin được việc này, phát nguyện rộng lớn, thực sự thực hành, không sợ khó, không lùi bước, tự nhiên có ngày đạt được kết quả.
Cho nên Phật giáo đối với người đã sinh lòng tin, dạy họ phát nguyện lớn, sau đó thực hành. Lòng tin là la bàn chỉ đường, xác định phương hướng, không để mê lạc. Nguyện là động cơ, sinh ra động lực, giúp cho hành giả không ngừng tiến bộ. Vì vậy, là đệ tử Phật thì nên phát bốn nguyện rộng lớn sau đây:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Nghĩa là:
Nguyện giải thoát vô số chúng sinh,
Nguyện tuyệt dứt vô vàn phiền não,
Nguyện thực hành các pháp môn của Phật,
Nguyện chứng đắc được trí tuệ Phật.
Từ bốn lời thệ nguyện rộng lớn này, chúng ta có thể nhận thấy tinh thần tích cực của tín đồ Phật giáo hơn hẳn tín đồ của các tôn giáo khác.
Phật tử tin Phật tu hành, không phải vì mưu cầu lợi ích cho bản thân, không muốn chính mình được sinh lên cõi trời để hưởng phúc, mà muốn cứu giúp tất cả chúng sinh, bao gồm cả động vật thiên thần, giúp cho họ lìa khổ được vui, tuyệt dứt mọi phiền não.
Người học Phật luôn nỗ lực tìm hiểu chân lý của con người và vũ trụ, cầu được chính đẳng chính giác vô thượng.
Rõ biết chúng sinh là vô biên, phiền não là vô tận, pháp môn là vô lượng, Phật đạo vô thượng, nhưng không vì khó quá mà thối lui. Với tinh thần đại trí đại dũng không lo sợ này, mà gọi họ là tiêu cực, thì tôi cũng không biết hai chữ tích cực phải giải thích làm sao?
Tất cả chư vị Bồ tát mỗi vị đều có nguyện lực thù thắng nổi bật riêng, ở đây chỉ trình bày ba loại nguyện lớn được tuyên truyền rộng rãi nhất trong Phật giáo, để giới thiệu đến quý độc giả. Một là mười nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền, hai là 48 nguyện của Tỷ kheo Pháp Tạng (tức 48 nguyện của Phật A Di Đà hiện tại), ba là 141 nguyện do Bồ Tát Văn Thù thuyết giảng. Dưới đây xin trích lược nguyện “thường thuận theo chúng sinh” trong mười nguyện lớn của ngài Phổ Hiền:
“Lại nữa, Thiện nam tử! Hằng thuận chúng sinh là tất cả chúng sinh trong mười phương cõi nước, chúng sinh trong khắp cả pháp giới, hư không giới... tôi đều thuận theo họ mà lưu chuyển, làm đủ mọi việc, các loại cúng dường, như kính cha mẹ, như thờ sư trưởng và A la hán cho đến Như Lai, bình đẳng không khác. Với chúng sinh bệnh khổ, tôi làm thầy thuốc giỏi. Với người bị lạc đường, tôi chỉ con đường đúng. Trong đêm tối, tôi làm ánh sáng. Với người nghèo khổ, khiến được dư dả. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho hết thảy chúng sinh như thế. Vì sao vậy? Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sinh, tức là tùy thuận cúng dường chư Phật. Nếu tôn trọng giúp đỡ chúng sinh, chính là tôn trọng giúp đỡ Như Lai. Nếu làm cho chúng sinh hoan hỉ tức đã làm cho tất cả Như Lai hoan hỉ. Vì sao vậy? Vì chư Phật Như Lai lấy tâm đại bi làm thể? Nhân vì chúng sinh mà khởi lòng đại bi, nhân vì lòng đại bi mà phát khởi tâm bồ đề, nhân vì tâm bồ đề mà thành Đẳng chính giác. Thế nên, bồ đề thuộc về chúng sinh, nếu không có chúng sinh thì hết thảy Bồ Tát mãi mãi không thể thành tựu Vô thượng chính giác. Thiện nam tử! đối với nghĩa này ngươi nên hiểu như thế. Do vì tâm chúng sinh bình đẳng, nên có thể thành tựu đại bi viên mãn. Vì dùng tâm đại bi tùy thuận chúng sinh, cho nên có thể thành tựu cúng dường Như Lai. Bồ Tát tùy thuận chúng sinh như thế, hư không có thể cùng tận, chúng sinh có thể cùng tận, nghiệp chúng sinh có thể cùng tận, phiền não chúng sinh có thể cùng tận, nhưng sự tùy thuận chúng sinh này của tôi không bao giờ cùng tận, niệm niệm nối tiếp, không bị gián đoạn, ba nghiệp thân - miệng - ý, không hề chán mỏi”.
Điều này thể hiện tinh thần tích cực và vĩ đại trong sự phục vụ chúng sinh của Bồ Tát Phổ Hiền. Con người chỉ biết phục vụ xã hội và phục vụ con người với đối tượng không nhiều. Chúng ta nên noi gương đức Phổ Hiền, mở rộng đối tượng phục vụ đến vô hạn. Con người chỉ biết phục vụ cho nhóm người có liên quan với mình, có sự phân biệt giữa thân sơ quen lạ. Bồ Tát Phổ Hiền làm lợi ích cho chúng sinh với tâm bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân. Tôn giáo thế gian chỉ biết tôn thờ giáo chủ của mình, nhưng đức Phổ Hiền xem việc phụng sự chúng sinh chính là phụng sự Như Lai, cúng dường chúng sinh là cúng dường Như Lai. Thế gian chỉ biết phục vụ con người trong một đời này, nhưng đức Phổ Hiền phục vụ chúng sinh trong thời gian dài vô tận, không bao giờ mệt mỏi. Phật giáo hoàn toàn không phải là tôn giáo lánh đời, quán xét điều này để tăng trưởng niềm tin.
Bốn mươi tám nguyện của Tỷ kheo Pháp Tạng cũng vô cùng vĩ đại, Ngài phát nguyện muốn xây dựng thành một cõi nước Cực lạc, văn minh vật chất ở trong nước này có thể nói là phát triển đến cực điểm, nhân dân trong nước mỗi người sinh ra đều xinh đẹp đoan trang, hơn nữa mỗi người đều đạt được các loại tự do như đã trình bày ở trên, mỗi người đều có được vị trí bình đẳng tuyệt đối. Ban đầu lúc Tỷ kheo Pháp Tạng hướng đến Phật Quán Thế Tự Tại Vương phát lên những nguyện lớn này, Phật bảo chứng những nguyện lớn như thế nhất định sẽ thành tựu, nên bảo Tỳ kheo Pháp Tạng rằng: “Ví như biển lớn, có một người dùng đấu để múc, trải qua số kiếp, vẫn có ngày múc cạn, thấy được ngọc quý. Người hết lòng tinh tấn, không dừng tu đạo, sẽ thành tựu quả, nguyện nào mà không đạt được!”
Sau đó Tỷ kheo Pháp Tạng đúng là tu tập thành tựu được toàn bộ đại nguyện như vậy, thành Phật hiệu là Phật A Di Đà. Hiện tại sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật đã trở thành khẩu hiệu được tuyên truyền rộng rãi nhất trong Phật giáo, dù phụ nữ hay trẻ em ở tận vùng xa xôi hẻo lành nào cũng biết câu này. Một trăm bốn mươi mốt nguyện ngài Phổ Hiền nói trong phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm cũng rất sâu sắc. Ngài ngay trong đời sống thường ngày, hễ làm một việc là phát một nguyện, mỗi nguyện đều là “xin nguyện cho chúng sinh”, mà không phải là “nguyện cho tôi…”. Điều này chứng minh nhân sinh quan của Phật giáo, là luôn suy nghĩ cho người khác, mọi việc đều mong cho người ta được tốt đẹp, xem mình cũng là một trong những chúng sinh, cho nên không từ lập trường của mình để xem xét vấn đề, hoàn toàn hợp với đạo lý khách quan, bình đẳng như đã trình bày phía trên. Từ ba loại nguyện rộng lớn ở trên, có thể nhận thấy sự đại hùng, đại lực và đại từ bi của Phật giáo, nhất định không có bất kỳ tôn giáo nào, nhà triết học, nhà chính trị, nhà khoa học nào có thể mô phỏng theo một phần nhỏ của Phật giáo.
6. Ứng dụng nhập thế của Phật giáo
Trong Phật giáo có hai danh từ, một là “xuất thế”, một là “liễu sinh tử” thường bị người ta hiểu nhầm, rồi lấy đó làm căn cứ cho rằng Phật giáo chủ trương lánh đời. Điều này tôi phải phân tích để rõ biết đúng sai ở đây. Gọi là “thế” tức chỉ thời gian, vì vậy nói quá khứ, hiện tại và tương lai là tam thế, tức ba đời. Từ “xuất thế” tức là vượt ra khỏi sự ràng buộc của thời gian. Thời gian từ đâu mà có? Từ từng ý niệm sinh diệt nối tiếp nhau mà có. Ý niệm chuyển qua lại nhiều thì cảm thấy thời gian dài, ý niệm sinh khởi ít, thời gian cũng theo đó mà cảm thấy ngắn. Ví dụ như tâm lý lúc ngồi chờ đợi người khác, ý nghĩ không ngừng mong ngóng họ đến rồi, chờ chưa đến 10 phút mà cứ có cảm giác như thời gian đã qua hơn nửa tiếng. Cũng giống như lúc nhàn rỗi không nghĩ ngợi gì, lúc ngồi im lặng thư giản, cảm giác thời gian trôi qua rất nhanh. Nếu không có sự sinh diệt của các ý niệm, thì thời không có ngắn dài, cho nên có thể rời bỏ được tướng sinh diệt hư huyễn, thì không còn bị thời gian ràng buộc. Cho nên từ “xuất thế” hoàn toàn không mang ý nghĩa lánh đời hay chán ghét cuộc đời. Vì thế, kinh Phật nói: “Không rời các pháp của thế gian, mà có thể thực hành được đạo xuất thế”. Lại có câu rằng: “Phật pháp tại thế gian, giác ngộ tại thế gian, lìa đời tìm giác ngộ, khác nào tìm sừng thỏ”.
Phật pháp vốn không tách rời thế gian, nay nói là nhập thế, tức chỉ cho việc tham gia vào sự nghiệp xã hội, chứ không phải thật sự có xuất thế hay nhập thế. Còn gọi là “sinh tử” tức là nói đến sinh ra mất đi; gọi là “liễu sinh tử” tức là chỉ cho sự thoát khỏi những vọng niệm về sinh và diệt, tướng huyễn hóa của sinh và diệt. Có người nhân đây mà nhạo báng Phật giáo là ham sống sợ chết, đều do họ chưa hiểu được ý nghĩa của từ “liễu sinh tử”, nên mới hiểu sai như vậy. Phật giáo vốn là học thuyết phù hợp với thực tế nhân sinh, có lý luận, có ứng dụng, giống với khoa học, không giống với các tôn giáo khác, thường ít tính ứng dụng và không có cơ sở lý luận, cũng không giống như triết học có lý luận nhưng không có thực dụng. Nay tôi xin nói về ứng dụng nhập thế của Phật giáo để để kết thúc bản văn này.
6.1. Đạo lý chân thật về phục vụ
Trong tôn giáo hai chữ “phục vụ” gọi là cứu độ chúng sinh, chúng xét câu thứ nhất trong bốn thệ nguyện lớn là “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, và “nguyện hằng thuận chúng sinh” của Bồ Tát Phổ Hiền, chứng minh Phật giáo là tôn giáo phục vụ cho con người với tinh thần tích cực không điều kiện. Phật giáo sở dĩ phục vụ chúng sinh với tinh thần tích cực như thế, chính là vì tất cả chúng sinh vốn là một thể bình đẳng, độ người tức là đang độ mình, cứu người tức là đang cứu mình, hoàn toàn không có tâm phân biệt, cho nên kinh Kim Cương nói “như vậy độ thoát chúng sinh số nhiều vô lượng vô biên, nhưng thật ra không có chúng sinh nào được độ. Vì sao vậy? Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng người thọ nhận, thì không phải là Bồ Tát”. Bởi vì người và ta là một thể, tuy là phục vụ cho mọi người, nhưng không có suy nghĩ phục vụ. Phật giáo không những không chấp vào phục vụ, ngược lại còn có suy nghĩ báo ân, xem tất cả chúng sinh đều là ân nhân. Hoặc nói: xem cha mẹ thầy tổ là ân nhân thì được, nhưng xem tất cả chúng sinh là ân nhân thì có phần hơi quá. Tôi thì cho rằng đây là sự thật, chứ không phải là lời cố ý làm cho người ta kinh hãi.
Chúng ta chỉ cần kiểm nghiệm lại những vật chất cần thiết của mỗi người như ăn mặc, chỗ ở, đi lại, đủ để chứng minh lời nói trên không sai. Ví dụ, quần áo chúng ta mặc có loại may bằng vải, may bằng lụa, may bằng len, ăn vận đủ kiểu, đều là do cắt may mà thành. Vải vóc thì mua ở cửa hàng vải, nguồn hàng vải vóc của cửa hàng vải thì được nhập từ các nhà máy vải, nhà máy lụa, nhà máy dệt len, nguyên liệu vải thì được nhà máy sợi cung cấp, nguyên liệu sợi vải thì do nông dân trồng cây bông trồng ra, nguyên liệu lụa thì nhà máy tơ cung cấp, tơ thì do người nuôi tằm cung cấp, thức ăn cho tằm được người trồng dâu cung cấp, nguyên liệu của vải len thì do người chăn cừu cắt ra từ lông cừu. Đây chỉ mới nói đến hệ thống trực tiếp mà đã liên quan đến một số lượng lớn người thuộc mọi tầng lớp nông công thương rồi, nếu nói đến cả những người gián tiếp trợ duyên mà thành, ví dụ như việc vận chuyển nông sản cần có các phương tiện giao thông như ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay cho đến các loại vận chuyển cũ như thuyền, xe la kéo, ngựa kéo. Rất nhiều phương tiện này phải có người duy trì quản lý, bổ sung phương tiện lại cần sự hợp tác của các nhà máy. Khi các sản phẩm nông nghiệp được vận chuyển đến nhà máy sợi, nhà máy tơ tằm, nhà máy dệt đan, lại phải trải qua máy móc chế tạo, các loại máy móc này do kỹ sư thiết kế chế tạo và sử dụng. Các kỹ sư được đào tạo từ các trường đại học kỹ thuật, và kiến thức của họ được giảng dạy bởi giáo viên các ngành khác nhau. Tất cả các tổ chức công nghiệp, thương mại và giáo dục cần có sự hỗ trợ của chính trị và bảo vệ của quân đội. Chỉ nói như vậy, không biết đã làm phiền đến bao nhiêu người rồi. Trong số rất nhiều người này, bao gồm các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, quân đội và chính trị, đúng là đất không phân biệt đông tây nam bắc, người không phân biệt nam nữ già trẻ, tất cả đều vì sự ăn mặc của một mình tôi mà lao động mà hợp tác. Một chuyện ăn mặc thôi đã là như thế, những thứ cần thiết cho ba việc ăn ở, đi lại và tinh thần nữa, thì càng nhiều không thể kể hết. Nếu nói một cách thấu đáo, có thể trên thế giới này không người nào không trực tiếp hay gián tiếp giúp đỡ tôi, tôi có thể không cảm ơn ân đức của họ hay sao?
Mặc dù tôi đã trả cái giá tương đương, nhưng có nhiều thứ không mua được bằng tiền. Ví dụ, tôi đã bỏ ra vài đồng để mua một cuốn sách, kiến thức trong cuốn sách này giá trị đối với tôi, tiền bạc không thể thay thế được. Huống gì tiền tôi kiếm được, có thể do tôi may mắn mà có, chứ không hẳn bỏ ra bao nhiêu công sức mới có được, có thể là số tiền không nên có, có thể là tiền phi nghĩa, tiền do tham lam lừa gạt mà có được. Cho dù tiền tôi kiếm được là tiền chính đáng, cái giá để đổi lại vật chất cũng là chính đáng, nhưng ngộ nhỡ những người này không chịu hợp tác thì tôi sẽ như thế nào? Họ chịu hợp tác với tôi, chính là ơn của họ đối với tôi, có tiền cũng không mua được. Kinh nghiệm đau đớn về việc không được hợp tác, mỗi người trong chúng ta đều đã từng trải qua. Từ đó chúng ta biết rằng những gì chúng ta đang thọ hưởng, không phải do đấng sáng thế hay thiên thần ban cho. Chúng ta không cần phải cảm ơn đấng sáng thế hay thiên thần. Mà chúng ta nên cảm ơn mọi người trên thế giới. Vì thế, chúng ta phải noi theo tinh thần của 141 nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh, trong đời sống thường ngày, việc gì cũng nên cầu phúc cho toàn nhân loại, quyết không thể hướng đến một nhân không bình đẳng tức là đấng sáng thế và thiên thần để cầu phúc báo cho bản thân. Chúng ta phải nỗ lực để làm công việc chính đáng, và sự nghiệp lợi ích cho mọi người, để báo đáp ân tình của toàn nhân loại, đó mới là sự giải thích chính xác về tinh thần phục vụ xã hội.
6.2. Tinh thần trách nhiệm chân thực
Mọi người đều biết, điều đầu tiên phải có trong phục vụ xã hội là tinh thần trách nhiệm, nhưng như thế nào gọi là tinh thần trách nhiệm? Đó chính là nói một người làm công việc gì đó cho một người hay cho một tập đoàn nào đó, gánh vác một nhiệm vụ nào đó, trong lúc làm phải dốc hết tâm ý để làm, nếu làm không tốt thì bị đối phương trách phạt, để không bị trách phạt thì không thể không làm tốt nhất, có tâm như thế gọi là tinh thần trách nhiệm. Sau khi phân tích, chúng ta biết rằng động lực của ý thức trách nhiệm này là như vậy, nó không khác nhiều so với tâm lý của trâu ngựa sợ bị người đánh đòn mà làm việc chăm chỉ. Có người nói: “Không phải, đây chỉ là tâm lý sợ cắn dứt lương tâm chính mình, chứ không phải sợ người khác trách phạt”. Tôi nói: “Lương tâm của bạn chính là những thứ đang lừa bạn. Như tôi đã nói ở trên, có thể nó trách bạn đã không làm điều ác. Nếu lương tâm thực sự sẽ trừng phạt bạn, thì bạn đã trở thành thứ gì chứ? Lẽ nào trong bụng của bạn có hai trái tim, một hiền lành một độc ác hay sao? Trong xã hội hiện ngày nay có ai không nói mình có lương tâm và ý thức trách nhiệm, nhưng hầu hết trong số họ đều thiếu trách nhiệm, chuyên chọn việc ác mà làm, đây là đạo lý gì vậy? Phật giáo hoàn toàn không nói như thế, trong kinh điển của nhà Phật cũng không có những danh từ không toàn thiện như vậy.
Nhưng nếu bạn có thể dựa theo giáo lý của Phật giáo để làm việc, thì bạn thực sự có trách nhiệm tuyệt đối. Nay để thuận theo thế tục nên tạm gọi tâm này là tinh thần trách nhiệm chân thực. Ý thức trách nhiệm này từ tâm bình đẳng, tâm từ bi, tâm báo ân, và tâm hiểu rõ nhân quả hòa hợp mà có. Vì vậy nếu lúc dựa theo Phật giáo mà làm việc, không xem cấp trên là người trách phạt, không xem cấp dưới là người bị trách phạt, không có tâm lo sợ, không có tâm kiêu mạn, đây chính là tâm bình đẳng. Cấp dưới có mong cầu gì, thì cấp trên đáp ứng hài lòng, tất cả khó khăn, đều được giải quyết, đây chính là tâm từ bi. Cấp trên chỉ thị phương châm làm việc của tôi, cấp dưới giúp đỡ tôi giải quyết công việc, mọi người đều là ân nhân của tôi, có ân thì phải báo đáp, đây chính là tâm báo ân. Làm việc lành được quả báo lành, làm việc ác gặp quả báo ác, nhân quả rành rành như bóng theo hình. Nếu tôi tham nhũng thì phạm vào tội ăn trộm; nếu tôi lười biếng thì phạm vào giới phóng dật; nếu tôi nóng nảy thì phạm vào giới sân si; nếu tôi thiếu lễ độ thì phạm các giới ngã mạn. Đã có phạm thì chịu quả báo không sai một li, đây chính là tâm hiểu rõ nhân quả.
Kết hợp bốn loại tâm này để mà làm việc thì có thể không có trách nhiệm được sao? Đây gọi là tinh thần trách nhiệm chân thực. Nếu không hiểu sâu lời Phật dạy, thì thường nịnh hót cấp trên, kiêu căng với người dưới; cấp trên có mệnh lệnh, đẩy cho người dưới làm, người dưới có thỉnh cầu, lại đẩy cho cấp trên. Đối với người có lợi cho mình, thì xu nịnh đủ điều còn lo thiếu, với người có oán thì trả thù đủ kiểu còn lo chưa đủ mạnh. Chỉ biết tính toán thiệt hơn mà không biết báo ân. Danh tiếng, lợi lộc, quyền lực, địa vị họ xem là thật có ngay trước mắt, còn nhân quả báo ứng thì toàn là những thứ gạt người. Những người có ý nghĩ như thế đâu đâu cũng có. Họ không biết rằng bị người khác trách phạt thì còn có thể trốn, nhưng luật nhân quả thì không bao giờ mất, kết quả vẫn là hại người chính là hại mình mà thôi.
6.3. Trí nhận định chính xác
Trong cuộc sống, người có năng lực làm việc phải có đầy đủ tài và đức mới có thể làm nên sự nghiệp to lớn. Những điều đã nói ở trên đây chỉ một chữ “đức”, và chữ “tài” thì bao gồm cả học vấn kỹ thuật và trí tuệ. Trí tuệ bình thường chúng ta thường nói là khả năng nhận định. Học thức kỹ thuật không đủ vẫn có thể giúp đỡ người khác, chỉ có khả năng nhận định là thứ cần thiết của người chủ quản. Để phát huy khả năng nhận định này, đầu tiên phải hiểu rõ sự lý, biết cách đối nhân xử thế, mới có thể nhận định một cách chuẩn xác. Nhưng gọi là hiểu rõ sự lý, nói thì dễ dàng, chứ sự lý mà thế gian nói, dưới con mắt của Phật giáo, thì thường không phải là sự lý thật sự. Hiểu rõ giáo lý Phật giáo như vậy rồi, sau đó xem xét mới thấy được sự thật của mọi chuyện. Vì Phật giáo là tôn giáo ủng hộ tinh thần khách quan, bất kỳ chuyện gì cũng không đứng trên lập trường của bản thân để phán quyết, thường lấy tâm chúng sinh làm tâm mình, để hiểu rõ tâm lý của mỗi cá nhân, cho nên đối với bất cứ sự việc hay nhân tình thế thái nào cũng hiểu rõ mồn một. Sau khi hiểu rõ đối tượng rồi, mới ra nhận định, tự nhiên sẽ nhận định chính xác. Con người vì do không hiểu thấu được sự lý, vì do chấp ngã sâu nặng, tự nhiên bị phiền não hoặc nghiệp che mờ, tâm luôn lo ngại, rồi sinh tâm lo sợ điên đảo, dùng tâm như vậy để nhìn nhận sự vật, tất nhiên sẽ không thấu được chân tướng của nó. Ví dụ, sĩ quan ra trận, trong quân dấy lên một vài tin đồn không có căn cứ, thì họ liền lo lắng đến thân mạng của mình, vợ con, tài sản của mình, tự nhiên sẽ trở nên sợ sệt, đối với tin đồn đó, họ thà cho là thật, chứ không tin là giả, quý vị nói xem người lính này có thể nhận định chuẩn xác nữa không?
Hiện tại thấy rất nhiều người bị tham sân si mạn ngăn che, làm mất đi khả năng nhận định, rồi sa vào con đường tự hại mình. Cho nên tôi dám nói rằng chỉ có người thực sự hiểu rõ giáo lý Phật giáo mới có khả năng nhận định chính xác. Có trí nhận định chính xác, mới có thành tựu sự nghiệp vĩ đại.
6.4. Nghị lực kiên nhẫn
Giải quyết mọi việc trên thế gian đều phải có nghị lực mới có thể vượt qua mọi gian nan thử thách, kiên cường, bất khuất, mới đạt đến thành công. Nếu gặp chướng ngại thử thách liền ủ rũ mất hết ý chí, thì dù việc nhỏ cũng thất bại huống gì việc lớn. Loại nghị lực này từ học tập và rèn luyện mà có được, có kiến thức mới có lòng can đảm, có tu dưỡng mới có được nhẫn nại, kết hợp cả hai tâm này mới có nghị lực kiên nhẫn, đủ để đảm nhận trọng trách và tiến xa hơn nữa. Vì nghị lực xuất phát từ học tập, rèn luyện, nên không giống với cố chấp ương ngạnh, người ngang ngạnh cố chấp nhất định là học vấn và tu dưỡng của họ chưa đủ, học chưa đến nơi thì thấy không rõ lý, tu dưỡng chưa đủ thì bướng bỉnh bất tuân. Thế gian có người cho rằng cứng rắn là nghị lực, rõ ràng đó là điều không hợp lý, lại cứ khăng khăng làm, đã làm sai thì sai đến cùng, đến chết cũng không hiểu ra. Thật ra người thật sự có nghị lực chắc chắn sẽ không như vậy.
Phật giáo không gọi là nghị lực mà gọi là nhẫn. Ý nghĩa của nhẫn càng sâu sắc và tròn đầy hơn. Không những gặp nghịch cảnh phải nhẫn nại, giữ cho ý chí không bị dao động, mà lúc thuận buồm xuôi gió, như được người ta ca tụng cung kính… cũng phải kiềm chế, không khởi tâm háo danh, phải xem giống như đang tâng bốc người khác vậy, cho đến cảnh giới không bị dao động bởi tám ngọn gió đời là lợi (lợi lộc), suy (hao tổn), hủy (hủy nhục), dự (khen ngợi), xưng (xưng tụng), cơ (chê bai, dè bỉu), khổ (gặp chướng duyên nghịch cảnh, thân tâm bị bức bách, khổ não), lạc (gặp được duyên tốt, thuận cảnh, thân tâm vui vẻ, hân hoan), như vậy mới là công phu tu dưỡng đã thành tựu. Trong Phật giáo chữ nhẫn được phân tích rất kỹ càng tỉ mỉ, nhẫn có nhiều loại, như giới nhẫn, định nhẫn, vô tướng nhẫn, vô sinh nhẫn… vì tên loại và ý nghĩa quá nhiều nên ở đây không liệt kê tỉ mỉ. Bồ tát thực hành sáu Ba-la-mật, nhẫn nhục là hạnh Ba-la-mật thứ ba, thực hành hạnh nhẫn nhục này để đối trị ngã mạn.
Có thể thấy Phật giáo cực kỳ xem trọng công phu tu tập về nhẫn. Chúng ta đã là phàm phu, chấp ngã chưa được diệt trừ, nên ai cũng có ngã mạn, thường thường người có tài năng và học vấn càng cao thì tâm ngã mạn càng sâu. Nếu không tin, mọi người cứ để ý trong bất kỳ hội nghị, thảo luận nào, có kế hoạch hay đề án nào đó xảy ra tranh luận, người có tài biện luận càng giỏi thì càng không chịu thua, nếu đối phương tỏ ra mình cũng không phải là thứ yếu, thì thường sẽ nổi nóng, mang đề mục tranh luận biến thành chủ đề tranh cãi riêng tư. Người có tu dưỡng Phật học nhất định không hành xử như thế, dù cho đến mức vì pháp quên mình, thì cũng tự mình quán chiếu, không để cho ngã mạn ngã kiến tăng trưởng, càng không thể khởi tâm sân, đi công kích người khác. Có được sức nhẫn nhục mới vượt qua được muôn ải khó khăn thử thách, mới vượt qua được cửa danh lợi, không bị dục vọng dẫn dắt, sau đó mọi việc đang làm mới phát triển thuận lợi.
6.5. Thái độ thành khẩn
Từ dáng vẻ uy nghi năm vóc sát đất khi niêm hương lễ Phật của đệ tử Phật, có thể nhìn thấy tâm thành khẩn tha thiết của họ. Lại nhìn vào hình ảnh tăng chúng trong chùa lên điện tụng niệm, nghe âm thanh của chuông mõ trống bảng, làm cho chúng ta không khỏi cảm thấy không khí trang trọng nghiêm túc. Lại nhìn vào quy củ trong nhà ăn của chư tăng hay trật tự trong một pháp hội giảng kinh, có thể nói trong hoàn cảnh rối loạn của xã hội Trung Quốc hiện nay, không tìm đâu thấy một môi trường thứ hai như thế. Người Trung Quốc không giữ phép tắc, không giữ trật tự, ở bất kỳ cuộc họp nào, bất cứ địa điểm công cộng nào, cũng thể hiện sự bao quát sự thật không thể che đậy rồi. Chỉ có lễ nghi của Phật giáo mới có thể để cho người nước ngoài nhìn vào mà không thấy xấu hỗ. Cùng là người Trung Quốc mà trên hành động lại khác xa như thế, quả thật không thể không thán phục sự vĩ đại và hữu hiệu của Phật giáo trong việc cảm hóa giáo. Vì thế hai nhà nho nổi tiếng thời Tống là Trình Di, Trình Hạo sau khi đến tham quan nghi thức và quy củ của tự viện, đã thốt lên rằng: “lễ nhạc ba thời thượng cổ, toàn bộ ở đây rồi!”
Tôi còn nhớ trong một hội nghị nào đó, có vị chủ quản nói: “bất kỳ bữa ăn tập thể nào cũng làm không tốt, trên bàn ăn luôn có vấn đề, chỉ có các Hòa thượng trong chùa, từ trước đến nay chưa từng nghe nói có ồn ào trong bữa ăn”. Có được điều này đều nhờ vào giới luật của nhà Phật. Dựa theo giới luật Phật giáo thì đừng nói nhất cử nhất động đều tuân theo khuôn phép, mà chính trong từng ý nghĩ cũng không được có tâm ý không chính đáng, hễ bị phạm lỗi thì liền đến trước Phật chí thành sám hối. Nho giáo gọi là thành kính, quân đội gọi là kỷ luật, tất cả đều không nghiêm ngặt chu đáo giống như Phật giáo. Ngũ thường của Nho giáo thuộc về trừu tượng nên không dễ để thực hành, ngũ giới của Phật giáo mang tính cụ thể, định nghĩa rõ ràng làm cho người học dễ thực hành. Nhưng luận về thực tế thì hoàn toàn giống nhau, không sát sinh là nhân, không trộm cắp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không vọng ngữ là tín, không uống rượu là trí. Phật giáo xem trọng sự thật, cũng xem trọng lý luận, khiến người thực hành rồi, thì hiểu được vì sao phải làm như thế. Cho nên nhất cử nhất động, mọi sự mọi việc của Phật giáo đều có cơ sở lý luận, đều có thể nói ra được vì sao như vậy, làm gì có một chút thành phần mê tín nào trong đó?
Thái độ chân thành tha thiết của tín đồ Phật giáo, nếu phân tích kỹ thì trong một tâm thành khẩn tha thiết đó thực sự do bốn thành phần của lý luận Phật giáo hòa hợp mà thành, một là tín tâm, hai là trực tâm, ba là nhu hòa tâm, bốn là cung kính tâm.
Một, tín tâm chính là tin tất cả chúng sinh đều bình đẳng, tất cả các pháp đều bình đẳng, vì thế đối với mọi người không yêu không ghét, không khen không chê, không đố kỵ không ghen ghét, không nịnh hót không kiêu căng.
Hai, trực tâm là khi bàn luận với người khác, hoàn toàn dựa vào sự thật, không nói dối, không quanh co, không xen lẫn tâm thiên lệch, thấy sai trái, ý kiến cá nhân (thiên kiến tà kiến tư kiến).
Ba, tâm nhu hòa, là luôn xem xét xem đối phương có mong muốn gì, có nghi vấn gì, có điều sợ hãi gì, mình sẽ giúp đỡ những thứ mà họ đang cần, giải thích những điều họ nghi ngờ, làm cho họ thân tâm an ổn, nói lời nhu hòa, khiến họ vui vẻ.
Bốn, tâm cung kính, xem đối phương là ân nhân, là thiện trí thức, là cha mẹ anh em của mình, cho nên thường cung kính, chứ không vì lợi ích của chính mình.
Do có bốn loại tâm này làm nền tảng nên mọi biểu hiện ra bên ngoài đều là thái độ thành khẩn. Dùng thái độ này ứng xử với người, thì cũng có được bốn hiệu quả: Một là được mọi người tin tưởng, hai là khiến mọi người muốn thân cận, ba là khiến mọi người hoan hỷ, bốn là được mọi người tôn trọng. Người có thể ứng dụng thái độ này vào quản lý, thì không thói xấu đùn đẩy trách nhiệm, nịnh người trên chèn ép kẻ dưới; áp dụng thái độ này vào kinh doanh thì không có những tệ nạn gian trá lừa gạt cướp đoạt lũng đoạn bóc lột. Áp dụng vào trong gia đình thì êm ấm, hòa thuận. Áp dụng thái độ này vào giao tế bạn bè thì hợp nhau như nước với sữa. Tóm lại, dùng thái độ này để ứng xử mọi việc, nhất định sở nguyện sớm thành, sở cầu chắc chắn đạt được. Bất kỳ cơ quan tổ chức nào, nếu có nhiều người giữ gìn thái độ này, thì tự nhiên ngăn nắp trật tự, kỷ cương nghiêm minh, chắc chắn trở thành một tổ chức vững mạnh.
Khổng Tử dạy rằng: “Tâm thành là đạo lý của trời đất, người có tâm thành là đạo lý của con người vậy”. Nhà Nho cực kỳ chú trọng thực hành thành ý, nên cho rằng “tâm thành có thể cảm động đến trời đất”, “con người đạt đến tâm thành, vàng đá cũng mở ra”, dùng những câu này để nói đến hiệu dụng của thái độ như vậy. Phật giáo thì hành trì nhiều pháp môn, pháp môn nào trước tiên đều phải có tâm thành, như thuyết pháp cho người cũng phải thành khẩn, nếu không như vậy thì thuyết pháp đều trở thành hý luận. Người thuyết giảng cũng như người nghe pháp đều không có lợi ích thực sự.