LỜI NÓI ĐẦU
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh chính là một đoạn văn tâm điểm, thiết yếu, gồm 275 chữ trích ra từ Đại Bộ Bát Nhã, Phật thuyết vào thời thứ tư, sau những thời Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, trước thời Pháp Hoa, Niết Bàn, thường được trì tụng, nhưng tôi vẫn chưa hiểu nghĩa lý gì.
Thế rồi, nhân một buổi “ôn cố”, tìm thấy trong tủ sách cổ điển Phật học của Tổ sư, may mắn thay gặp được quyển sách có nhan đề Bát Nhã Thiêm Túc, ý nói vẽ rắn thêm chân, do Đại sư Hoằng Tán giảng giải từ thời nhà Minh (Trung Quốc), có ghi: “Thời nhà Hậu Lê, Việt Nam khắc lại ván in”, nhưng đáng tiếc sách đã quá cũ, bài tựa khắc lại cũng như niên đại đôi chữ sờn mục, nhưng cũng còn đủ cơ sở để hiểu và tin được.
Tôi đem đọc đi đọc lại, thấy có đôi chút “tri tân”. Tuy biết mình vẫn còn dốt, nhưng cũng là chưa từng biết đến, nay có duyên may nhất ngộ, tôi mạnh dạn đem bài giảng dịch sang tiếng nước nhà, rồi giới thiệu lên từng số trong nội san của Phân viện Nghiên cứu Phật học, thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam - chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Lý do in thành sách:
1/ Thấy bản cũ có nhiều chữ sai nay sửa lại.
2/ Từng số (nội san) thì người đọc gặp được số này, không gặp được số kia, bị gián đoạn mạch văn, khiến người đọc khó chịu, có thể mất nhiều công tìm kiếm mà không được tiếp tục hội thông vì số báo giãn cách.
Phật học là Tuệ học nên những bài tôi phiên dịch, khảo cứu ở những sách khác như Hiển Mật Viên Thông, Huyền Thị Lăng Nghiêm, Trúc Song Tùy Bút, Thái Hư Toàn Thư, v.v. đều là những dư âm của Bát nhã, có ích cho việc kiến hòa đồng giải, hợp với ý nghĩa nghiên cứu Phật học tự giác giác tha, tôi đều mạnh dạn cho ra mắt độc giả, trình bày sở kiến.
Tuy cũng đã cẩn thận, cân nhắc khi dùng lời diễn đạt ý những từ ngữ trong kinh, luận, Phật pháp, khiến số đông độc giả phần nào bỡ ngỡ như: hiện tượng, đương tiền, tỷ lượng, phi lượng, tán động, tán loạn, trạng thái thô, phù, tinh tế, v.v. đáng lẽ phải có chú thích, nhưng vì thời gian và khuôn khổ cuốn sách có hạn, nếu còn thiếu sót gì nữa cũng mong chư vị lượng thứ.
Thành phẩm này ra đời, tất phải nhờ nhiều trợ duyên tăng thượng thiện, v.v. Sự sốt sắng đầu tiên phải kể là thầy Thích Thanh Ninh. Vì báo ân tất cả, xin đem công đức này hồi hướng cho tất cả chúng sinh đồng viên chủng trí.
Viết tại: Tổ đình Viên Minh (Quang Lãng, Phú Xuyên, Hà Tây)
Ngày 2 tháng 9 năm Ất Hợi
Phật lịch 2539 - 1995
Sa môn THÍCH PHỔ TUỆ
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Đại sư HOẰNG TÁN giảng
Hòa thượng THÍCH PHỔ TUỆ dịch
I. GIẢI THÍCH ĐẦU ĐỀ KINH
Tám chữ đầu đề của kinh này có hai nghĩa: chung và riêng. Bảy chữ trên là riêng, riêng biệt so với những kinh khác, bởi không cùng tên với những kinh khác. Chữ kinh nói chung chỉ tất cả các kinh, bởi vì kinh Phật thuyết thường có nhiều tên khác nhau, nhưng đã là lời Phật thuyết đều gọi là kinh.
Đầu đề kinh này có hai ý:
Sáu chữ trên là pháp phải bàn tới (sở thuyên).
Chữ “tâm” là ví dụ được viện dẫn, vì vậy kinh này lấy pháp, dụ làm tên.
Giáo tướng: Là Đại thừa (thâm Bát nhã).
Tông yếu: Không (chư pháp không tướng).
Chỉ thú: Niết bàn (cứu cánh Niết bàn).
Bản thể: Thực tướng (sắc tức thị không).
Công dụng: Quán chiếu (chiếu kiến ngũ uẩn).
Nếu giải thích chung, thì lấy gương thần (thần giám) làm thể (Bát nhã). Nếu giải thích theo lý nhân quả thì Bát nhã là nhân (trí không phân biệt), Ba la mật đa là quả (đến bờ giác ngộ).
Bát nhã có ba nghĩa: Thực tướng Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, Văn tự Bát nhã.
1. Thực tướng Bát nhã
Thể chân không pháp thân vốn không có tên gọi là hình tướng, bây giờ ở chỗ không có danh tướng, dựng lên giả danh để bàn thực tướng nên gọi là Thực tướng Bát nhã. Bởi nguồn tâm lắng đọng trong yên lặng, không phải tướng mà là tướng nên gọi là thực tướng. Đó là nơi chân tính được quán tới (sở quán chân tính), là bản giác chân tâm thiêng liêng sáng suốt của con người. Không phải tịch, không phải chiếu, lý tính thường trụ, tự thể lìa hết những pháp sinh, diệt, nhiễm, tịnh, hư, vọng, v.v.
2. Quán chiếu Bát nhã
Là công dụng được phát khởi từ thể của thực tướng, là tuệ màu nhiệm chủ quan. Bởi vì pháp tính sâu xa huyền diệu, không dùng diệu tuệ này thì không thể nào soi thấu được. Chư Phật vận dụng diệu tuệ Bát nhã này mà khế hợp pháp thân một cách màu nhiệm. Bồ tát cũng dùng diệu tuệ này mà chứng được chân không một cách mau lẹ. Diệu tuệ này là trí vô phân biệt của con người, nó không phải là soi mà vẫn soi rõ tất cả mọi pháp đều là chân không, vô minh cũng là thực tướng cho nên nói “sắc tức là không”.
3. Văn tự Bát nhã
Văn tự Bát nhã là công dụng của chư Phật dùng để lý giải, giáo hóa, mà tính văn tự vốn không, thể “không” của tính là Bát nhã. Vì thế, lời phán giáo của tông Thiên Thai dạy: “Văn tự là sắc, sắc tức là thực tướng”.
Kinh Thiên Vương Bát Nhã dạy: “Tổng trì không văn tự, nhưng văn tự làm thể hiện tổng trì”, bởi vì làm tỏ rõ được thực tướng cả hai thứ Bát nhã thực tướng và quán chiếu.
Bát nhã tuy có ba lực dụng nhưng vốn cùng một tướng là vô tướng, vô tướng là thể chân không, viên thường, đại giác, đủ ba tên ấy như chữ ⸫ của thế gian, đây là chữ ⸫ của tiếng Phạn.
Nếu có thể trong một thoáng chính quán tu trọn soi tỏ mọi pháp đều không, đó là đã chứng được viên mãn tới nơi cứu cánh Niết bàn.
Tiếng Phạn gọi là Bát nhã, tiếng Trung Hoa gọi là “trí tuệ”. Trí là trí thực tướng không phân biệt. Tuệ là diệu tuệ trong trí vô phân biệt, cũng gọi là “tịnh tuệ”, là tuệ “vô tướng”. Tuệ còn gọi là trí nữa, cho nên Luận Thành Thực giảng: Chân tuệ còn gọi là trí, trí tuệ này, thể tính tròn hòa dung chiếu tự tại, cùng tận được thực tính của mọi pháp, đó là siêu tình thức, ly kiến giải, huyền diệu hết ý, không phải trí tuệ của thế gian. Trí tuệ của thế gian từ thức tâm sinh ra phân biệt cảnh trần, chấp thủ tên gọi lời nói, phát ra trí kiến, vọng tưởng, làm cội rễ cho hữu lậu sinh tử, không thể phá được mê hoặc vô minh, tỏ rõ được lý thực tướng, e người đời hiểu lầm nên để nguyên tiếng Phạn mà không phiên thành ngữ âm Trung Hoa. Xét cho đúng thì không có vật gì thay được thể đó (Bát nhã); không có từ gì đặt được tên nên gượng gọi là Bát nhã.
Tiếng Phạn gọi là Ba la mật đa, phiên ra tiếng Trung Hoa là “bỉ ngạn đáo”. Nếu thuận theo từ ngữ Trung Hoa thì là “đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia), là nghĩa thực tế rốt ráo của mọi pháp vô tướng. Vì sinh tử là bờ bên này, phiền não, vọng niệm là giữa dòng biển khổ, chân không là bờ bên kia, Bát nhã là thuyền bè, vì vậy ai tu hành pháp Bát nhã được thấu đáo, thì soi quang bóng uẩn, diệt hết vô minh, thấy phiền não là thực tướng, sinh tử là Niết bàn, qua hai bờ tử (biến dịch, phân đoạn) đến bờ Tam đức (pháp thân, Bát nhã, giải thoát) gọi là đến bờ bên kia.
Kẻ mê Bát nhã, phân biệt nọ kia, vọng chấp thân tâm là có, liền mất ánh sáng trí tuệ, không rõ thực tướng của mọi pháp, gọi là bờ bên này, cho nên Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Ta xem hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không chứng ngộ được trí tuệ đức tướng của Như Lai”.
Nói tóm lại, hễ còn chút vọng tưởng chưa hết là cách bỉ ngạn, vọng tình phàm thánh hết rồi là đáo bỉ ngạn. Không có gì khác mà gọi là “đáo” nữa.
“Tâm”, ví như tâm con người, là chủ yếu của tứ đại, bách hài. Ví dụ kinh này là chỗ quy tụ cốt yếu của 600 quyển Bát Nhã. Nếu thông suốt được nghĩa lý kinh này, thời hiểu được rõ được cả bộ Bát Nhã 600 quyển vậy.
Cũng có thuyết cho chữ tâm này, là tâm của trung tâm, bảo kinh này là trung tâm, ruột kinh Bát Nhã của 600 quyển thực là lầm vậy. Hoặc còn có thuyết cho là tâm của chân tâm. Nhưng 600 quyển Bát Nhã đều là chân tâm không phải chỉ kinh này, bởi Bát nhã là tâm.
Tâm, có thể có dụng, thực tướng là thể, quán chiếu là dụng, đem dụng về thể gọi là đáo bỉ ngạn, cho nên Luận Khởi Tín dạy: “Tự tâm khởi tín, lại tín tự tâm. Tự tâm là thể, khởi tín là dụng, lại tín tự tâm là đem dụng về thể”.
Hoa Nghiêm Biệt Hành Sao dạy: Trí là dụng của Lý, thể của Lý thành ra Trí lại soi về Lý, Trí với Lý hợp, mới gọi là chân trí; chân trí là thực tướng Bát nhã; Lý là lý chân không, cho nên kinh này không có trí ngoài như mà chứng được như, không có như ngoài trí, làm chỗ cho trí vào tức là đem dụng về thể. Huống chi tính tướng Không tông đều khác, không cho phép nhầm lẫn mà 600 quyển Bát Nhã đều là một “vô tướng” của Không tông. Vậy Bát nhã là thể của chân không. Kinh Niết bàn dạy: “Tính Phật là nghĩa không thứ nhất, là trí tuệ cho nên gọi trí tuệ là đủ rồi, không phải nói riêng tâm tính, nếu nói tâm tính tức thành pháp thật đã chớm vào thật pháp, thì không phải là không. Hoặc gọi là tâm “Tát Bát nhã”, thì vốn không phải là nhan đề của kinh. Bởi vì ngoài tâm không có Bát nhã; ngoài Bát nhã không có tâm. Tâm không có hình tướng, cho nên gọi là Bát nhã. Thế là rất sâu xa, màu nhiệm, cần gì phải nói tâm nữa.
Chữ “kinh” tiếng Phạn gọi là “Tu đa la”, Trung Hoa gọi là “khế kinh”, nghĩa là trên hợp với lý của chư Phật, dưới hợp với cơ của chúng sinh, nay lược bớt đi chỉ gọi là kinh. Kinh là giáo lý được Phật giảng thuyết bao gồm nghĩa “thường”, nghĩa “nhiếp”. “Thường” nghĩa là không biến đổi; nghĩa là cổ kim có khác, đường lối giác ngộ không đổi thay, không có tà ngụy nào làm phai nhạt được. Các bậc thánh không thể đổi khác được. “Nhiếp” là gồm hết nghĩa huyền vi, để mở mang trí tuệ cho con người chưa giác ngộ, cùng thoát khỏi biển khổ, bến mê mà lên bờ giác. Cho nên, có ai hiểu được kinh này, thì đã đến được bờ giác ngộ.
Hoa Nghiêm Biệt Hành Sao dạy: “Có ai giải thích được bảy chữ đầu đề Kinh Hoa Nghiêm thì công phu tìm hiểu nghĩa lý của kinh này đã được quá nửa rồi”.
II. TÊN NGƯỜI DỊCH KINH
Ngài Huyền Trang bậc pháp sư kiêm thông ba tạng (kinh, luật, luận) vâng chiếu chỉ của vua Đường dịch kinh này từ văn Phạn ra văn Trung Hoa.
Đường là tên nước, Pháp sư là bậc thầy mẫu mực làm khuôn phép dạy người.
Huyền Trang là tên của Pháp sư, Ngài chính là Vi, họ Trần, thuộc dòng dõi quan Thái Khưu nhà Hán là Trọng Cung không ra làm quan. Thân mẫu Pháp sư nằm mộng thấy người mặc áo trắng mà sinh ra Pháp sư. Năm 11 tuổi, Ngài theo anh là Tiệp Pháp sư xuất gia. Hàng ngày, Ngài được trao truyền nhiều nghĩa lý tinh vi. Năm 23 tuổi, Ngài lên tòa giảng lời lẽ tuyệt diệu. Ngài tự nghĩ rằng kinh pháp chưa hết, liền sang Tây Trúc học thông ba tạng, rồi đem kinh luận về Trung Quốc, vâng chiếu chỉ của vua nhà Đường dịch ra văn Trung Hoa.
Bộ “Tâm Kinh” này trước sau cũng có tới sáu lần dịch, bản dịch này chính là của Ngài Huyền Trang.
Dịch là phiên dịch từ chữ Tây Vực ra tiếng Trung Hoa.
III. PHẦN GIẢI THÍCH KINH
A. QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT
Bồ tát Quán Tự Tại (người năng tu)
Năm chữ này có chung, có riêng
Ba chữ sau là tên riêng của Bồ tát.
Hai chữ đầu chỉ chung cho các vị Bồ tát.
Tiếng Phạn là “Bà lô chỉ đề thấp phạt la”, Trung Hoa gọi là “Quán Tự Tại”. Nếu nói “A ra bà cát đề luận”, Trung Hoa gọi là “Quán Thế Âm”, chữ Phạn vốn có hai tên, bởi tông chỉ mỗi kinh có khác. Nếu từ căn tai nghe được mà chứng ngộ, như Kinh Lăng Nghiêm, Bồ tát nghe, nghĩ tu vào được chính định (Tam ma địa). Trong Kinh Đại Bi, Bồ tát nghe thần chú, chứng ngay lên bát địa (ngôi thứ tám của mười ngôi Bồ tát). Đó đều là từ tai nghe ngộ được pháp nhẫn vô sinh, gọi là Quán Thế Âm1. Từ thể khởi dụng, cho nên gọi là Quán Thế Âm. Người nào mà quán âm thanh của Ngài liền được giải thoát, sáu căn dùng lẫn được cả, cho nên hiện nghìn mắt, nghìn tay, soi và giúp đỡ mọi loài. Ở đây, chính Ngài Quán Âm dùng mắt tu chứ không ai khác.
1 Văn chữ Hán là lục căn hỗ dụng tức là sáu căn được sử dụng như nhau: Mắt có thể nghe, tai có thể thấy, v.v. nên hiện được nghìn mắt, nghìn tay độ thoát mọi người. Ở đây Ngài Quán Âm dùng mắt thấy ngũ uẩn, v.v. đều không.
Kinh này từ mắt nhìn mà chứng vào cho nên nói: “Soi thấy năm uẩn đều không, qua tất cả khổ ách” gọi là “Quán Tự Tại”.
Nhưng ở đây còn có nghĩa là mình làm, dạy người. Chữ “Quán” nếu đọc tiếng “bình” thì thuộc “năng quán”, “Thế Âm” thuộc “sở quán” là căn cơ được hóa độ, cho nên Kinh Pháp Hoa dạy: “Nhất tâm xưng danh Quán Thế Âm, ngay trong khi đó đều được giải thoát”, đó là ý năng quán.
Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Bởi ta xem, nghe rõ cả mười phương, cho nên tên Ngài Quán Âm khắp cả mười phương, thế là kiêm cả căn tai và căn mắt, cho nên gọi là quán thính đều thuộc tự hành (tự mình tu hành)”. Kinh Đại Bi gồm cả hai hiệu Quán Âm và Tự Tại là thuộc cả tự hành và hóa tha.
Nếu theo Tổ Ôn Lăng giải thích thì chữ “Quán Âm” là quán lời nói thế gian, là cái hiệu viên ứng viên ngộ, thế cũng là tự hành hóa tha.
Song về phía tự hành, chữ “quan” nên đọc là “quán”, nghĩa là vị Bồ tát này dùng trí Bát nhã, soi thấy năm uẩn thân tâm đều “không” cả, qua mọi khổ ách, giải thoát ngay được sinh tử, được hoàn toàn yên vui, cho nên gọi là “tự tại”.
Tổ Giao Quang giảng chữ theo tục ngữ tuy đọc là “quan”, nhưng lý trí phải đọc là “quán”, bởi vì nhận tiếng là “nghe”, thấu suốt chân lý là quán nhưng chỉ chọn phần đạt lý, cho nên đối với âm thanh không nói “nghe” mà gọi là “quán”.
Cũng lại nên hiểu rằng, ở cõi người tu hành gọi là tự hành, chứng tới quả vị là hóa tha.
Bồ tát lấy việc làm lợi cho chúng sinh, giáo hóa chúng sinh là chính, như vậy đúng danh hiệu Bồ tát.
Chữ “Bồ tát”, tiếng Thiên Trúc đọc đủ cả là “Bồ đề tát đỏa”, “Bồ đề” Trung Quốc phiên là “giác”, “Tát đỏa” phiên là “hữu tình” (loài có tình thức), ở đây cũng có hai nghĩa: tự hành và hóa tha.
Về phần tự hành, Bồ tát đã đủ trí giác ngộ, nhưng tập khí hữu tình chưa hết (tình tập chưa hết nên chưa thành Phật). Về phần hóa tha, Bồ tát dùng tâm thương xót, mở mang trí tuệ cho hết thảy mọi loài có tình thức được thấy đạo lớn, hợp cả hai nghĩa cho nên gọi là Bồ tát.
“Hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời…”, Quán Tự Tại Bồ tát là người tu, Bát nhã là pháp tu. Hành là tu hành, tức là pháp quán đã tu được thâm nhập.
Thâm là rất sâu, tức là chân không Bát nhã, không phải điều mà vọng tâm, vọng thức có thể hiểu biết được.
Nếu ước lệ về giáo mà nói thì có hai cách: Thâm và Thiển.
“Thiển” là Bát nhã “nhân không”, đó là nơi chứng ngộ của bậc Nhị thừa.
“Thâm” là Bát nhã “pháp không”, đó là nơi chứng nhập của các bậc Bồ tát. Ở đây, thực tướng chân không không phải thực tiễn của bậc Nhị thừa thiên không1, tiểu trí, cho nên nói là thâm (sâu) vậy.
1 Nhị thừa mới chỉ chứng được nhân không, nên gọi là thiên không (thiên với nghĩa là lệch, không phải nghĩa là trời hay một nghìn, v.v.).
Chữ “thời” là ở trong giây lát khi chứng vào thể chân không, tức thời giây lát cuối cùng Bồ tát đã chứng vào thể chân không, soi tỏ cả tính, tướng, năm uẩn thân tâm đều không, thênh thang vắng lặng, xứng với thể mà khởi ra dụng, độ hết thảy khổ ách chỉ trong thời gian giây lát.
Kinh Đại Bát Nhã giảng: Lấy không tính làm tự tính, dùng giây lát hợp với trí tuệ màu nhiệm, chứng được chính đẳng Bồ đề là thế.
Ngôi tu chứng
“Soi thấy năm uẩn đều không, thoát khỏi mọi khổ ách”.
Chữ “chiếu kiến” (soi thấy) là phép năng quán; năm uẩn là cảnh “sở quán”. Dùng diệu tuệ soi thấy tự tính năm uẩn, đương thể đều là chân không, vì vậy khác với tướng không do diệt sắc chất của Nhị thừa nên khi chứng được chân không thì năng, sở đều không còn.
Chiếu là kết quả tự tại, tức là chữ “Quán Tự Tại”.
Khi tâm con người mới chợt phát hiện lượng, chưa khởi phân biệt, chữ “chiếu” này là yếu thuật, tức là thiết yếu trước hết khi hạ quyết tâm tu (Bát nhã). Đó là trí vô phân biệt rành rành, soi tỏ; đó là hiện lượng sẵn sàng, không phải nhãn căn, nhãn thức có thể thấy được, thế là được tự tính của các pháp, không thấy mảy may gì đáng được, nghĩa là không thấy sắc, không thấy thụ, tưởng, hành, thức; không phải là không thấy, ngay cả đó, mà là không thấy bởi vì “năm uẩn đều không”. Đó là thực tướng, thực tướng thì không có tướng, vì vậy không thấy được, không thể thấy mà là thấy suốt cả pháp giới. Tất cả các pháp xuất thế gian thiền định, trí tuệ, giải thoát, chính định, vô thượng chính giác, Bồ đề cũng đều không thấy, mới gọi là “chiếu kiến”. Thế mới là thấy được thực tướng của mọi pháp; chớm có thấy gì là rơi vào hang ổ vọng tưởng vô minh.
Năm uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức
Năm uẩn tức là “chứa chấp”. Tất cả chúng sinh đều bởi năm pháp này chứa góp thành thân, lại bởi thân này góp bao nhiêu trần lao phiền não để mà chịu không biết lượng nào khổ não về luân hồi sống chết.
Còn gọi là “ngũ ấm”. “Ấm” là che chấp bởi tích tụ những phiền não vọng tưởng, che lấp tính chân thật vốn sáng suốt sẵn có.
1. Sắc: những vật chất, thân người mượn nhân duyên bốn chất huyễn gồm đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành cho đến cả sông núi, trái đất, phàm có hình tướng đều gọi là “sắc”.
2. Thụ: “lấy” nghĩa là lãnh thụ, vì sáu thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, nạp thụ sáu trần sắc, thanh âm, hương, vị, xúc, pháp.
3. Tưởng: nhớ nghĩ, tưởng tượng, tức là thức của ý, noi theo tưởng tượng cảnh sáu trần.
4. Hành: bởi có nghĩa tạo tác. Tức là ý thức suy nghĩ của sáu trần, tạo nên những nghiệp thiện ác.
5. Thức: lấy nghĩa là phân biệt rõ ràng, riêng rẽ mọi “tâm vương”; thụ, tưởng, hành là “tâm sở”, năm uẩn này thu gọn vào hai pháp: “thân” và “tâm”.
Nhưng “thân” và “tâm” thì như huyễn thuật, hóa ra từ nhân duyên mà sinh, vốn không có tính thật, cho nên Phật thuyết ví dụ cho vua Bình Sa rằng:
- Sắc như đống bọt, nhân gió thổi thành, thể tướng không thật.
- Thụ như bọt nước, do vật gì đùa khuấy thành bọt, khởi lên diệt tắt không thường; những điều khổ, vui của chúng sinh cũng như vậy.
- Tưởng như tia sáng phát nơi đồng không quạnh vắng; kẻ khát trông xa tưởng là nước mà thèm khát; chúng sinh nhân nhớ thành tưởng, chỉ là lầm lẫn.
- Hành như cây chuối, thể chất thì xốp, không chắc, mọi việc chúng sinh tạo tác cũng thế.
- Thức như trò dối, hiện ra hình này vật nọ, vốn không thật, tâm thức chúng sinh, phân biệt mọi pháp theo với cảnh sinh diệt giả dối không thật.
Bồ tát dùng trí Bát nhã quán sát năm uẩn này, sắc từ bốn đại giả hợp mà có, thụ, tưởng, hành, thức bởi vọng tưởng cảnh giới mà sinh ra. Bốn đại vốn không có tự tính, rõ ràng không có bản thể, tức là “không”, cho nên nói là “giai không”, không phải diệt đi mới là “không”. Cũng không phải có phép gì có thể khiến được nó “không”, tự bởi vốn tự “không”, chúng sinh không rõ trăng dưới nước, hoa trong hư không, cho nên chấp năm uẩn “huyễn hữu”, mà mất tự tính là “chân không”, “chân không” và “huyễn hữu”, không phải là hai thể khác nhau, chỉ tùy nơi sở kiến phàm hay thánh mà thôi.
Nếu vọng tâm phân biệt, thì chỉ lấy năm uẩn mà bỏ sót mất chân không. Nếu lấy trí Bát nhã mà quan sát, thì chân không hiện ra rõ ràng, mà năm uẩn mất đi, nên khi chân không hiện ra, những huyễn hữu đều diệt hết, thế là năm uẩn không rồi thì khổ ách đều thoát khỏi, thế là “đáo bỉ ngạn” (đến bờ giác ngộ).
Chữ “độ” là giải thoát, vượt qua.
“Nhất thiết khổ ách” là mọi khổ ách dù là thế gian hay xuất thế gian đều có.
Từ đây trở lên là thuật rõ bản ý của Bồ tát Quán Tự Tại, đó là cương lĩnh của kinh khiến ta lấy đó mà tu. Nếu là bậc thượng căn thì nhờ đó mà ngộ được phép vô sinh.
Còn như bậc thượng thượng căn nghe tên Ngài Quán Tự Tại thì chứng ngay được lý chân không, chẳng cần giảng giải. Nếu hoặc chưa được như thế, nên xem văn dưới đây:
Nói chữ “chứng” trên kia tức là nghĩa chứng ngộ, không phải quả vị của Nhị thừa chứng được, cho nên kinh nói “vô trí diệc vô đắc”, xuống dưới này đều như thế cả.
Ngài Chấn Quốc (Trung Hoa) nói: Các gốc sinh tử không ngoài hai chấp: nhân và pháp. Mê tổng tướng thân tâm, cho nên chấp nhân ngã là có thật. Mê một tự tướng của năm uẩn cho nên nhận pháp ngã là có thật. Lấy trí tuệ soi năm uẩn hòa hợp, gọi là “nhân”. Xét cho kỹ từng phần, thì chẳng thấy tướng gì là “nhân”, là “ngã” cả.
Trước quán sắc uẩn để xét thân mình rồi biết rằng sắc là đất, lỏng là nước, nóng là lửa, cử động là gió (hơi thở).
Quán bốn uẩn kia là quán “tâm”. Biết rằng lĩnh nhận là “thụ”, ghi nhớ hình tướng là “tưởng”, tạo tác là “hành”, phân biệt là “thức”; y cứ thân tâm như thế, xét cho cùng chỉ thấy năm uẩn mà thôi, còn tìm cũng chẳng thấy chút gì là tướng nhân, tướng ngã cả, thế là “nhân không”.
Nếu xét từng uẩn một, đều là từ duyên mà sinh ra, đều không có tự tính, tìm đến chân tướng của năm uẩn, cũng không có gì cả, thì năm uẩn đều “không”; thế là pháp không. Thế thì chỉ quán chiếu năm uẩn, mà rõ lý hai không: “nhân”, “pháp” rồi.
Nói đến nỗi khổ ách của thế gian, đó là tám khổ: sinh, già, bệnh, chết, yêu mà phải chia lìa, ghét mà phải hội tụ, cầu không được và năm uẩn thịnh.
Khổ ách của Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát tuy đã thoát được khổ ách của thế gian là sinh tử “phân đoạn” nhưng còn chịu khổ ách sinh tử “biến dịch” ở những cõi phương tiện; như ngôi trước là nhân, ngôi sau là quả, hay là hậu vị là nhân, hậu hậu1 là quả, bởi vì nhân thay, quả đổi, cho nên gọi là “biến dịch”.
1 Tức là đời sau, đời sau nữa mới chịu quả.
Nói chữ “phân đoạn” là chúng sinh trong ba cõi theo từng nghiệp nhân mà cảm quả báo hình đoạn. Về thân thì có cao thấp, phân hạn; về mệnh thì có dài ngắn, nên gọi là “phân đoạn sinh tử”.
Bởi soi thấy cái ngã giả dối của nhân tướng rồi, diệt được phiền não chướng, là qua được khổ ách “phân đoạn”.
Soi thấy tự tính năm uẩn là “không”, diệt được sở tri chướng là qua được khổ ách “biến dịch”.
Khổ ách tuy nhiều, mà chỉ nói hai cách chết: “biến dịch” và “phân đoạn” là gọn hết.
Khi thấy được chân không thì qua hết mọi khổ ách vậy.
B. PHÁP KHÔNG
1. Uẩn không
“Này ông Xá Lợi! Sắc uẩn chẳng khác chân không; chân không chẳng khác sắc uẩn; chấp nhận, tư tưởng, hành động, phân biệt, cũng như thế cả”.
Phần này chủ yếu giải thích chân không của năm uẩn, rõ ràng không phải là “sắc” mà tỏ rõ tướng “không”, và dứt hẳn là “không”; bởi vì ngay chính “không” ở “sắc” là chân không; ngay “sắc” ở “không” là huyễn sắc, mà “sắc” là tướng đứng đầu mọi pháp, cho nên nêu trước tóm sau, bởi vì nghĩa “sắc” đã tỏ thì muôn pháp rõ ràng.
“Sắc” là bốn đại huyễn hữu, “không” là lý chân không Bát nhã.
Chúng sinh vì mê chân không mà có sắc huyễn hữu. Bởi duyên sinh mà có huyễn hữu, nó vốn không tự tính, gốc nó vốn là chân không.
Ví như, ngoài sóng không có nước, do chúng sinh khởi lên vọng tưởng, như gió thổi vào bể chân tính, liền mê mất nguồn gốc, mà chạy theo sóng vỗ, chìm đắm ở bể khổ.
Đức Phật dạy: Hãy dùng tuệ Bát nhã, soi tỏ huyễn hữu chẳng khác chân không như thể hiểu rằng: Sóng không khác nước cho nên nói: “Sắc chẳng khác không”.
Tổ Chí Công dạy:
Thân vô tướng ở trong thân hữu tướng
Đường vô sinh ở trên đường vô minh.
(Hữu tướng thân trung vô tướng thân
Vô minh lộ thượng vô sinh lộ).
“Không chẳng khác sắc” là chân không, là bản thể của vạn pháp, cho nên vốn đủ mọi pháp, ví như nước sinh ra sông, ra bọt và sóng lớn, sóng nhỏ, tùy những tướng vuông tròn của đồ đựng (ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, v.v.) mà chúng sinh nhân vì chấp huyễn tướng cho nên mê chân không, như nhìn sóng mà mê nước. Nên Phật dạy tu tuệ quán Bát nhã, thấy thể chân không không khác huyễn tướng, như hiểu nước không khác sóng, cho nên nói: “Không chẳng khác sắc”.
Hai câu “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”, là chính phát minh cái nghĩa “không khác”. Bởi vì không khác nên chính là đó vậy.
Lại e “người” nhận “pháp” thành chấp, bởi vì còn hai thành kiến “sắc, không”, giống như đời nói ngọc đá giống nhau, vốn là hai vật, vì vậy nói là “chẳng khác”, là muốn không có hai thành kiến để cho người ta hiểu “sắc không” không hai một cách màu nhiệm toàn thể đó thôi. Như sóng là nước, nước là sóng, động, tĩnh có khác, thực chất vẫn không hai thể, bởi vì đó là chân không. Cho nên, để người ta nhận biết huyễn hay chân, nên tạm dắt ra hai tên, nhưng vốn là một vật, cho nên Tổ Vĩnh Gia dạy:
Thực tính của vô minh là Phật tính
Thân huyễn hóa là pháp thân.
(Vô minh thực tính tức Phật tính
Huyễn hóa không thân tức pháp thân).
Vì vậy biết cảnh huyễn, biết gốc là cảnh chân không, thì phải tự tu tập, nên phải dùng trí Bát nhã soi chiếu; không nhờ trí chiếu, không biết gốc thật, cho nên kiến giải đều khác. Phàm phu thì chấp có thân tâm, cho nên thấy có sinh diệt phải chịu sinh tử; ngoại đạo thì chấp không, không tin họa phúc, nên chịu luân hồi. Nhị thừa thì hiểu lầm, thật có tướng của năm uẩn, không rõ bởi duyên sinh ra nên mới chán lìa, vì vậy là Thanh văn. Tuy hiểu rõ mọi pháp từ duyên sinh ra năm uẩn nhưng lại không thấu hiểu vốn là vô tính nên làm Duyên giác. Nếu hiểu được năm uẩn chư pháp là vô tính, là duyên sinh, duyên sinh vô tính, vô tính cho nên “không”, “không” đây tức là chân không. Thể chân không là pháp thân của chư Phật.
Thể pháp thân chân không. Vốn không bị đoạn diệt nên phải tìm ở trong huyễn hữu, ngoài huyễn hữu ra, không có thật nên nói là chân không, ngoài thật ra không có huyễn nên mới nói là huyễn sắc. Vì vậy chân không huyễn sắc là đó cả thôi (tương tức), thế là chân tông của Bát nhã, là hết ý của kinh này1.
1 Có bản giải thích: Phật vì các lớp người chấp “có” nên phải sắc lập không, nên nói: “Sắc chẳng khác không”. Lại vì lớp người chấp “không” cho nên nói: “Không chẳng khác sắc”.
Vì các bậc Bồ tát tỏ phép quán trung đạo, dạy thực tướng thì lập cả, phá cả nên nói “Sắc tức là không, không tức là sắc”. Nhưng kinh này thể huyễn sắc là chân không, hoàn toàn không phải có ý phá không, phá hữu nên không phải theo ý giải thích cũ kia.
Sắc uẩn đã thế thì bốn uẩn đều thế cả nên nói “chấp nhận”, “tư tưởng”, “hành động”, “phân biệt” cũng như thế cả (thụ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị).
Nếu như nói đủ cả, thì phải nói: Thụ chẳng khác không, không chẳng khác thụ, thụ tức là không, không tức là thụ, còn ba uẩn nữa cũng rõ ràng như vậy cả.
Đoạn này Phật dạy quán hiện tiền thân tâm là cảnh sở quán, không phải là tìm pháp nào khác làm cảnh, đó là điểm rất chủ yếu.
Nếu đã quán được một uẩn không, thì bao nhiêu uẩn nữa cũng là không, nên Kinh Viên Giác dạy: Thân huyễn cũng diệt thì tâm huyễn cũng diệt, tâm huyễn diệt thì trần huyễn diệt, trần huyễn diệt rồi thì cái diệt huyễn kia cũng diệt. Cái diệt huyễn kia diệt rồi, cái gì không huyễn thì không bao giờ diệt. Nhưng Kinh Viên Giác lấy phá huyễn hiển chân, Kinh Bát Nhã này thì ngay huyễn là chân (thực), ý tuy khác, nhưng sắc với tâm không khác.
Đã biết rằng chân vọng cùng một gốc, không hữu là một, nay hiện tiền một niệm vọng tưởng khởi lên, chân không liền hiện rõ ngay khi đó, dùng trí quan sát, thấy vọng không có bản tính, tức là chân không. Ngay nơi tâm phàm nhận thấy tâm Phật thì sao lại bỏ huyễn vọng này mà riêng tưởng chân như ở nơi khác, có khác gì bỏ sóng mà tìm nước, không thể thế được.
Đó là nghĩa chân vọng vốn chung, không hữu là một (chân vọng đồng nguyên, sắc không bất nhị).
Không có trí tuệ, không thể nào thấu suốt được, vì vậy Phật gọi Ngài Xá Lợi mà bảo thế đó.
Xá Lợi là tiếng Thiên Trúc, Ngài là vị đệ tử của Phật, có trí tuệ bậc nhất. Ngài là con nhà đại Luận sư Đề Xá, dòng họ Bà la môn, mẹ Ngài là Xá Lợi, gọi theo tên mẹ nên gọi là Xá Lợi. Dịch ra tiếng Trung Hoa là Thân Tử, bởi thân hình mẹ tốt đẹp. Còn gọi là Thu Tử, bởi mẹ Ngài mắt sáng như mắt chim thu (tức chim hoàng oanh hay chim khướu).
Ở Trung Hoa đã có sáu lần phiên dịch kinh này, bản kinh này do Ngài Thi Hộ dịch là bản mà Ngài Bồ tát Quán Tự Tại ở núi Linh Thứu vì Ngài Xá Lợi mà thuyết kinh này. Nếu thế dưới chữ Bồ tát nên có chữ “ngôn” (giảng rằng).
Nay căn cứ vào thể văn của kinh này, trong bộ Đại Bát Nhã thì phải nói là Phật thuyết, bởi vì văn không có toàn bộ, nên không có hai phần “Duyên khởi” và “Lưu thông”. Song, người có trí chỉ nên nhận nghĩa mà chớ chấp nệ vào vết tích, dù là Phật thuyết hay Bồ tát thuyết cũng vậy.
Ghi chú:
“Ly sắc minh không” là muốn nói “không” ở ngoài sắc như nơi tưởng là “chẳng không”, ngoài tưởng là “không”.
“Đoạn diệt không” là diệt sắc chất đi, để tỏ rõ “không” như đào giếng bỏ đất đi là hố không. Trước có sau không là đoạn diệt. Hai cách đó, không phải là tâm chân thật, không có tri giác, không có tác dụng, không thể hiện được vạn pháp, thế nhưng ngoại đạo và Nhị thừa đều có đoạn diệt. Ngoại đạo đoạn diệt quy về thái hư, Nhị thừa đoạn diệt quy về Niết bàn.
Có bản dịch chia kinh này làm ba phần:
1. Từ chữ “Quán Tự Tại, v.v. đến “độ nhất thiết khổ ách” là phần Duyên khởi.
2. Từ đoạn “Xá Lợi Tử, v.v. đến “Tam bồ đề” là phần Chính tông.
3. Từ chữ “Cố tri, v.v.” trở xuống là phần Lưu thông, như thế cũng là gượng ép.
Kinh này gọi là Tâm Kinh, tức là tâm điểm của bộ Đại Bát Nhã nên không chia làm ba phần.
Tổ Từ Ân dạy: Kinh này là chép riêng ra nhưng rất màu nhiệm của đại kinh nên đều không có Thông tự, Biệt tự và ba phần: Tự phận, Chính tông, Lưu thông.
2. Chân không
a. Giải thích chung
“Này ông Xá Lợi! Mọi pháp đều là tướng của chân không, không sinh, không diệt, không bẩn, không sạch, không thêm, không bớt”.
Mọi pháp có năm uẩn, v.v. không tướng, đó là thực tướng của mọi pháp. Bởi vì, trước đó đã dạy năm uẩn huyễn hữu là chân không, mà chưa nói ra tướng của chúng, nên đến đây Phật dạy: Chân không là tướng của mọi pháp.
“Chân không” đã là tướng của mọi pháp, thì không thể lìa được, mà nói riêng là tướng không chỉ thẳng đương thể của mọi pháp là tướng chân không, ví như trăng dưới nước, bóng trong gương, hình thể này lìa sinh, diệt, cấu, tịnh, tăng, giảm. Hình thể này không thể tạo cho nó sinh ra, hủy hoại cho nó diệt đi, nhuộm cho nó bẩn, rửa cho nó sạch, thêm để cho hơn, bớt để cho kém, tại sao? Vì ảnh tướng kia không thật, thể ấy là không, cũng như không, không thể lấy sinh diệt cấu tịnh, v.v. mà gọi được; tướng chân không cũng thế, nên không thể đặt tên được, gượng gọi là thực tướng.
Tướng của thực tướng dù là mắt tục, mắt trời, mắt đạo pháp, mắt tuệ, mắt thần (tức ngũ nhãn) cũng không thể nhận thấy được, chỉ có bậc đã chứng thực tướng mới có thể thấy được hiểu được. Bởi vì sinh diệt chỉ vào năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, cấu tịnh ước chỉ vào bốn đế, nhân duyên. Tăng giảm chỉ vào trí đắc. Về năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, v.v. vì mê chân chạy theo vọng, nên thấy sinh diệt.
Mười hai nhân duyên có lưu chuyển, hoàn diệt hai môn là:
- Môn lưu chuyển có hai đế Khổ và Tập là nhân quả của thế gian, nên là cấu (nhơ).
- Môn hoàn diệt gồm hai đế Diệt và Đạo là nhân quả của xuất thế gian nên là tịnh (sạch).
Bồ tát tu hành thì đạo có phần tăng, mê hoặc có phần giảm, nên nói tăng, giảm.
Kinh này nói không sinh, diệt, cấu, tịnh, tăng, giảm là phát minh trong tướng chân không của mọi pháp, vốn không có nhân quả thánh phàm tu chứng, chỉ vào thẳng một thể chân không của Bát nhã, khiến cho người ta trút hết mọi kiến chấp, không vướng một sợi tơ, chân không bộc lộ ra, tức như Phật.
Ghi chú:
Phép quán hoàn nguyên dạy: Theo thuận dòng sinh tử nhiễm thêm mà không bẩn, ngược dòng sinh tử, không vì trừ nhiễm mà sạch, ở thể thánh không hơn, ở dòng phàm cũng không kém.
Bát Nhã Lược Sớ dạy: Sắc theo duyên không không sinh; sắc theo duyên đổi chân không không diệt. Lại dạy: Theo dòng sinh tử, không bẩn, không phải ra khỏi chướng mới sạch. Chướng hết chẳng phải giảm, đức đủ chẳng phải tăng, sinh, diệt, cấu, tịnh, tăng, giảm, đó là tướng những pháp hữu vi. Trái lại là để tỏ tướng chân không nên nói là không tướng.
b. Giải thích riêng
Vì vậy trong tướng chân không, không có sắc chất, không có lãnh thụ, không có tư tưởng, hành động thiện ác và tâm thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không màu sắc, giọng tiếng, hương, vị, xúc và các pháp, không có giới hạn của mắt, tai, v.v. cho đến giới hạn của ý thức.
C. UẨN XỨ GIỚI
Để phát minh mọi pháp giới của tướng “không”, không có những việc sinh, diệt, v.v. nên không có sắc, thụ, v.v.
“Trong không” là trong tướng “chân không”, vốn lìa tất cả những tướng phàm thánh nên không có những tướng uẩn (chứa chấp), xứ (nơi chốn), giới (giới hạn) và nhân duyên tu chứng đến ngay “không” trong Bát nhã, “tính không” còn không thể được, huống chi còn có những pháp, uẩn, xứ, giới nên nói là “không”.
Nhưng “không” cũng không phải cái không của rùa không lông, thỏ không sừng, mà ngay tất cả tướng “lìa” tất cả tướng làm “không”. Bởi vì một khi vọng tình1 đã “tắt” thì kiến chấp phàm thánh tan hết, chân không lộ riêng hẳn ra nên không thể có được những pháp uẩn, xứ, giới. Không từ “sắc” cho đến “thức” là không năm uẩn; không mắt, tai, đến xúc (tiếp xúc), pháp, là không mười hai xứ. Không giới hạn của mắt đến không giới hạn của ý thức, là không mười tám giới. Ấy là hợp sáu căn sáu trần làm mười hai nơi chốn. Căn nghĩa là sinh ra thức, trần nghĩa là nhiễm ô. Tình thức hợp sáu căn, sáu trần, sáu thức là mười tám giới hạn, ở trong là sáu căn, ở ngoài là sáu trần, căn đối với trần, thức sinh ở giữa là thức (tính biết) của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
1 Vọng tình là ý nghĩ mê lầm.
Giới nghĩa là giới biệt (riêng cõi), mười tám giới này đều có thể riêng không lẫn lộn, như mắt lấy sắc làm giới hạn, tai lấy giọng tiếng làm giới hạn, v.v. cho đến ý lấy pháp làm giới hạn. Mắt không thể vượt qua sắc tướng mà có thấy, tai không thể vượt qua tiếng mà có nghe, cho đến ý không thể vượt qua pháp trần mà có biết.
Sắc lấy mắt làm giới hạn, bởi sắc tướng chỉ có mắt mới thấy được, mắt không thể thấy được thanh hương, v.v. cho đến ý lấy pháp làm giới hạn, bởi pháp là trần bị biết của ý. Giới hạn chỉ biết của mắt là tính thuộc về mắt, phải dựa vào mắt mới biết được. Mắt cũng không thể phát ra được, biết về âm thanh, hương vị, v.v. vì thế nên khác biệt. Những cái khác cũng vậy suy ra sẽ rõ.
Uẩn, xứ, giới đây gọi là ba khóa pháp môn, pháp môn tuy có ba, tóm cả “sắc” “tâm” hai pháp, mở ra hợp lại không cùng.
Đức Phật vì người mê tâm, không mê sắc, thuyết ra pháp năm uẩn, hợp sắc làm một phần, khai tâm làm bốn phần (thụ, tưởng, hành, thức đều thuộc tâm).
Đức Phật vì người mê sắc không mê tâm, thuyết ra pháp 12 xứ, khai sắc thành 10.5 (trong năm căn, ngoài sáu trần với 0.5 pháp trần) hợp tâm làm 1.5 (ý căn một phần với pháp trần 0.5).
Người lại vì người tâm, sắc đều mê nói ra 18 giới, khai sắc làm 10.5, khai tâm làm 7.5 (sáu thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, bởi thêm một phần ý căn, pháp trần 0.5 nên bằng 7.5).
Đức Phật dựa vào căn cơ chúng sinh, nói ba khoa pháp môn này, đó là tùy thuộc vào căn tính, vào phép tu hành của chúng sinh. Chúng sinh noi theo đó mà tu hành thì ngộ nhập ngay được.
Nay trong môn Bát nhã chân không này, đều không có việc đó, cho nên nói rằng “không”. Chính là để tỏ thể chân không thực tướng không có những tướng chất ngại (sắc) lĩnh nạp (thụ), trầm tư (tưởng), tạo tác (hành), liễu biệt (thức), tích tụ cho nên không có sắc, thụ, tưởng, hành, thức.
Thực tướng chân không không thể không phải căn trần, các tướng năng nhập, cho nên không mười hai xứ; tướng chân không thực tướng, không phải căn trần khác biệt cho nên không có mười tám giới.
D. MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
“Không có vô minh, cũng không có tướng hết của vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có tướng hết của già chết”. Đây gọi là mười hai nhân duyên, cũng gọi là duyên khởi, cũng gọi là duyên sinh.
Vô minh duyên ra hành động, hành động duyên ra tâm thức, tâm thức duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc tiếp, xúc tiếp duyên ra thụ, thụ duyên ra ái (yêu), ái duyên ra chấp thủ, chấp thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra già chết.
- Vô minh là mờ tối, những phiền não hoặc đời quá khứ che lấp không có chân tính, không có ánh sáng diệu giác, nhận xằng tứ đại là tướng tự thân, duyên bóng sáu trần làm tướng tự tâm, cho nên gọi là vô minh.
Kinh Đại Bát Nhã dạy: Ở chỗ không có như thế mà có, như ở chỗ không có pháp như thế mà không thấu rõ nổi gọi là vô minh.
Những phép gì không phải có? Đó là uẩn, xứ, giới, cho đến mười tám phép bất cộng, trí nhất thiết của Nhị thừa, trí đạo chủng của Bồ tát, trí nhất thiết chủng của chư Phật, nó bởi vô minh và thế lực của ái dục, phân biệt đoạn, thường hai bên, bởi đó chẳng biết, chẳng thấy, tính vô sở hữu của mọi pháp.
- Hành là tạo tác, nghĩa là thân khẩu từ quá khứ tạo tác ra nghiệp thiện hay không thiện, lưu hành luôn luôn không ngừng.
- Thức là tâm vương, chân và vọng hòa hợp gọi là thức, bởi hoặc và nghiệp đời quá khứ dắt nhau, để cho thần thức này gieo vào thai người mẹ.
- Danh sắc, danh là tâm, sắc là thân, từ khi đầu thai, đến ngày thứ ba mươi lăm hình thành mọi căn, bốn chi sai khác thế là danh sắc.
- Lục nhập là sáu căn, từ sau khi danh sắc hình thành, đến ngày thứ bốn mươi chín, sáu căn dương mờ, có tác dụng tiếp sáu trần vào cho nên gọi là lục nhập, còn gọi là lục xứ.
- Xúc là tiếp xúc, từ khi ra thai đến khi 3, 4 tuổi sáu căn tuy xúc đối sáu trần nhưng chưa hay biết sinh tưởng khổ vui cho nên gọi là xúc.
- Thụ gọi là lĩnh nạp, từ 5, 6 tuổi đến 12, 13 tuổi nhân tiếp sáu trần ở ngoài, sáu căn lĩnh biết những việc tốt xấu nơi tiền cảnh, nhưng chưa phải tâm sân, tham cho nên gọi là thụ.
- Ái là tham yêu, từ 14, 15 đến 18, 19 tuổi lòng tham đối với dâm dục mọi cảnh, nhưng cũng chưa hay rộng khắp tìm kiếm cho nên gọi là ái.
- Thủ là tìm lấy, từ sau 20 tuổi tham muốn càng mạnh, đối với năm cảnh trần, tìm kiếm rộng khắp cho nên gọi là thủ.
- Hữu là hậu hữu (sau có). Nhân tìm kiếm mọi cảnh, khởi ra nghiệp thiện ác, chứa góp dẫn dắt, tới quả hữu lậu, phải sinh vào ba cõi cho nên gọi là hữu. (Hữu là tên riêng của nghiệp nhân).
- Sinh là thụ sinh, ở đời hiện tại đã tạo nên những nghiệp thiện, ác, đời sau phải luân hồi trong sáu đường, bốn loài cho nên gọi là sinh.
- Lão tử là suy hoại, là đời sau thụ sinh thành thân năm uẩn suy rồi lại hoại rồi lại già chết.
Mười hai pháp này dần dà dẫn đến nghiệp thành quả báo cho nên gọi là nhân. Do tác động vào nhau nên gọi là duyên; ba đời nối nhau quẩn quanh không dứt như bánh xe quay cho nên gọi là luân hồi.
Trước do “vô minh” đời quá khứ, “hành” là nhân đem lại kết quả cho đời hiện tại: một thức, hai danh sắc, ba lục nhập, bốn xúc, năm thụ.
Bởi quả đời hiện tại, khởi ra ba nhân đời hiện tại là ái, thủ, hữu.
Do nhân đời hiện tại, mà đem lại kết quả cho đời sau là sinh, già, chết, đó là sinh tướng pháp, phàm phu gọi là môn Lưu chuyển.
Nếu bậc Duyên giác ngộ mọi pháp này là bởi duyên sinh, mà vô minh diệt, thì hành diệt cho đến lão tử diệt, đó là tướng diệt, gọi là môn Hoàn diệt, là pháp của bậc Duyên giác.
Nếu dùng tuệ quán Bát nhã soi tỏ thể tính vô minh đều không, không có tướng sinh diệt. Cho nên nói không vô minh, cũng không có tướng hết vô minh, cho nên không có già chết (lão tử) cũng không có tướng hết già chết.
Nói không có vô minh sinh là vô thủy, không có vô minh diệt là vô chung.
Tận là diệt hết, thế là cả tướng không đầu và cuối mà gồm cả giữa, để làm rõ Bát nhã chân không. Không có tướng lưu chuyển và hoàn toàn diệt, cho nên không có mười hai nhân duyên.
E. TỨ ĐẾ
“Không có khổ, tập, diệt, đạo” (vô khổ, tập, diệt, đạo). Khổ là quả khổ sống chết. Tập là nhân khổ, “hoặc” và “nghiệp” đó là nhân, đó là nhân quả ở thế gian. “Diệt” là quả vui Niết bàn, diệt hết phiền não. “Đạo” là nhân vui về bậc đạo tu trì, đó là nhân quả xuất thế gian.
Luận Trí Độ bàn, thế gian và thân, là quả khổ, mọi phiền não tham, sân, si, v.v. là nhân khổ.
Phiền não diệt thì khổ diệt, phương pháp diệt phiền não gọi là đạo.
Đức Như Lai nói pháp bốn thánh đế này chỉ vì phàm phu, Nhị thừa không biết thế gian ba cõi năm uẩn mọi pháp, như huyễn hóa ra, vốn tự không sinh, tính tướng tịch diệt1, sống chết, Niết bàn cũng như chiêm bao; mà ở trong pháp vô sinh chấp không thấy sinh diệt, uổng chịu luân hồi, ví như lửa mặt trời long lanh nơi không nước, tưởng lầm là nước chịu mệt hoài, vì vậy Phật bảo họ bớt khổ, dứt tập, mộ đạo, tạm bớt gốc khổ, Thanh văn không hiểu đắm say tịch diệt lấy làm thực chứng.
1 Tịch diệt là bất sinh bất diệt chứ không phải là chết.
Bậc Đại thừa Bồ tát tu phép quán Bát nhã thấy lẽ chân không, không có những phép sinh diệt tu chứng vì tự tính là “không” cho nên nói vô khổ, tập, diệt, đạo.
Đế là rõ thật, phàm phu tuy có khổ, tập, mà không rõ thật không được gọi là đế. Thánh trí không điên đảo, biết cảnh rõ thực, cho nên gọi là thánh đế.
Đạo phẩm là ba mươi bảy phẩm pháp phần Bồ đề sẽ giải ở sau.
F. TRÍ ĐẮC
“Không trí cũng không được”. (Vô trí diệc vô đắc).
Trí là trí năng quán. Được là lý, chứng được là ý nói rõ, không những không năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, bốn thánh đế, mười hai nhân duyên, v.v. ngay cả những trí người Tam thừa, năng chứng sở chứng và mọi phép không của Bồ tát tu Bát nhã, với cái trí không về lý sở đắc cũng không.
Bởi vì pháp tính như không, bởi mắt bị bệnh nên ở hư không thấy “hoa thủ chứng”.
Cho nên Kinh Đại Bát Nhã dạy: Như Lai không thể chứng nghĩa thú bí mật của chư Phật, cho nên học ý rất sâu của pháp Bát nhã Ba la mật là thế.
Tại sao? Vì với Phật pháp là sở chứng. Phật pháp là pháp sở chứng, là tịch diệt thì người tu là năng chứng cũng là không tịch diệt, vì Bát nhã là pháp không có năng sở, đối đãi.
Lại nói: Trong thắng nghĩa đế của các pháp, “người” năng chứng, “pháp” sở chứng, nơi nào chứng, thời nào chứng, lý do chứng, hoặc hợp, hoặc ly đều không thể được vì không thể thấy.
Bởi Bồ tát đối với mọi pháp không, không nên tác tưởng thủ chứng, nghĩa là khi quán pháp không, trước nên quán tưởng mọi pháp đều không, không nên tác tưởng chứng ngộ, ta chỉ vì học.
Quán mọi pháp không, không vì chấp sự chứng đắc, quán mọi pháp không, cho đến ta đối với ngôi Vô thượng Bồ đề giờ đây phải học, không vì thủ chứng.
Cho nên Luận Trí Độ dạy: Bồ tát vào sâu phép quán không, biết không cũng không, Niết bàn cũng không cho nên không sở chứng, bởi chứng phép “bất chứng” thì không thể được đắc chứng.
Trước từ năm uẩn đến bốn đế, là cảnh sở quán của ngôi Tam thừa tu đạo, nay tu Bát nhã như đống lửa lớn, bất luận nhơ sạch chạm vào là cháy hết. Cho nên trí biết được nhất thiết trí đều không có là trí tuyệt đối, tính phàm gột sạch, cảnh thánh chân như, nhất thiết trí, trí hết đều không thể được.
Cho nên với thế gian, năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và xuất thế gian bốn đế, mười hai nhân duyên, cho đến năng chứng sở chứng đều là không cả, thế là nhân, pháp, cảnh, trí không còn đối tượng gì nữa, bệnh khỏi bỏ thuốc, cho nên nói: “Không trí cũng không được” (vô trí diệc vô đắc).
Ghi chú:
Kinh Lăng Già, Kinh Mật Nghiêm dạy: Thà chấp có như núi Tu Di, chớ chấp không như hạt cải, ý nói thường tin nhân quả sợ tội phúc, chăm làm lành tránh ác, niệm Phật tụng kinh, tuy có bó buộc nhưng gây được công đức, thì nên chấp có (Kinh Bảo Tích cũng dạy như vậy).
Chưa chứng được chân không, lại chẳng theo hình thức siêng làm phúc thiện, mà không tin nhân quả, tất sẽ sa đọa luân hồi, vậy chớ chấp không.
Vậy Bồ tát bởi đâu được Niết bàn?
Bởi không sở đắc mọi pháp trước kia, Bồ tát nhân y vào đó mà tu được rốt ráo tịch diệt (cứu cánh tịch diệt) cho nên ở đây một chữ “vô” (sở đắc) tóm thâu ý cả một bộ kinh, bởi vì thể pháp tính vốn như tịch diệt. Nếu lấy tâm (hữu sở đắc), mê mất căn bản chân tính (bản chân), mất hẳn tuệ quán Bát nhã, thì làm sao xa lìa được điên đảo mà được cứu cánh Niết bàn.
Kinh Niết Bàn dạy “vô sở đắc” gọi là tuệ, Bồ tát được trí tuệ đó gọi là “vô sở đắc” (không có gì được), lại “vô sở đắc” là đại Niết bàn, không thấy tính tướng tất cả các pháp cho nên gọi là “vô sở đắc”. Lại “vô sở đắc” là Đại thừa, Bồ tát không trụ được vào pháp nào cho nên gọi là Đại thừa.
Tổ Thanh Lương phán: Vô sở đắc là tướng Bát nhã, bởi được trí tuệ “vô đắc” của Bát nhã nên mới được vậy.
Bộ Đại Phẩm dạy: Các vị Bồ tát dùng trí quán Bát nhã có phương tiện soi, mọi pháp không. Cho nên đối với tướng năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, mười hai nhân duyên và bốn đế cho đến năng chứng sở chứng đều không được (vô sở đắc) bởi tâm vô sở đắc ấy mà y Bát nhã tu hành, nên mê hoặc không chứng được tâm cảnh tướng, không chứng được trí, cho nên tâm không quản ngại, bởi không quản ngại thời nghiệp lực giải thoát, thì ngoài không sợ hãi quả báo ba cõi; bởi ngoài không quả báo thì trong vĩnh viễn xa lìa phiền não của mộng tưởng điên đảo. Bởi lìa được phiền não, thì chân thường lộ hẳn, đó là cứu cánh Niết bàn (diệt hết vọng hoặc). Đó là tỏ rõ thể Bát nhã chân không, hẳn không sinh diệt đến nỗi sai nhân trái quả. Vì vậy các vị Bồ tát, đối với hết thảy mọi pháp (không chỗ được) là được cứu cánh Niết bàn.
Nhưng cả Đại Bộ Bát Nhã đều lấy vô sở đắc làm tông. Ví có một phép nào quá trên Niết bàn ấy cũng như chiêm bao, như trò dối đều không thể được. Bởi không thể được tức là không có những tri kiến về năng chứng sở chứng, bởi không có những tri kiến ấy cho nên không những phiền não vì điên đảo. Nếu có sở chứng tức là mộng tưởng điên đảo, đâu có được Niết bàn chính giác.
“Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quải ngại, vô quải ngại cố, vô hữu khủng phố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn”.
“Vì không chỗ được (sở đắc), nên Bồ tát y vào trí Bát nhã Ba la mật đa, nên tâm không vướng mắc, vì không vướng mắc nên không có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, cứu cánh Niết bàn”.
Tâm không vướng mắc điên đảo, mộng tưởng là “chứng” năng không; cứu cánh Niết bàn là quả sở chứng, tức là sở không.
Cứu cánh Niết bàn là năm trụ hết hẳn, hai cách chết phân đoạn và biến dịch, vĩnh viễn không vướng, gọi là cứu cánh, cũng gọi là vô dư, bởi rốt ráo cõi Niết bàn, còn có tên là vô dư y, vô trụ xứ Niết bàn, không như Nhị thừa, mới chỉ lìa được hai thứ hoặc kiến tư gọi là giải thoát, tạm được hóa thành Niết bàn, thực chưa phải cứu cánh.
Tiếng Phạn là “Niết bàn”, Trung Hoa gọi là viên tịch, nghĩa là không thiếu đức nào, không còn chướng nào. Còn gọi là “đại diệt độ”.
Đại là thực tướng; diệt là uẩn không; độ là việt khổ. Đại còn là pháp thân; diệt là giải thoát; độ là Bát nhã. Bồ tát tu Bát nhã, quán mọi pháp không, tỏ lý thực tướng, rõ thân huyễn sinh tử, là bản pháp thân, phiền não là Bát nhã, kết nghiệp là giải thoát, thế thì ba chướng sạch không, ba đức trọn vẹn là cứu cánh Niết bàn.
Năm trụ hoặc thường hay khiến chúng sinh ở mãi trong vòng sống chết.
1/ Trụ nhất thiết kiến hoặc trong Dục, Sắc, Vô sắc giới.
2/ Trụ dục ái tư hoặc về Dục giới.
3/ Trụ sắc ái, là tư hoặc ở Sắc giới.
4/ Hữu ái tư hoặc ở cõi Vô sắc.
5/ Trụ vô minh cỗi gốc.
Nhị thừa chưa rõ những mê hoặc này cho nên trầm trệ ở cõi không tịch. Đại thừa phương tiện đoạn trừ hãy còn hoặc chưa hết cho nên ở cõi thật báo, nay tu Bát nhã hết mọi hoặc cho nên gọi là cứu cánh.
G. CHƯ PHẬT BỒ ĐỀ
Ba đời chư Phật, y vào trí Bát nhã (đáo bỉ ngạn) cho nên chứng được chính đẳng chính giác tuyệt đối.
Ý muốn nói rõ, không phải chỉ bậc Bồ tát, dùng tâm “vô sở đắc” (không chỗ được) y vào trí Bát nhã mà được Niết bàn; ba đời chư Phật cũng dùng tâm vô sở đắc y vào trí Bát nhã mà được vô thượng Bồ đề.
Bồ đề Niết bàn vốn không hai lối, đều y vào trí Bát nhã mà được, bởi trí Bát nhã này thì không bởi đâu được gì cả, vì vậy Kinh Đại Bát Nhã dạy: Tất cả chư Phật, dùng sức chuyên chở như thế, đi con đường như thế (vô sở đắc) mà tới ngôi giác ngộ chân chính tuyệt đối. Sức chở ấy, con đường ấy, đó là con đường đến bờ trí tuệ bên kia (Ba la mật đa).
Kinh Đại Bát Nhã dạy: Tự tướng mọi pháp là “không”, tức là vô thượng chính đẳng chính giác.
Lại nói: Tu hành trí Bát nhã làm Phật rồi, đổi tên là vô thượng chính đẳng chính giác. Bồ đề là đức của “trí”; Niết bàn là đức của “đoạn”.
Bồ đề, Niết bàn trên tuy là hai, đều là hai quả chuyển y nơi cực thánh chứng tới. Bởi vì mê hoặc không phải trí tuệ thì không đoạn được, cho nên Kinh Bát Nhã dạy: Bồ tát đối với quả chính giác và tất cả phương tiện tới bờ bên kia, đã tròn đầy rồi, bởi một giây lát diệu tuệ hợp nhau, chứng được nhất thiết chủng trí của Như Lai, lúc đó tất cả các tập khí nối nhau, mãi không sinh nữa gọi là đã đoạn đến mức không còn nữa thì gọi là Như Lai ứng chính đẳng giác, thế thì biết hai quả (Bồ đề, Niết bàn) như thế đều y trí Bát nhã (đáo bỉ ngạn) mà được thành tựu.
Dưới đây là năng lực công dụng của Bát nhã: “Vì vậy biết trí tuệ Bát nhã là chú đại thần, là chú đại minh, là chú trên hết, là chú không chú nào sánh bằng, có khả năng trừ hết mọi khổ ách, đúng thực không sai”.
Chư Phật, Bồ tát đều y vào phép Bát nhã này mà chứng được tịch diệt, chính giác, bởi thế biết công dụng của trí Bát nhã, là không thể nghĩ bàn được, không phải tên gọi, lời nói và số lượng nào, có thể tỏ rõ được, phải dùng thứ chú ví dụ mà khen ngợi.
“Thần” nghĩa là không lường nổi; “minh” có khả năng phá tối si mê mà tỏ lý trí chân không, chứng được Bồ đề, Niết bàn, lại không có phép nào cao như thế nữa; “vô thượng” là tâm ấn bí mật của chư Phật, cho nên không có phép nào sánh ngang với trí Bát nhã được, cho nên nói là “vô đẳng đẳng”.
Lại phép Bát nhã này gọi là vô tỷ, bởi không còn phép nào sánh ví được, cho nên gọi là “vô đẳng đẳng”.
Năng trừ hết hẳn, hai lối chết đều không bị nữa, quả báo sinh trong bốn loài cũng không còn nữa, muôn lụy đều trút hết cho nên nói rằng “trừ nhất thiết khổ”.
Pháp Bát nhã diệu dụng như thế, lửa vọng niệm và chân như ngay ở cõi phàm thánh, chỉ thánh quyết định dập tắt hết mọi khổ não không còn ngờ vực gì, khiến cho chúng sinh quyết định tin theo, cho nên nói là “chân thực bất hư”.
Kinh Đại Bát Nhã dạy: Khi học chú vương Đại Bát Nhã Ba La Mật này, đối với ngã và pháp tuy không thể được, mà hay chứng được vô thượng chính đẳng giác.
Luận Đại Trí Độ viết: Tại sao gọi chú Bát Nhã là chú đại minh? Nghĩa là, mọi ngoại đạo đều có nhiều loại chú thuật, lợi ích cho đời, có thể tùy ý muốn sai khiến quỷ thần, rất được nhân dân quy phục. Chú Bát Nhã, đối với mọi hoặc chú thuật là chú thuật lớn, thường cho chúng vui vì đạo đức, còn mọi chú thuật khác, hay khởi tham sân phiền não, tha hồ làm ác đọa ba đường ác.
Chú Bát Nhã Ba La Mật này hay diệt mọi sự chấp trước, thiền định về Niết bàn, huống chi bệnh thô tham giận cho nên gọi là chú đại minh, chú vô thượng, chú vô đẳng đẳng. Mật thuyết Bát nhã:
“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha, Ma ha Bát nhã Ba la mật đa”.
Đây là phần bí mật của Bát nhã.
Đó là cảnh không thể nghĩ bàn, bản thể là chân không, không khác phần hiển thuyết vì hiển thuyết người ta y văn giải nghĩa, y thuyết mà khởi ra tri kiến lại cùng với pháp sinh diệt, chứ không biết rằng chân không cũng không, mà lại sinh chấp trước, là do vô minh. Bộ Đại Bát Nhã viết: “Hết thảy mọi pháp không có tự tính, đã là không tính, không nên chấp trước tính không. Không trong tính không, còn không thể được, huống chi lại còn có tính không, để chấp trước không”.
Chỉ vì không rõ chân không vốn như, liền lấy lại cầu trí, đã có trí thì thành ra kiến giải, thành kiến giải thì mất chân thể, khởi ra tâm chiếu, có tâm chiếu thì lập ra cảnh, tùy chiếu sẽ mất chân thể, lại thành bóng, đại trí ở ngay trước mắt lại thành ra cảnh danh tướng, vì thế Tổ Vĩnh Gia dạy:
Không lìa ngay chỗ đó không rõ ràng
Tìm thời biết rằng không thể được.
(Bất ly đương xứ thường hiện tiền
Mịch tắc tri quân bất khả kiến).
Phần Mật thuyết Bát nhã này, chính khiến cho người ta quên tình thức, dứt trí năng, không phải tìm tòi, chân tâm vẫn rõ ở trước mắt, tự nhiên ngầm chứng nên gọi là chú, tức là lời bí mật chân thật của Như Lai, chú nguyện cho chúng sinh như Phật không khác, vì vậy người trì tụng nên trừng thanh nơi tâm, mà chuyên nhất niệm, nối niệm không cách, tự nhiên chuyển vọng về chân, đổi phàm thành thánh.
Hoặc phần hiển thuyết, để hiểu sinh tuệ, diệt chướng phiền não, còn mật thuyết khiến tụng sinh phúc, diệt chướng tội nghiệp, v.v.
Hoặc có chỗ gượng khích lấy “yết đế” phiên là độ, “ba la” là bỉ ngạn, “tăng” là chúng, bảo là độ mình, độ người và chứng đến bờ chính giác.
Thuyên thích như thế có thể trái với chí lý, trái cả mật ý thần chú Phật thuyết, người ta hiểu làm sao được, còn chẳng phải bậc tiểu thánh, nhân vị còn là Bồ tát không thể đo lường được, không thể lấy nghĩa giải thích được, danh, ngôn, sự, lý, đều diệt hết, mắt kim cương nhìn ngắm không tới, ta hễ lạc vào ý nghĩ, liền thành ý kiến cặn bã, tri kiến lập ra biết, tức là gốc vô minh (tri kiến lập tri, tức vô minh bản); vô minh đã lập, muôn kiếp đắm chìm, tất cả khổ ách bởi đâu qua được, nếu dứt hết được tâm tư và tri kiến là phá được tâm tư và tri kiến, là phá được vô minh, mà đến được bỉ ngạn. “Tát bà ha” phiên là “ta bà ha”, nghĩa là nhanh chóng thành tựu, còn giảng là viên tịch, v.v.
Tóm lại Kinh Bát Nhã này, là công hạnh màu nhiệm và quả Niết bàn rốt ráo của Bồ tát Quán Thế Âm đã tu và đã chứng, công hạnh màu nhiệm là phép quán thâm nhập Bát nhã.
Quả thế, Niết bàn gồm đủ ba đức: pháp thân, Bát nhã, giải thoát.
Bát nhã tức là chiếu kiến (soi thấy), pháp thân là uẩn không, giải thoát là độ khổ, cho nên nói: Năm uẩn đều không, qua hết thảy mọi khổ ách, mà Phật muốn tất cả ai nấy cũng được như Bồ tát đã được, cho nên nói: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”, nhưng lại e sinh ra cái tên không, sắc, mà không hiểu ngay đương thể đó, cho nên lại nói: “Sắc là không, không là sắc”, ai muốn được như thế thì hãy không sinh vọng niệm, thì chân thường lộ rõ, tức là Quán Tự Tại, nếu mê (Bát nhã) thì thân tâm đầy rẫy thế là sáu ngả bốn loài.
Hoặc đối với đạo lý này, chưa có khả năng một niệm phù hợp, thì hãy hưng khởi chí khí trượng phu dập tắt vọng tâm tình thức chớ để rơi vào tri kiến so đo, lắng đọng trí vô phân biệt, soi thân tâm như huyễn này, ngay chỗ tịch diệt, tức là chân không, chân không lộ rõ riêng biệt đó là pháp thân, không nhiễm trước tức là giải thoát.
Thể pháp thân lìa hết mọi tướng sinh diệt hư vọng cho nên về thế gian thì không có căn, trần, thức.
Pháp thân không có thời gian bắt đầu và cuối cùng cho nên không có ba đời và mười hai nhân duyên.
Pháp thân không thuộc nhân quả thế gian và xuất thế gian, cho nên không có khổ, tập, diệt, đạo.
Pháp thân vốn tự viên thành, lìa cả người năng tu, pháp sở chứng, cho nên không trí cũng không được.
Pháp thân lìa tất cả các tướng, mà không phải đoạn diệt cho nên không tu mà là tu.
Y vào Bát nhã Ba la mật đa, không chứng mà chứng Niết bàn rốt ráo cho nên là đại thần chú.
Rực rỡ ánh sáng thiêng liêng, cho nên nói là đại minh chú.
Ra ngoài số lượng các thần chú, nên gọi là vô thượng.
Không phải ba ngôi hiền, mười ngôi thánh sánh tày cho nên gọi là chú vô đẳng đẳng.
Lìa nghĩa danh, sắc, cho nên nói là: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Vịnh rằng:
Mở quyền đầu đề tám chữ tên
Bao hàm vạn tượng rộng vô biên
Hai hình không, sắc nào đâu khác
Năm uẩn thân, tâm vốn chẳng riêng
Vô tướng, còn chi phân biệt nữa
Trong không, há bị bụi nhơ hoen
Như như bình đẳng cùng ngôi Phật
Mặc sức cầu chi được thỏa nguyền.
NĂM THỜI KỲ PHẬT THUYẾT PHÁP
Khai thị cho chúng sinh ngộ nhập chân tâm.
Thời kỳ I: Thuyết giáo Tiểu thừa
Theo Ngài Thanh Lương, Ngài Hiền Thủ phán định, thời kỳ đầu, Phật thuyết giáo Tiểu thừa, bởi căn cơ của chúng sinh còn thấp kém hẹp hòi, giáo lý thời này được kết tập thành những bộ Kinh A Hàm, Luận Tỳ Bà Sa, thuyết minh tất cả các pháp đều là nhân duyên mà có sinh, nên không được tự tại, dạy cho liễu ngộ lý nhân không, tu hạnh tự lợi, vui chứng quả Tiểu thừa.
Thời kỳ II: Thuyết Đại thừa thủy giáo
1/ Tông pháp tướng, những bộ Kinh Giải Thâm Mật, Phật Địa, Luận Du Già, Duy Thức, thuyết giảng hết thảy mọi pháp đều là duy thức, tỏ rõ cả hai nhân và pháp đều không, tu hành theo lục độ vạn hạnh, tiến tới quả Phật Đại thừa.
Trong những kinh luận trên (Thâm Mật, Du Già) phần nhiều bàn về những nghĩa pháp tướng (tướng của vạn pháp).
2/ Tông vô tướng (Chư pháp không tướng) là bộ kinh Bát Nhã và ba bộ Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận, giảng tất cả các pháp vốn là không, mê tình ba đời nhận lầm là có, phải tu vạn hạnh để mong sẽ chứng được đạo Bồ đề.
Trong tông này phần nhiều bàn về nghĩa vô tướng.
Hai tông này đều là bước đầu của Phật giáo Đại thừa nên gọi là thủy giáo.
Thời kỳ III Đại thừa chung giáo:
Là những kinh: Pháp Hoa, Niết Bàn; Luận Phật Tính, Bảo Tính, thuyết minh tất cả chúng sinh đều có Phật tính, bao giờ cũng thiêng liêng sáng suốt, thường hiểu biết rõ ràng. Nhưng từ bao giờ bị mê muội điên đảo nên không tự giác ngộ, muốn được hoàn toàn giác ngộ thành Phật, trước phải hiểu chính nơi mình có tính Phật rồi sau tu tập hợp với tính đó, vốn có rất nhiều đạo hạnh nhiệm màu.
Tông này phần nhiều bàn về tự tính của các pháp, là giáo lý cùng tận của Đại thừa.
Thời kỳ IV: Đốn giáo
Nghĩa lý trong những kinh: Lăng Già, Tư Ích. Tổ Đạt Ma truyền Thiền tông, thuyết minh tất cả không có vọng tưởng, chân tâm vốn không, trong sạch không có phiền não, vốn là Bồ đề, chỉ bàn về chân tính thành Phật, không cần theo ngôi thứ, cho nên gọi là “đốn” (mau chóng).
Thời kỳ V: Viên giáo
Còn gọi là Bất tư nghị thừa, Kinh Hoa Nghiêm, Luận Thập Địa toàn thuyết pháp giới Tỳ lô, bể hạnh nguyện Phổ Hiền, ở đây hoặc sự hoặc là nhân hay quả, một là tất cả, tóm thu mọi giáo, không phép nào không thu, hợp với tự tính tự tại giải thoát khác hẳn mọi pháp.
Năm giáo lý này trước tạm là nông, sau mới thực là sâu.
Nếu đứng về mặt viên giáo mà nói, bốn giáo trước là ứng với căn cơ mà đặt ra. Nay y vào viên giáo mà nghiên cứu lược chia làm hai:
1/ Liễu ngộ pháp giới Tỳ lô.
2/ Tu hạnh hải Phổ Hiền.
Kinh Hoa Nghiêm thuyết minh pháp giới nhất chân vô chướng ngại còn gọi là nhất tâm.
Trong đó vốn đủ ba thế gian: 1/ Tình thế gian (các loài hữu tình), 2/ Khí thế gian (non sông đất nước), 3/ Trí chính giác thế gian (Chư Phật, Bồ tát, Thánh hiền).
Bốn pháp giới: 1/ Sự vô ngại pháp giới, 2/ Lý vô ngại pháp giới, 3/ Lý sự vô ngại pháp giới, 4/ Sự sự vô ngại pháp giới.
Tất cả nhiễm, tịnh mọi pháp, không một pháp nào ra ngoài bốn giới nhất chân vô chướng ngại này, đó là chân tâm căn bản của phàm phu thánh nhân.
Nói chung là chân tâm, nhưng cũng có hai thể khác nhau: Chân tâm đồng giáo và Chân tâm biệt giáo.
Chân tâm của đồng giáo cũng có hai dạng khác nhau: Chân tâm chung giáo Đại thừa và Chân tâm đốn giáo.
a. Chân tâm chung giáo Đại thừa
Kinh Lăng Nghiêm dạy: Nên hiểu hư không sinh trong chân tâm cũng như đám mây trong thái thanh (bao la thăm thẳm màu xanh), huống chi thế giới ở trong thái thanh ấy. (Đương tri hư không sinh nhữ tâm nội, do như phiến vân điểm thái thanh lý, huống chư thế giới tại hư không da?)
Thuyết chân tâm này như bầu trời thái thanh so với hư không ví tựa đám mây, thì biết chân tâm rất rộng, hư không rất nhỏ, thế thì cái thế giới ở trong hư không sẽ nhỏ đến đâu.
Lại nói: Hư không sinh trong chân tâm, như đám bọt nổi trên mặt biển. Những đất nước của chúng sinh đều y vào hư không mà sinh tồn. (Không sinh đại giác trung, như hải nhất âu phát, hữu lậu vi trần quốc, giai y không sở sinh).
Đại giác là tên khác của chân tâm rộng lớn như biển, hư không nhỏ như đám bọt, huống chi những quốc độ cùng ở trong hư không.
Vậy thì biết những quốc độ, là vật nhỏ ở trong hư không, vật nhỏ là hư không so với chân tâm.
Lại nói: Chân tâm bao bọc cả mười phương, ngó lại tấm thân cha mẹ sinh ra, như một mảy trần trong hư không mười phương, mất còn không đáng kể. (Chân tâm biến viên, hàm quả thập phương, phản quan phụ mẫu sơ sinh chi thân, như bỉ thập phương hư không chi nội, xuy nhất vi trần nhược tồn nhược vong).
Lại nói: Chẳng những sắc thân, cả đến đất liền, non sông hư không, đều là những vật được biến hiện ra, trong chân tâm diệu minh. (Bất tri sắc thân ngoại kỵ sơn hà, hư không đại địa, hàm thị diệu minh chân tâm trung sở hiện vật).
Lại nói tất cả những hiện vật có ở trong thế gian đều là vật, được biểu hiện từ tâm Bồ đề màu nhiệm sáng tỏ biến hiện ra.
Đã nói là chân tâm Bồ đề, màu nhiệm sáng tỏ... vậy thì không phải mọi pháp ở thế gian lại có tự thể riêng biệt.
Đã hiểu pháp tính Tỳ lô như Kinh Hoa Nghiêm, đã chỉ rõ nghĩa, pháp giới nhất chân, vô chướng ngại, bao trùm cả ba thế gian và bốn pháp giới, vô ngại tất cả các pháp, không một pháp nào ra ngoài tâm nhất chân vô chướng ngại này.
Muốn được chứng nhập chân tâm này, Phật dạy: Phải tu theo hạnh hải Phổ Hiền, là những môn hạnh nguyện đã dạy trong tạng giáo, như tứ hoằng thệ nguyện, tam tụ tịnh giới, lục độ vạn hạnh, v.v. là những giáo lý khế cơ tạm đặt, để tu tiến dần trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh, để hồi hướng Phật quả Bồ đề, chứng nhập chân như thực tướng.
b. Chân tâm đốn giáo
Chân tâm này tuyệt đối đãi, không có vật gì khác, không có vọng tưởng, chân tâm vốn trong sạch.
Kinh Hoa Nghiêm dạy:
Pháp tính vốn lặng lẽ như không
Không chấp thủ không thấy được
Tính không ấy là Phật
Không thể nghĩ lường được.
Bản ý của chư Phật vào đời chỉ cốt mong sao độ cho chúng sinh đều được giải thoát mọi khổ não, nên sau khi mới thành đạo đã thuyết ngay pháp môn viên đốn này, sớm giác ngộ mà tu hành để được cùng thành chính giác, trở về bể tính Tỳ lô.
Nhưng khốn nỗi chúng sinh chồng chất mê lầm, từ kiếp này qua kiếp khác, không thể giác ngộ ngay được. Cho nên trên hội Hoa Nghiêm, Phật đã thuyết đến duyên khởi tức là tính khởi, bể tính Tỳ lô, bị mê thành biển thức, biển thức thành bảy sóng, mà trong bảy sóng chúng sinh thân hành động, miệng nói bàn chỉ là thức thứ sáu, cho nên phàm phu Tiểu thừa không những chỉ mê biển tính, biển thức, mà còn chẳng biết biển tính, biển thức, chỉ biết thức thứ sáu là tâm tướng của mình.
Thế là Phật cũng phải tùy cơ cho hợp; từ “thực” diễn giải ra “quyền”, cũng không đổi cái thức tâm nhận lầm ấy, mà còn nhân đó, ngay cõi người cõi trời trong giáo Tiểu thừa, lập sáu thức làm tâm, cho nên bảy mươi lăm pháp trong Tiểu thừa, thì tâm pháp là duy nhất.
Song tác dụng của tâm này được chia làm năm: 1/ Ác; 2/ Thiện; 3/ Bất động; 4/ Tiểu; 5/ Đại nhân.
Phật đối với những lớp người chưa hiểu ngộ được bể tính Tỳ lô, ngay những nơi dụng tâm sai khác ấy lần lượt chuyển hóa từ kém đến hơn.
1/ Giảng thuyết từ Nhân thừa và Thiên thừa cõi Dục, để chuyển tâm ác những người cõi này hóa thành tâm thiện, để xa lìa cõi khổ, địa ngục, ngã quỷ, súc sinh để được hưởng vui cõi người cõi trời.
2/ Giảng thuyết chân tâm tán động của trời cõi Sắc và Vô sắc tập trung về bất động để cho họ xa lìa những phúc báo còn thấp kém, được hưởng phúc báo cao hơn.
3/ Thuyết giảng giáo thừa Thanh văn, Duyên giác, để chuyển tâm niệm những bậc này thường mê chấp trước về hình thức sự tướng, để xa lìa chướng ngại trong ba cõi, mà chứng được quả vị nhỏ, ở ngoài ba cõi.
4/ Phật lập thuyết thủy giáo Đại thừa, để chuyển những tâm ưa thích hẹp hòi này của Nhị thừa lên Đại thừa sơ bộ, để bỏ được những tiểu quả thành đại nhân.
5/ Bởi vì các thể định tuệ của Đại thừa quyền giáo, thường là dùng sáu thức, vốn là dùng tâm sinh diệt làm gốc tu hành.
Thức chưa phải là tâm, đặc biệt còn có chân tâm là “thực giáo” Đại thừa.
THỬ BÀN VỀ NỤ CƯỜI CỦA NGÀI ĐẠI CA DIẾP
Được nghe Ngài Đại Ca Diếp mỉm cười, hẳn Ngài đã được tâm khai ý giải, nghĩa là đã thông hiểu rõ ràng đạo lý tâm tông lắm rồi.
Thân ý biệt truyền, Đức Phật cầm hoa, biểu thị ý huyền vi, Ngài Đại Ca Diếp ngầm hiểu, rằng nhận lấy ý màu nhiệm ấy. Vậy thì có thể nói, Ngài được truyền tâm ấn riêng trước, hẳn đúng thế chăng?
Tổ Đạo Tuyên nói: Đức Thế Tôn ra đời, phải đâu tế độ riêng ai; bao nhiêu phương tiện giáo hóa, chỉ cốt làm tỏ lý nhất tâm (ngộ nhập Phật tri kiến) cùng chứng Niết bàn. Vì vậy có bao nhiêu thiên chúng, nhân loại, được vào đạo lớn Nhất thừa, được nghe giáo lý cao nhất. Cũng đã từng có những vị để tâm nghiên cứu đạo lý Thiền tông này, mà chả nghe thấy có vị nào bừng tỉnh giác ngộ như Ngài Đại Ca Diếp, ấy là sao vậy?
Ý giả đạo lý biệt truyền này thường ứng hiện ra nơi sắc tướng, âm thanh một cách màu nhiệm, công năng phản vọng quy chân, diệt nghiệp ác, như giọt tuyết rơi xuống lò than hồng rực lửa, dấu vết còn đâu, cho nên khi nghe chân, nghe vọng thì pháp tính vọng chân đều viên thông cả.
Đạo lý biệt truyền này, cũng thường phát huy ngay ở nơi tâm thông, mắt thấy, liền từ đó, trái cảnh trần, hợp nguồn giác. Sinh nghiệp thiện, thì như khi tiết xuân về, loài cây cỏ, nảy mầm nảy lộc, cho nên thấy tính giác, thấy cảnh trần, thì trần, giác với chân như thường tự tại.
Lạ lùng thay! Ngài Đại Ca Diếp, mặt tươi mỉm cười, cơ thần màu nhiệm làm sao!
Chỉ có Ngài Đại Ca Diếp, rành phép khai quyền hiển thực, đã biết trước ý hay, quyền thực cả hai đều đã rõ ràng. Cho nên mới thấy Phật cầm hoa, liền tươi mặt mỉm cười, không phải đắn đo suy nghĩ. Bởi đã thường được thấy hiện tiền rồi. Vì thế tin là Ngài đã ngầm hiểu.
Đạo lý đặc biệt truyền này, tự tính thường viên dung với nhất thiết chủng trí, nên khi thánh phàm gặp gỡ, cũng khác nào khách xa quê đã từ lâu, nay trở về nơi tổ cố, thì nỗi mừng thỏa mãn cũng là tự nhiên. Ví mà chân như, chưa ngộ rõ ràng, thì khi thấy cơ trừng mắt dương mi, lòng hầu vượn còn rong ruổi đông tây, khả năng đâu mà đón mừng ngay được mà mỉm cười? Chỉ có Ngài Đại Ca Diếp, từng rảnh công, hội vọng về chân, đã sớm chứng được cơ thần, vọng chân cùng khởi động lẫn nhau, cho nên thoáng trông Phật cầm hoa, mà tươi mặt mỉm cười. Không phải suy nghĩ, vì khai ngộ rồi.
Không biết có phải Ngài được thêm tâm hỷ xả lợi sinh mà mỉm cười chăng? Hay vì lượng từ bi ứng hóa của Ngài được lớn hơn, mà mỉm cười như thế chăng? Thiết tưởng trên hội Linh Sơn, cười việc cầm hoa chẳng qua chỉ có một Ngài, thì tin chắc chắn rằng: Ngài Đại Ca Diếp, đã quán triệt đạo lý Nhất thừa thẳng trỏ, thấy tính tỏ lòng này thì cửa phương tiện mở riêng, ngoài ba tạng giáo, thì cửa cảnh thực tịch quang, tuy vô sở đắc, mừng đã được đi vào nên mới mỉm cười như thế chăng?
Vả chăng trong cõi Kham Nhẫn bây giờ, hiển cơ giơ gậy có được là bao, Ngài Đại Ca Diếp cũng càng hiểu sâu rằng phải gom công tích đức với thượng hạnh Đầu đà, lấy “vô sở đắc” mà được, lên tới ngôi diệu tâm viên giác mà chứng quả, thì “thiền” thực là đường thẳng tắp, chỉ tới nhất tâm. Không phải vậy, thì sao được mỉm cười như thế?
Đương khi rồng còn nằm đáy biển thì mười phương tịnh uế thu về trong khoảng phút giây. Đến khi rồng hiện trên cạn, thì một niệm sắc, tâm (ngũ uẩn) la liệt khắp hòa pháp giới.
Diệu tâm viên giác ai ai cũng vốn sẵn sàng đầy đủ (tịnh thiên chân bản cụ), không phải duyên khởi mới gây nên (phi duyên khởi tâm thành).
Thẳng trỏ lòng người, thấy tính thành Phật, phải chăng là vị này đây?
TRÍ TUỆ LÀ SỰ NGHIỆP
Bản ý của chư Phật vào đời chỉ vì một nhân duyên lớn là khai hóa cho chúng sinh tri kiến của chư Phật và cáo thị cho chúng sinh giác ngộ, và chứng nhập tri kiến, tức trí tuệ của chư Phật.
Nối tiếp chư Phật, các bậc hiền thánh tổ sư khi tu hành cũng thường phát nguyện mong mau chóng diệt hết vô minh phiền não, sớm liễu ngộ được diệu tâm viên giác (tật không phiền não, đốn phá vô minh, viên giác diệu tâm, khuếch nhiên khai ngộ).
Thiền sư Di Sơn Nhiên cũng nguyện: “Tâm Bồ đề không thoái chuyển, trí Bát nhã hiện tiền”.
Tâm Bồ đề tức như Kinh Lăng Nghiêm dạy là “bản diệu tâm”. Diệu là không nhiễm ô, không tăng giảm, v.v. Luận Duy Thức gọi là “chân tính duy thức”. Tâm Kinh Bát Nhã dạy:
“Nhờ trí Bát nhã mà được vô thượng chính đẳng chính giác (y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A nốc đa la Tam diểu Tam bồ đề)”.
Nhưng trí tuệ thường phân biệt thành hai giả thuyết như sau: Trí tuệ thế gian và Trí tuệ xuất thế gian.
Trí tuệ thế gian lại giải thành hai thuyết:
1/ Học rộng, hiểu nhiều, tài cao, nghề nghiệp giỏi, giúp ích cho đời đạt tới chân, thiện, mỹ cũng là đáng quý.
2/ Tỏ rõ thiện ác, phân biệt chính tà, làm những việc nên làm, thôi những việc nên thôi, thế là trí tuệ chân chính, sẽ được quả báo tốt lành.
Trí tuệ xuất thế gian cũng có hai lối đốn tiệm khác nhau:
1/ Phân biệt được chính pháp của Phật như bốn đế, sáu độ, v.v. dựa vào đó mà tu hành là trí tuệ xuất thế gian, dần dần vào được nhà Như Lai gọi là “tiệm nhập”.
2/ Phá được vô minh, thấy được tính Phật nơi mình, được đại giác ngộ một cách cứu cánh nhanh chóng triệt để gọi là “đốn siêu” (mau lẹ). Tại sao? Cầu được gốc là “đức”, không lo ngọn là “tài”, được ngọn chưa hẳn được gốc.
Trong Ngữ Lục Trúc Song, Tổ Châu Hoành dạy: “Nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ, là nói lần lượt phát sinh như vậy, cũng như ba môn vô lậu học, giới, định, tuệ”.
Trong lục độ, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ, chỉ có trí tuệ là quan trọng hơn cả, không thể coi nhẹ được; chỉ có trí tuệ là cần thiết trước hết, chỉ có trí tuệ mới có thể thông suốt hết thảy pháp môn, không có gì bằng được.
Cho nên trong Kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Thành tựu được giới luật; thành tựu được phép Tam muội (chính định); thành tựu được phép thần túc bay đi, ba phép này tuy thành tựu được cũng khó, nhưng được thì cũng thành số thường ở đời. Chỉ có thành tựu được trí tuệ Bát nhã là nghĩa thứ nhất. Vì y vào trí Bát nhã mà được thành Phật”.
Trí Bát nhã có công dụng quán chiếu, thuộc trí tuệ vô lậu xuất thế. Vì sợ lẫn với tà trí, lậu vọng, thường bị ngụy biện điên đảo, nên không dịch thành “trí tuệ” mà cứ để nguyên âm là “Bát nhã”, vì còn hàm nhiều nghĩa chân chính tuyệt đối.
Trí tuệ Bát nhã thường được ví như ánh sáng mặt trời, những trò gian tà thường hay gây tội ác ở những nơi khuất ánh sáng, bởi nội tâm bọn đó phần nhiều ám muội.
Tính sáng chân trí bị vùi lấp đi, thì vô minh phiền não trỗi dậy, nên các bậc cổ đức dạy: Tạm thời trí Bát nhã không hiện tại, thì cũng như xác chết. Trí Bát nhã thường còn ví như lửa, có những vật ở đất thường mục ra, ngâm nước ẩm ướt thì mủn ra nhưng còn lại cặn bã, nếu chôn lấp hay dìm lâu trong nước thì dần dần mới tiêu diệt hẳn.
Nhưng nếu bị lửa đốt thì ra tro ngay, nên trí Bát nhã thường ví như đống lửa lớn. Thứ nước tham những ái dục, bị lửa Bát nhã đốt ngặt cũng phải cạn, các loại củi phiền não gặp phải lửa Bát nhã là cháy. Loại đá ngu si ngoan cố bị lửa Bát nhã đốt cũng phải nhừ. Rừng rậm cỏ khô tà kiến chướng ngại và bao nhiêu tạp vật vọng tưởng khác nếu lửa Bát nhã bén vào cũng đều tiêu ra tro.
Những loại bọ mạt chỗ nào cũng bám được, nhưng lửa thì chúng không dám bám. Ví với tâm chúng sinh chỗ nào, vật gì cũng phan duyên tưởng tới nhưng không duyên tưởng tới trí Bát nhã.
Về mùa nóng, nước lã để cách đêm, thì sinh trùng rất nhỏ, mắt phàm không thể thấy được, cho nên, Phật dạy phải lọc nước mới dùng.
Nếu nước ở trên lửa thì trùng không sinh. Nhân đó ta biết rằng Bát nhã như lửa đun nước, sức quán chiếu luôn luôn chói sáng, giữ được độ nóng không ngớt thì tư tưởng hèn xấu, mê hoặc, phức tạp, không thể nảy mầm ra được.
Vậy nên trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, Phật dạy: “Người tu hành cầu đạo Bồ đề phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp”.
NHỚ VỀ ĐỨC PHÁP CHỦ THÍCH ĐỨC NHUẬN
Ngài xứng bậc thiền lâm sư tượng
Cột rường ngôi phương trượng thiền gia
Hẳn từ hồng phúc xa xưa
Mộng hòe sớm tỉnh giấc mơ tục trần.
Tuổi hình đồng đắc môn nhập đạo
Trút áo đời lãnh áo cà sa
Đỉnh Phúc Nhạc, cảnh chiền già (Già Lệ tự)
Giới thân anh lạc thiết tha cần cầu.
Ba vô lậu làu làu thông hiểu
Ngũ hương lừng, khắp nẻo gần xa
Cương duy mệnh mạch Tăng già
Pháp sư tầng huấn mười khoa vẹn mười.
Gương cầu pháp Thiện Tài chói sáng
Bước Triệu Châu vượt thác trèo đèo
Quản chi non biển hiểm nghèo
Tới nơi viên giác là điều ước mơ.
Tiếp chúng thường tùy cơ phương tiện
Rộng giảng bài, tiết kiệm lễ nghi
Học không chán, dạy không nề
Đạo trường như cảnh vườn Kỳ nghiêm vui.
Học đo khắp chốn nơi nơi
Cảm về đức hóa, xa xôi cũng về
Hoa Bát nhã, quả Bồ đề
Mầm thiêng giống trí, sum suê ngạt ngào.
Là một bậc đức cao học rộng
Lớp đương lai hậu vọng nhiệt tình
Đến khi giáo hội lập thành
Tối cao pháp chủ được dành suy tôn.
Tập hợp các sơn môn hệ phái
Đoàn kết trong giáo hội Việt Nam
Nêu cao cây phướn pháp tràng
Tăng ni thất chúng mười phương trông về.
Vì lý tưởng độ mê, cứu khổ
Việc trang nghiêm quốc độ càng cần
Góp công ích nước lợi dân
Cao tầng Đinh, Lý, Lê, Trần tái sinh.
Vận mưa pháp mây lành Quảng Bá
Khắp đô thành, dân dã, rừng thiền
Ước mong trường tại hóa duyên
Ai hay ẩn hoại, Tây Thiên văn thành.
Than ôi! Thế sự bất bình
Ngài đà chứng quả vô sinh từ rầy.
Lời thông điệp bên tai còn vẳng
Truyền Như Lai sứ mạng đương lai
Sao cho sáng đẹp đạo đời
Lục hòa, tứ nhiếp, người người tiến tu.
Đường tiến tới chân như chói sáng
Nghiệp vô minh cố gắng tiêu trừ
Khắc ghi lời đại đạo sư
Âm vang, vang mãi ngàn thu lưu truyền.
Cây rung chuyển rừng thiền gió thổi
Động tĩnh khôn ngăn nổi cảm hoài
Tấc thành kính cẩn dâng lời
Trước đài gương tuệ xét soi lòng quỳ.
Nam mô hỷ xả từ bi.
LUẬT MÔN
Ba tạng kinh luật giáo lý của Phật lưu truyền tới đất nước nào cũng thường được dịch ra thành tiếng nước ấy, để cho tín đồ tu học hành trì; để giác ngộ kiến tính minh tâm giải thoát khổ não tới cảnh chân thường tịnh lạc.
Nước Việt ta từ xưa phụ thuộc vào văn hóa Trung Quốc, học chữ Nho, thì kinh luật Phật cũng truyền dịch thành Hán văn và nghĩa lý cũng khó hiểu, bởi chữ thì độc âm khó nhớ, ý kinh Phật thì cao sâu khó bề thông hiểu. Và khoa sách của tà giáo cũng xen lẫn thành ra cũng khó bề phân biệt tà chính. Trước đây tuy cũng có những tập đoàn Phật hội hay cá thể đã phiên dịch được ít nhiều kinh điển Phật giáo ra tiếng nước nhà nhưng cũng chưa dịch được nhiều.
Nay Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đảm nhận việc phiên dịch luật tạng thực rất quý hóa rất cần thiết.
Bởi vì đạo Phật dạy cho phương pháp thoát khổ và sống giác ngộ mà giới luật thường gọi là bảo giải thoát, biệt giải thoát, tức là có công năng, đảm bảo đặc biệt cho việc giải thoát phiền não.
Học kinh luận để minh tâm kiến tính cũng vẫn được thoát khổ độ mê, tuy có kiêm định cộng giới, đạo cộng giới nhưng nghĩa lý sâu xa, từ ngữ khó hiểu, thì làm sao dễ được minh tâm. Nếu không lấy giới luật để nghiêm thân, lệ hạnh thì vấn đề kiến tính khó phần đạt được.
Nên Tổ Linh Hựu đã dạy: “Tỳ ni pháp tịch tằng vị phao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng yên biệt”, nghĩa là “chưa qua học luật thì thượng thừa liễu nghĩa không rõ ràng được”.
Tổ Trí Húc dạy: “Giới luật là kỷ cương của Phật pháp, mệnh mạch của Tăng già, cầu thuyền qua bể khổ, con đường đầu tiên (tiền lộ) tới Niết bàn (bất sinh phiền não, bất diệt Bồ đề)”.
Luật Tỳ Bà Sa dạy: Giới luật có bốn nghĩa, mà các kinh không có:
1/ Đất bằng của Phật pháp, muôn vạn việc thiện từ đó sinh trưởng.
2/ Tất cả Phật tử đều phải y chỉ vào giới luật mới có sự sống trong sạch.
3/ Cửa đầu tiên đi tới Niết bàn.
4/ Ngọc anh lạc của Phật pháp, có công năng trang nghiêm Phật pháp.
Bốn nghĩa ấy luật có công năng thù thắng hơn kinh.
Luật Ma Ha Tăng Kỳ dạy: “Nếu thiện nam tử nào muốn kiến lập Phật pháp nên hết sức thụ trì giới luật”.
Muốn cho chính pháp lâu bền ở thế gian, nên hết sức thụ trì giới luật.
Muốn không bị ngờ vực, hối hận gì (khi có ai hỏi) nên nghiêm trì giới luật.
Năm phận pháp thân đều y vào giới, ba phép vô lậu lấy giới làm đầu.
Không có một Đức Như Lai nào mà không đủ giới thân.
Không Bồ tát nào không tu giới độ.
Không kinh điển nào không khen giới pháp.
Không một thánh hiền nào không nghiêm giới hạnh.
Giữ giới như thành xa lìa ma chướng.
Về mặt siêu thắng thì hễ lên giới phẩm đã được gọi là phúc điền ở đời.
Bởi vậy việc dịch tạng luật ra tiếng nước nhà để lưu hành nội bộ quả thực là rất cần thiết. Mặc dầu cũng cần phải có phương tiện tùy duyên song bất biến lợi sinh.
PHẬT HỌC ĐẶC CHẤT1
1 Bài giảng khai trường hạ chùa Hội Xá, Thường Tín, Hà Tây cũ.
Phật học chỉ là Phật học. Nêu ra đặc điểm của Phật học, lược giải như sau:
Cải tạo tự nhiên với thuận với tự nhiên thành là trái nhau
Tự nhiên là danh từ thông tục, nay người ta đem nhân loại và vạn vật trong thế giới, gọi tóm lại là tự nhiên, mà cải tạo tự nhiên, là đặc chất trong Phật pháp.
Bởi tự nhiên là lời tục ngữ (trời sinh) sinh ra tức là kiểu ấy, đó là các giáo, các học đại để đều tin theo kính cẩn.
Như đạo Lão Tử bảo: “Đạo pháp tự nhiên”. Nho học nói là mệnh trời, cũng là tự nhiên. Khoa học tuy xướng rằng chinh phục tự nhiên, vẫn là căn cứ phép tắc tự nhiên, trên sự thật vẫn là lợi dụng tự nhiên. Cho nên cải tạo tự nhiên là đặc điểm của Phật học.
Nhưng Phật học không gọi là tự nhiên, mà gọi là chúng sinh, thế giới, hay gọi là thế gian “có tình cảm tri giác” và thế gian chỗ ở. Hiểu rõ đó là nghiệp quả, mà không phải “tự nhiên” là cái kết quả hành vi tạo tác được thành tự chúng sinh hữu tình.
Nhưng nghiệp quả lại còn có chung và riêng hai loại. Như xã hội hành động mà được kết quả chung là cộng nghiệp, một người hành động mà được kết quả riêng là biệt nghiệp. Nghiệp chung khắp cả, là chung trong chung.
Còn nhỏ như nghiệp chung một dân tộc mà thành quốc gia, là chung trong không chung. Bởi nghiệp quả ấy mà thành thế giới chúng sinh, là giới tự nhiên.
Sở dĩ Phật học không nhận là tự nhiên mà nhận là kết quả phát sinh từ nghiệp chung hay riêng. Tạo thành nghiệp, tuy nhỏ nhiều điều kiện quan hệ, mà sức phát động chủ yếu thì do từ thức tâm mọi người và mọi loài hữu tình, sở dĩ mọi người đều có thể cải tạo từ tâm mình.
Lại nữa, cải tạo tự nhiên, lại có nông sâu. Phàm nghiệp đều từ nghiệp thân miệng ý sinh ra, phát động từ thân miệng ý sinh ra, luôn luôn bỏ ác giữ thiện cũng có thể tạo thành thiện quả, như một nhà thiện thì một nhà hòa vui tốt đẹp, một đoàn thể thiện, thì một đoàn thể tốt lành. Suy ra một nước và cả thế giới cũng thế.
Nhưng lối cải tạo ấy Phật pháp cũng chưa nhận là triệt để. Chỉ bằng những câu nhà Nho dạy: “Chớ nhìn cái gì phi lễ, nghe phi lễ, nói phi lễ, hành động phi lễ, v.v.”. Nhưng tâm điểm xuất phát đối với sự lý vạn hữu trong vũ trụ thì lại không rõ. Phật pháp thì lại cần ở chỗ nghiệp phát động đi truy tìm nguồn gốc của vũ trụ, mới biết cái gốc động lực, đều sinh ra từ tâm vô minh, nửa tối nửa sáng, bởi vô minh cho nên không khỏi sai lầm. Cho nên vẫn không thể nhờ đó làm tiêu chuẩn đạo đức.
Cái vô minh này, Phật dạy nó là chi thứ nhất trong mười hai nhân duyên, sống chết vòng quanh, nhân vì tâm vô minh chúng sinh đều nửa tối nửa sáng bởi tâm là máy phát động khó có kết quả được hay cả. Nếu không cải tạo chính từ cội gốc, trong sạch tự đầu nguồn, không bởi đâu mà được.
Cho nên muốn cải tạo từ cội gốc, không chuyển vô minh thành minh tâm, như Thiền tông gọi là “minh tâm kiến tính” thì không thể được. Thế thì phải dùng tu thiền định mà sinh Bát nhã, mới có thể giải thoát, bởi phiền não mà khởi lên nhiều hoặc nghiệp chính như trong chiêm bao, bởi tâm vô minh, phát hiện nhiều cảnh mộng, qua một giấc tỉnh lại (dụ minh tâm) biến mất cảnh mộng. Đó là nói theo phương diện tiêu cực gọi là giải thoát.
Nếu hay vận dụng từ vô minh ấy chuyển thành minh tâm, soi biết tất cả chân tính sự lý, phát huy trong chân tính những diệu dụng chân thật vốn đầy đủ, đem tất cả những phiền não kết thành thế giới ác trược, chuyển mà thành đất nước màu nhiệm trang nghiêm trong sạch, là đều bởi kết quả từ tâm vô minh biến thành minh tâm, đó là Phật pháp cải tạo triệt để, trong cải tạo tự nhiên.
Nếu có thể dùng tâm ấy để cải tạo con người thế giới, mới có thể cải tạo thiên tai trong thế giới tự nhiên.
Đó là lực lượng tự tâm bình đẳng người ta vốn có đủ. Ai ai cũng có thể đạt tới công đức chân thật mà không thiếu. Bởi thế kết quả lực lượng cải tạo là phép xuất thế trong Phật pháp.
Song giảng Phật pháp phải tùy thuận thế gian, cũng nói rõ từng thứ pháp nhân quần thế gian. Như nói bởi sức nghiệp mười thiện bậc trên thì được sinh lên cõi trời; sức nghiệp mười thiện bậc trung, được quả sinh nhân gian; sức nghiệp mười thiện bậc dưới, sinh quả A tu la, v.v. Trái lại là mười ác, bậc trên quả địa ngục, bậc giữa quả quỷ đói, bậc thấp quả súc sinh. Đó là trong Phật pháp tùy thuận thế gian nói rõ chỗ gây thành nhân quả thiện ác. Tuy bản chất Phật pháp là siêu thoát sáu đạo, nếu người chưa được trí tuệ tối cao, để chóng đoạn được vô minh, nhưng đối với nhân quả thiện ác, thừa nhận không nghi ngờ sẽ có thể dần dần cải tạo theo thiện, khiến cho quả thiện ngày thêm, việc ác ngày ít đi, ở khắp nhân gian không ngày nào ngơi nghỉ, thời đối với hành nghiệp người đời cải thiện, cũng rất hy vọng.
Chân như thân chứng và ứng hóa
Thân chứng chân như, là đặc điểm trong những đặc điểm của Phật pháp, cũng thực là cốt tủy của Phật pháp.
Thế nào gọi là chân như?
Nói cách khác “Thực là như thế” là trỏ vào việc cải tạo triệt để tâm vô minh nửa tối nửa sáng, biến thành tâm viên minh. Tức A nốc đa la Tam diểu Tam bồ đề. Tâm ấy vốn là tâm Phật, bởi tâm ấy thấy tới tất cả sự thực chân lý, gọi là chân như. Thực tướng chân như chỉ có Phật mới thực chứng được, cho nên Kinh Pháp Hoa dạy: Thực tướng của mọi pháp, chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo.
Nhưng nói rằng Phật là tất cả mười phương ba đời chư Phật.
Trình độ Phật với chúng sinh tuy không ngang nhau nhưng tính Phật thì bình đẳng.
Cho nên hiện tiền chúng sinh cũng đều là Phật sau này.
Lại thực tướng chân như, tuy chỉ có Phật mới cứu cánh, mà trình độ giác hữu tình, được tương đương, Bồ tát cũng có thể chứng tới phần nào, nhưng còn cần phải mọi người thân chứng. Tuy nghe Phật dạy và dựa vào kinh luận, lý giải nghĩa tướng chân như, nhưng chẳng qua như xem bức tranh vịnh Hạ Long hay Hương Sơn, nhưng chưa thực đến những nơi ấy.
Phật tuy nói chân như, thực chưa phải chân như. Cho nên phải thân chứng chân như ấy. Thân chứng chân như ấy phải dùng trí căn bản, vô phân biệt.
Như vốn không biết màu trắng thế nào phải lấy không phải màu trắng đối đãi nhau mới có thể rõ ràng. Bởi vì trí thức người thường, đều là phân biệt đối đãi. Nếu không có trí căn bản của Bồ tát thập địa, chỉ nhờ vào trong tâm đối đãi phân biệt của chúng sinh, rất khó thực chứng.
Như một số người tu thiền xưa nay hơi được nhẹ nhàng yên tâm, liền nhận lầm là chứng thực tướng chân như, quả là lầm to! Cảnh giới ấy là cảnh Phật trí, là cảnh giới Phật biết khắp hết mọi pháp. An trụ vào cảnh Phật, phải xa lánh mãi chúng sinh. Nhưng ở Phật, Bồ tát lúc chưa chứng chân như trở về trước, dùng sức nguyện đại bi, độ khắp cõi hữu tình, lại nguyện cho hữu tình, đều được yên vui cứu cánh (đến chốn tuyệt đối), bởi thế chứng chân như rồi, sẽ hiện mọi loại thân, mọi loại quốc độ, mà ứng cơ cảm nhiều thế giới, hóa độ chúng sinh, nghe pháp tu hành, mà lại thân chứng tới thực tướng chân như, rồi lại đem pháp đã chứng được, hưng khởi phương tiện vì chúng sinh nói cảnh mình đã chứng được, để cho chúng sinh đều tu chứng được cả, thế là Phật học được lưu truyền ở thế gian.
Lý luận siêu việt với phương tiện đặt ra
Phật học có lý luận rất tinh vi, sâu sắc và viên mãn. Kinh là Phật nói rõ chỗ chứng lý với phép tu chứng; luật là khuôn phép về mặt hành vi; luận thuộc về đệ tử Phật nghiên cứu kinh, luật tạo ra. Lý luận của các bộ luận, tinh vi, mật thiết phi thường, đó là một loại triết học rất cao vậy.
Lý luận tinh thâm ấy thực đủ hết trí lượng của người ta nghiên cứu mà không cùng tận. Nhưng, đặc chất của luận cũng không phải ở đấy, cho nên nói rằng siêu việt. Như Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, kết quả còn chưa nói một chữ.
Nhưng không phải Phật không nói mà nói không phải là không hết, nhưng vì nói đến đều không phải, chính là chân như thực tế. Nhưng từ cải tạo triệt để những tâm phiền não trong giới tự nhiên, lại đi sâu hơn, bởi đi sâu tới được chỗ kết quả thời là thân chứng được thực tướng chân như. Nếu chỉ y vào mặt lý luận nói rõ mà nhận ngay là chân như, thì về căn bản sai lầm rất lớn.
Lại nữa, lý luận thuyết minh, là gạt mở cảnh hư vọng, nhờ đó tỏ rõ cảnh thực chân như. Cho nên cũng gọi là khai thị (mở bảo), nhưng nhân vì lý luận mà kinh luật được rõ đường lối tu chứng, thế là nhờ ở giáo, rõ được lý, cho nên có nhiều thứ Phật học được đặt ra, để cung cho người đời nghiên cứu, để cho người học Phật có tiêu chuẩn xu hướng, nhân đó tiến chứng chân như. Vì vậy muốn đạt tới cảnh thực chân như, vẫn không ngoài lý luận.
Cho nên Phật, Bồ tát, sau khi thân chứng chân như, theo sức nguyện các Ngài đem chỗ sở đắc, nhờ phương tiện nói bàn, mà đặt ra mọi pháp, để độ mê cứu khổ.
LONG HOA TAM HỘI CHÍNH TRUYỆN
Phật pháp tới nơi cứu cánh chân thật thì chỉ có chư Phật thân chứng mới có thể biết được. Cho nên Kinh Pháp Hoa dạy: “Chỉ có Phật với Phật mới hay thấu hết thực tướng của các pháp”. Quyết không phải chúng ta nghĩ bàn phân biệt mà hiểu được. Lời nói văn tự cũng không đạt tới được. Chẳng qua tấm lòng từ bi của Phật muốn nhiếp hóa tất cả chúng sinh chứng vào đạo pháp mà chư Phật đã chứng, suy từ mình đến người khác, cho nên theo từng căn tính khác nhau, điều sở thích không giống nhau mà từ trong nghĩa đế thứ nhất, không thể nghĩ bàn được mà phương tiện đặt ra nhiều pháp nghìn sai muôn khác.
Phật pháp ở trong nước ta, hiện tại nói chung là hầu khắp, đối với Phật pháp có ai nhận thức qua đều biết câu Long Hoa tam hội (ba hội Long Hoa). Bình thường các chùa viện trong bài tán “Phật bảo” cũng có câu “Long Hoa tam hội nguyện tương phùng” (nguyện gặp nhau trong ba hội Long Hoa).
Hiện tại nói tới ý nghĩa đặt tên Long Hoa tam hội và làm thế nào tới được Long Hoa tam hội, sẽ nói rõ qua.
Ý nghĩa Long Hoa tam hội, phải nói rõ từ lý do quan hệ mà Đức Di Lặc sinh xuống cõi này.
Nhân vì Ngài Di Lặc sau này sẽ giáng sinh thành Phật ở dưới gốc cây Long Hoa cũng như đời hiện đại Phật Thích Ca Mâu Ni chứng quả dưới gốc cây Bồ Đề.
Cây được gọi là Long Hoa nghĩa là cành chạc cao lớn như rồng cuộn ở hư không và có khả năng nở hoa rực rỡ, kết trái to, nhiều.
Nói ba hội, thì cũng tương tự như Phật Thích Ca ba lần chuyển bánh xe pháp.
Chuyển pháp luân lần thứ nhất, người gặp nghe kinh pháp cảnh Đức Di Lặc, được Ngài thụ ký độ thoát, đó là Long Hoa hội đầu. Qua bao nhiêu thời kỳ, có bao nhiêu chúng sinh, lại những ai nghe Phật Di Lặc thuyết pháp, được siêu phàm, nhập thánh, đó là hội Long Hoa thứ hai. Đến một hội cuối cùng, thì đại chuyển pháp luân, gồm những cơ cảm mà được Đức Di Lặc tế độ thì đều lộ hết không sót, thế là ba hội Long Hoa.
Thực ra Phật Di Lặc sẽ sinh xuống nhân gian thuyết pháp đâu chỉ ba lần này? Chẳng qua trỏ vào hội lớn mà nói.
Hội lớn thứ nhất, độ thoát vô lượng chúng sinh cõi người, cõi trời. Cho đến hội thứ ba cũng độ thoát rất nhiều chúng sinh cõi người, cõi trời xong rồi. Từ trong ba hội này được nghe chính pháp y giáo tu hành, mà vô lượng vô biên chúng sinh được chứng quả. Đó là chứng quả Long Hoa.
Hiện tại trong Đại Tạng có hai bộ kinh Di Lặc Thượng Sinh và Di Lặc Hạ Sinh thuyết về Ngài Di Lặc trang nghiêm màu nhiệm, sáng sủa thế nào? Đất nước trong sạch và vui sướng, bằng phẳng thế nào? Tính tình chúng sinh hòa thiện thế nào? Tuổi thọ lâu dài thế nào? Đều nói rõ cả.
Cũng ở trong Kinh Di Lặc Hạ Sinh, đã nói rõ thời gian Ngài Di Lặc giáng sinh, cách đời hiện tại còn xa lắm mà hiện nay chúng ta thời thường nghe có nhiều người nói với nhau: Phật Di Lặc sắp giáng sinh rồi, kiếp sung sướng ở thế gian tới rồi, họ cần phải tín ngưỡng đạo gì, giáo gì không thì sẽ gặp khốn khổ. Thậm chí cũng nghe họ nói sắp đến “mạt kiếp”, các người mau đem tiền đến đạo này, đạo kia của tôi để mua một chỗ đề phòng họa xảy ra, không thì vị trí sẽ bán hết, ngồi nhìn nhau gặp kiếp thảm thương ư? Đó chỉ là chuyện bịa rêu rao, lừa dối lòng người, để chúng cầu lời. Rồi người không hiểu sách Phật nói phụ thêm. Vậy xin đừng ai tin vào.
Căn cứ vào sách Phật chứng minh, thời gian Đức Di Lặc sẽ giáng sinh nhân gian và thuyết pháp cách lúc này rất xa.
Trước khi Ngài Di Lặc thành Phật, cũng là Bồ tát. Ở trong Kinh Di Lặc Hạ Sinh dạy rằng ở trong thời đại Đức Phật Thích Ca thuyết pháp, có vị Bồ tát Di Lặc này đã từng được Phật Thích Ca thụ ký: “Ông Di Lặc chấp nhận tôi huyền ký sau này thành Phật, độ thoát nhân thiên”, đó là thời đại lịch sử Ngài Di Lặc làm Bồ tát.
Trong Kinh Di Lặc Thượng Sinh, Phật bảo ông Ưu Ba Ly rằng: “Người này sau mười hai năm nữa sẽ chết, ắt được vãng sinh lên cõi trời Đâu Suất”. Thế là từ thời gian Đức Thích Ca quá khứ không lâu, Bồ tát Di Lặc, từ cõi người mà sinh lên trời, thuyết pháp độ sinh. Cho nên hiện nay trong cung trời Đâu Suất có “Nội viện” là nơi Ngài Di Lặc ở.
Lại nói, tính theo số năm ở cõi Diêm phù đề là năm mươi sáu vạn năm, Ngài sẽ sinh xuống cõi Diêm phù đề, thế là Bồ tát Di Lặc sinh lên cõi trời cách nay hơn hai nghìn năm trăm năm về trước. Phải trải qua năm mươi sáu vạn năm của người đời, mới có thể sinh xuống nhân gian thành Phật dưới cây Bồ Đề Long Hoa, đánh trống pháp to, chuyển xe pháp lớn.
Thế thì biết rằng: Niên đại Ngài hạ sinh cách nay rất xa, chẳng những đã quay ngược thời gian quá khứ lâu xa như thế, ngay kể cả tương lai sẽ giáng sinh xuống địa cầu chúng ta hiện ở (trên cõi Diêm phù đề) trong thời gian cũng lâu dài như thế, vì một nghìn năm ở nhân gian, chỉ ngang với một ngày ở trên Đâu Suất. Như thế tính ra xong cả năm mươi sáu vạn năm của cõi Diêm phù đề, rồi Bồ tát Di Lặc mới vừa hết số thọ ở trên trời, sinh xuống nhân gian, thành đạo thuyết pháp.
Bởi thế khảo xét, ba hội Long Hoa, còn phải trải qua thời gian dằng dặc, thế thì câu chuyện mạt kiếp sắp đến, có thể đoán định là ham lợi bịa ra để mê hoặc quần chúng rồi.
Vậy làm thế nào đến được ba hội Long Hoa?
Trên đã nói rõ ý nghĩa thế nào là ba hội Long Hoa. Đến đây sẽ lại tiến một bước nghiên cứu cách gì có thể tới Long Hoa tam hội. Bởi trồng nguyện nhân gì mà đạt tới mục đích kết quả ba hội đây.
Dựa vào những thuyết ở Kinh Di Lặc Thượng Sinh và Di Lặc Hạ Sinh đã dạy:
Ngài Di Lặc là đệ tử của Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni được thụ ký cho thành Phật ở cõi này. Thế giới mà Ngài Di Lặc giáo hóa, cũng là thế giới Đức Phật Thích Ca giáo hóa. Cho nên người đời hiện tại phải nên dựa vào giáo pháp của Phật Bản Sư Thích Ca Mâu Ni mà tu hành cũng như chúng sinh sẽ tới thế giới sau này, cùng dựa vào Đức Bản Sư Di Lặc dạy bảo mà tu hành.
Phật Thích Ca từng đem những chúng sinh chưa độ hết đều phó chúc cho Phật Di Lặc khi giáng sinh. Vì vậy người thời hiện tại, hễ là người quan hệ sinh ở trong Phật pháp của Ngài Thích Ca đều đã phát sinh quan hệ với Ngài Di Lặc, ba hội Long Hoa sau này, đều được thụ ký thành Phật. Thế thì hiện tại các Phật tử, đều là người quan hệ sinh ở trong giáo pháp của Phật Thích Ca, tương lai sẽ đều được Phật Di Lặc chấp nhận. Không còn nghi ngờ gì là không tới hội Long Hoa mà chứng quả.
Chúng ta hôm nay cũng sẽ là chúng ta trong ba hội Long Hoa sau này. Hẳn có một ngày cùng tới Long Hoa tam hội, cũng là điều không nghi ngờ gì nữa.
Chỉ là Long Hoa có ba hội, phân phán thế nào cho phải đây? Giải đáp vấn đề này, chính là phát sinh quan hệ trong giáo pháp Đức Phật Thích Ca có sâu nông, lớn nhỏ, hơn kém mà xui nên.
Người quan hệ sâu, lớn mà tiến bộ hơn thì tới hội đầu, thứ thì tới hội thứ hai, người nông nhỏ mà kém thì tới hội thứ ba. Thế thì, ai cũng đều có khả năng tới ba hội Long Hoa mà người tinh tiến hơn tới trước, ai kém lười biếng thì lạc hậu, còn thời gian dài vắn, công quả lớn nhỏ, thời gian không thể không phân biệt.
Ai ở trong giáo pháp Đức Thích Ca, bởi khắc sâu hiểu biết mà khởi tâm tín ngưỡng, vững bền như Luận Đại Thừa Khởi Tín dạy rằng: “Khởi tâm chính Đại thừa, tu hành Đại thừa lục Ba la mật, thời được quả vị Đại thừa Bồ tát”.
Lục Ba la mật là lục độ. Tu lục độ, thì có thể đối trị lục tệ (sáu tệ).
Bố thí đối trị bủn xỉn keo kiệt, trì giới đối trị phá giới, nhẫn nhục đối trị tức giận, tinh tiến đối trị lười biếng, thiền định đối trị tán loạn, trí tuệ đối trị ngu si.
Không kể là nam, nữ, già, trẻ, giàu, nghèo, sang, hèn, nếu hay ở trong đạo pháp Đức Phật Thích Ca khởi tâm chính tín Đại thừa, tu hành lục độ Đại thừa, thời đời này từ trần hẳn được sinh lên nơi cõi trời Đâu Suất, thân cận Đức Như Lai Di Lặc y giáo tu hành, tương lai cũng theo Ngài Di Lặc hạ sinh, nghe pháp tu hành mà được chứng quả hội đầu.
Cho nên chúng ta có thể phát tâm Đại thừa, tu hành lục độ, chẳng những là tự cá nhân mình lìa khổ được vui, mà lại vì cứu khắp tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, mà cầu chứng quả A nốc đa la Tam diểu Tam bồ đề, thời tương lai hẳn tới hội Long Hoa, được quả đại thắng.
Lỡ ra vì sao hội đầu không chứng quả được thì cũng là đã ở trong giáo pháp Đức Phật Thích Ca, cũng có thể khởi lòng tín quyết định, quy y Tam bảo, tuy không phát tâm Đại thừa, tu hành lục độ, mà nhân quyết định tín ngưỡng, vui làm lành. Thiện nam, thiện nữ thì gìn giữ ba quy, năm giới, bởi ba quy mà đối nơi Phật dạy Tam bảo khởi tâm tín ngưỡng, mà thành đệ tử Tam bảo, bởi tuân giữ năm giới mà thành người có đạo đức trong nhân loại. Cho nên tuy không tới hội đầu Long Hoa thắng diệu, mà ở hội thứ hai cũng được nghe pháp tu hành, siêu phàm nhập thánh.
Tam quy là quy Phật, quy Pháp, quy Tăng. Ngũ giới nhà Phật và ngũ thường nhà Nho:
Không tàn sát - Nhân
Không trộm cắp - Nghĩa
Không tà dâm - Lễ
Không nói láo - Tín
Không uống rượu - Trí
Ví chỉ hội đầu, hội thứ hai, thời phả độ chúng sinh không rộng vì phạm vi hội đầu rất nhỏ, chỉ độ những căn cơ linh lợi. Hội thứ hai phạm vi hơi rộng nhưng không khắp. Cho nên độ khắp tất cả rộng và lớn, thì chỉ có hội thứ ba Long Hoa.
Phàm ai hơi có quan hệ với Phật pháp, như chợt khởi một thoáng tâm thiện, tâm hoan hỷ, hay giơ một tay cúi cái đầu, cho đến ai ở trong khi vô ý bỡn cợt sinh tâm quan hệ, như vào chùa, chiêm lễ tượng Phật, niệm Phật một câu, tụng nửa bài kệ, không kể họ là người thấy nghe Phật Pháp Tăng Tam bảo, thậm chí hoặc thấy Tam bảo sinh tâm bất tín, tâm bất nguyện, tâm khinh mạn, cũng bởi thế mà phát sinh quan hệ với Phật pháp, tin hay không tin, kính hay không kính, phàm ai ở trong Phật pháp của Đức Thích Ca mà sinh quan hệ, đều đã là người được Phật Thích Ca phó thác cho Ngài Di Lặc, tương lai đều có thể tới ba hội Long Hoa, thụ ký làm Phật.
Phần trên là trỏ vào người tại gia tin Phật mà nói. Nếu như người xuất gia thì không cần phải nói, vì đây là đệ tử Phật Thích Ca mà quay lưng vào Phật pháp, hủy báng Phật pháp, phá hoại Phật pháp, gây nhiều nghiệp ác, chỉ cần tương lai nghe được tên Phật Di Lặc, hoặc thấy ba hội thuyết pháp, tâm sinh một thoáng hoan hỷ, nghiệp tội về trước đều tiêu tan hết, mà được chứng hội giải thoát. Như thế ba hội Long Hoa, độ được vô lượng vô số chúng sinh. Cho nên hiện tại ở thế gian, có ai tô vẽ tượng Phật, lưu thông kinh sách, xuất gia làm tăng, biểu hiện công đức Tam bảo ở nhân gian đã tưởng đến người đời thấy tướng làm phúc, cùng phát sinh quan hệ với Phật pháp, như hạt giống cỏ, rơi xuống đất ắt nảy mầm. Hạt giống Phật pháp rơi vào trong ruộng bát thức, thì chính cũng nảy mầm sinh trưởng như thế.
Dựa vào sức nguyện đại bi của Phật Thích Ca, hễ ai sinh quan hệ ở trong Phật pháp đều là người đã phó chúc cho Đức Di Lặc, ba hội Long Hoa đều được độ thoát.
Kinh Pháp Hoa dạy: “Hoặc giơ một tay hay cúi đầu một chút. Nếu vào trong chùa tháp, đọc một câu Nam mô Phật, đều cùng thành Phật đạo” là như thế chăng?
Không những thế, trẻ con trong khi chơi đùa vô ý nghe thấy hình tượng Tam bảo, ấn tượng gieo vào ruộng tâm (bát thức), tương lai nhân duyên thành thục, hạt giống đều được nảy mầm sinh trưởng mà khai hoa kết quả. “Chỉ còn đến sớm hay muộn” mà thôi.
Đã nói rõ, cách nào đến hội đầu, như thế nào đến hội thứ hai, như thế nào đến hội thứ ba thời biết hiện đại chúng ta đều là người trong ba hội Long Hoa. Hiện tại nếu phát tâm Đại thừa tu hạnh lục độ, tương lai tức tới hội đầu. Ví không thể thực hành được lục độ, thì tu đạo đức tam quy, ngũ giới, thập thiện cũng được tới hội thứ hai siêu phàm, nhập thánh. Nếu mà hội đầu, hội thứ hai đều không tới, thời như người hiện tại vào chùa, thậm chí hoặc nghe một tiếng trống chiều, chuông sớm, ấn tượng in sâu ở ruộng phúc, gieo hạt giống xuống, kết nhân duyên rồi, tương lai đều được ở hội Long Hoa thứ ba chứng quả ngôi thánh.
Tuy người người đều được làm chúng tương lai trong ba hội Long Hoa mà ở trước khi Phật Di Lặc hạ sinh còn phải trải qua không gian và thời gian lâu dài.
Vậy đã có một phương tiện rất thiết cận đã nói ở Kinh Di Lặc Thượng Sinh là: “Nếu có ai được nghe tên đại Bồ tát Di Lặc, nghe rồi hoan hỷ lễ bái cung kính, người ấy hết tuổi thọ như khoảng gảy móng tay được vãng sinh ngay”.
Thế là đời hiện tại ở trong giáo pháp của Phật Thích Ca ghi tên Đức Bồ tát Di Lặc, biết Ngài thuyết pháp ở trong nội viện cung trời Đâu Suất, phát nguyện thân tâm quy y Ngài chấp nhận cho, thời đời nay lâm chung ắt được sinh lên nội viện, thấy Phật nghe pháp, đó là rất thiết cận mà hiện, thân được rõ phương pháp quy tức, đồng thời tương lai cũng được theo Phật Di Lặc xuống thụ ký cho thành Phật. Cho nên Kinh Di Lặc Thượng Sinh lại nói: “Những chúng sinh như thế nếu sạch mọi nghiệp, tu hành lục độ, quyết định sẽ được sinh lên cõi trời Đâu Suất không còn nghi ngờ gì nữa, gặp Ngài Di Lặc, cũng theo Ngài Di Lặc xuống Diêm phù đề, nghe pháp thứ nhất, được thụ ký Bồ đề ở nơi trước Phật”.
Vậy mong các vị hãy nhận thức mình là người trong ba hội Long Hoa, nên phát đại tâm, tu đại hạnh ở ngay trong giáo pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni, đời nay sinh lên nội viện ở cung trời Đâu Suất, tương lai tiến tới Long Hoa hội đầu.
MỪNG PHÂN VIỆN TRÒN MỘT NĂM
Chúc mừng Phân viện một năm qua
Nghiên cứu hoằng dương đạo Phật Đà
Hạch ngụy thanh trừng phần dị ngoại
Nghiên chân phát triển nghĩa tinh hoa
Nước hòa ngỗng chọn ăn phần sữa
Đuốc bẻ tàn đi sáng tỏ ra
Kiến tính minh tâm nhờ định tuệ
Há phần giới thể bỏ quên a?
KINH TÊN LÀ DIỆU PHÁP LIÊN HOA1
1 Giảng ngày 23 tháng 6 năm 1995 tại trường Giang Xá, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ.
Đủ nghĩa vi diệu mà thành giáo pháp, nhân pháp để rõ nghĩa vi diệu, màu nhiệm.
Bởi vì từ khi có kinh này, mà tất cả chúng sinh Đại, Tiểu thừa đều biết hướng về trí tuệ Như Lai Nhất thừa, thì biết lấy trí nhất thiết căn bản, trí hậu đắc, chứng pháp tính lý trí vô phân biệt.
Mà pháp tính này vốn là thực tướng, pháp giới chân như bình đẳng. Vì vậy tên kinh này xứng đáng là giáo pháp màu nhiệm vậy.
Câu trong kinh gọi là “mở tri kiến Phật”: Thực tướng bình đẳng, nhất chân pháp giới. Chúng sinh và Phật không hai, vốn có thể tướng màu nhiệm, tác dụng màu nhiệm nếu bởi chứng biết tâm không, pháp không, tùy thuận diệu trí vô thượng để chứng pháp tính vô thượng bất nhị thì có thể hiển hiện công đức vô biên đủ để thuận thành tính dụng không thể nghĩ bàn này.
Nhưng chúng sinh không ngộ thường mê đắm ở trong bể sinh tử phiền não, Phật mới dùng trí căn bản, trí hậu đắc đã chứng, tính dụng rộng lớn hướng vào trong bể tính phiền não của chúng sinh mà cả khai phát mở ra (khai Phật tri kiến).
Câu hiển “Thị tri kiến Phật” ở trong kinh có nghĩa là: Phật dùng Phật thừa đã chứng được lý Niết bàn giải thoát, bảo rõ cho tất cả chúng sinh biết cùng đủ ba đức, Niết bàn với Phật không hai vậy.
Câu trong kinh dạy: “Giác ngộ tri kiến Phật” là bảo rõ Phật đã thành tựu báo thân Bồ đề viên mãn, để chúng sinh biết nương vào đó mà tu tập được ngộ vào Phật trí vậy.
Câu trong kinh dạy: “Vào tri kiến Phật” là vì chúng sinh ở trong vô minh phiền não, không biết còn có quả màu nhiệm Phật thừa tuyệt đối, Phật mới mở bảo cho biết để nhận lấy mà xu hướng tiến hành dần được chứng nhập. Thế là nhân hành tu Nhất thừa, để vào tri kiến Phật vậy.
Trở lên đã nói hoặc lý hay trí, hoặc nhân hay quả đều gọi là diệu pháp màu nhiệm.
Lại “diệu” này là màu nhiệm tuyệt đối? Tại sao?
Bởi ở trong pháp ác trong ba đường, nếu nói về pháp nhân thiên thì là diệu pháp nhưng phúc quả dễ hết, bèn phải nói bốn đế, mười hai nhân duyên là pháp Nhị thừa nên so với pháp nhân thiên, thì lại là pháp diệu vậy.
Nhưng pháp hay của Nhị thừa, tuy có thể giải thoát được chốn khổ luân hồi ở tam giới, mà đối với nhất tâm pháp thân vốn đủ, đức dụng Bát nhã, thật chưa có thể thành tựu, thì pháp Nhị thừa vẫn chưa phải là cứu cánh, vì vậy duy nhất chỉ có Đại thừa, mới đủ là phép màu cứu cánh vậy.
Vì vậy chưa có hội Pháp Hoa về trước, Phật thuyết pháp gì cũng đều là diệu pháp, từ khi đã khai hội Pháp Hoa rồi, thời những pháp đã nói trước chẳng qua là nhân duyên phương tiện xu hướng vào bể Phật trí, duy nghĩa, kinh này có thể dùng một pháp giới thu vào mới xứng đáng là diệu pháp viên dung tuyệt đối vậy.
Kinh gọi là Liên Hoa là để nói rõ ví dụ. Bởi vì hoa sen khác với mọi thứ hoa, hoa sen trước chưa nở, thì đã có hạt, dụ với pháp tính chân như không vì sinh diệt mà khởi, Phật vốn đầy đủ tất cả trí đức vậy. Hoa sen khi nở đồng thời hiển hiện cả hạt. Dụ với pháp tướng chân như tùy thời cơ không lúc nào hiển thị mở lộ vậy. Cánh hoa sen đã rụng, hạt liền đầy đủ. Dụ với huyễn vọng đã tiêu, thực tướng chân như vốn sẵn tất cả trí công đức nhiệm màu và diệu quả Nhất thừa, đều viên mãn đầy đủ cả.
Trí đức chân như, chúng sinh và Phật không hai, chỉ về chúng sinh chấp trước vọng tưởng, không thể hiện lộ thụ dụng, Phật mới dùng khôn khéo dụ hóa chúng sinh, hoặc bỏ phiền não hay bỏ vô minh đều là vì thực bỏ quyền, rồi mới khai quyền hiển thực, vẫn khiến chúng sinh hiểu rõ mỗi một phương tiện đều là xu hướng về một Phật thừa vô thượng, mà Nhất thừa này là đầy đủ phương tiện vô thừa, một thừa tỏ hiện, thì mọi thừa phương tiện cũng hòa hợp cũng như cánh sen rụng mà hạt sen hiển hiện vậy.
Bởi có những nghĩa như thế nên mới gọi là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Ý NGHĨA CHÍNH CHƯ PHẬT AN LẬP TỊNH ĐỘ
Độ là cõi nước, nghĩa này khác với nghĩa nước nhà. Cõi nước ở đây chỉ vào thế giới mà nói. Thế giới căn cứ sách Phật mà nói: “Hư không vô biên, thế giới vô số”.
Tư tưởng Trung Quốc xưa nay, lấy phạm vi đất nước là trên trời dưới đất, ngoài ra không có thế giới cõi nước nào khác nữa, hơi khó được thông. Nhưng với thiên văn học hiện đại thì chính có thể thông được.
Căn cứ thiên văn học nghiên cứu được, trong thế giới Sao Hỏa có nhân dân, trong không gian cực hằng tinh thái dương đại hệ là thế giới cũng có thể có người ở, cho nên thế giới là không có hạn lượng.
Ở trong thế giới vô lượng số này phải là có khổ vui tịnh uế tốt xấu nhiều thứ sai biệt. Ở thế giới thanh tịnh tốt đẹp trang nghiêm kia, tức là Tịnh độ, bởi thế nói đến Tây phương Tịnh độ, về thiên văn học hiện đại rất dễ thừa nhận.
Thế giới Ta bà này là thế giới khổ, không phải là thế giới trang nghiêm yên vui tốt đẹp. Ở trong thế giới mọi khổ bức bách này, muốn cầu thoát khổ vãng sinh cõi vui, không tu tịnh nghiệp thì không được, nếu tu nghiệp nhân Tịnh độ có thể được quả vui cõi Tịnh.
Phật Thích Ca ở trong thế giới tịnh uế tốt xấu khổ vui khác nhau này đặc biệt nói ra thế giới thanh tịnh thắng diệu yên vui này.
Kinh Di Đà đã nói, từ đây qua mười vạn ức cõi Phật có thế giới gọi là Cực lạc.
Người bình thường ở thế giới Ta bà này còn có chỗ không thấy, không biết, nghe ở mười vạn cõi Phật, lại có thế giới hẳn cho là chuyện viển vông không căn cứ.
Nhưng lấy con mắt trí tuệ của Phật mà nhìn, thực có thế giới ấy như người ta hiện tiền thấy có bàn ghế.
Cho nên Đức Thế Tôn Thích Ca khuyên dạy chúng sinh cõi thế giới này, những nỗi tai nạn, bức bách, phát ra tâm niệm cầu sinh thế giới Cực lạc, cần tu nghiệp tịnh sinh sang Tịnh độ.
Từ trên nói rõ nghĩa rất nông về thuyết vãng sinh.
Y vào thiên văn học, về khoa học cũng y vào trong thù thắng nghĩa đế của Phật học, cõi Phật thanh tịnh cứu cánh là tất cả tướng, một pháp giới chân thật lìa tất cả phân biệt ngôn thuyết.
Một pháp giới thực này, ở khắp mọi nơi, ai ai cũng đủ nhưng không hiển hiện bởi bị phiền não làm chướng ngại, tuy khắp tất cả mà không hợp nhau, vẫn ở trong sinh tử như mộng như huyễn, lưu chuyển không thôi.
Nếu có khả năng phá được nghiệp báo, phiền não huyễn mộng này, một niệm giác ngộ, một thoáng hợp nhau ngay với Tịnh độ, thế là đi mà không đi đâu, sinh mà không nơi sinh đó là nghĩa vãng sinh vậy.
Nếu nói vãng sinh theo về thế tục đế, đi thì quyết định đi, sinh thì quyết định sinh. Bởi tu nhân tịnh nghiệp, đến khi mệnh chung quyết định lìa cõi Ta bà này vãng sinh thế giới Cực lạc phương Tây, hợp nghĩa vãng sinh thế tục đế, lại có thể nói “đi thì không đi đâu, sinh thì quyết định sinh”.
Bởi ai vãng sinh, xét ra lấy báo thể (báo thân của chúng sinh) nào đúng là năng vãng sinh. Nếu bảo ngoài xác thịt người có một linh hồn, là báo thể vãng sinh, thời cái thuyết linh hồn đã bị Phật học phá bỏ lâu rồi. Về Phật học dạy báo thể vãng sinh tức là thức A lại da.
Thức A lại da này khắp hết mọi phương sở sinh trong quốc độ này, là bởi cái nghiệp lực năng sinh đã chín muồi, mà báo thể quốc độ này thành tựu, như thể tịnh nghiệp thành thục được sinh Tịnh độ, là báo thể sinh Tịnh độ được thành tựu cho nên nói: “Đi thì không đi đâu, sinh thời quyết định sinh”.
Báo thân đã thành nhưng chưa chết, là báo thân ở thế giới này, nếu chết mà vãng sinh Cực lạc, là thành báo thân của thế giới Cực lạc, thời đi có nơi đi, nhưng không có năng sinh, sở sinh thực tại. Xét từ đâu mà sinh Ta bà, từ đâu mà sinh Cực lạc?
Nếu tự sinh khi chưa sinh tự thể còn không thì tự sinh sao được? Nếu là tha sinh trông mình nói người, mình đã không sinh, thì ai sinh được, nếu không nhân sinh, thì bằng vô sinh.
Trung Luận đã nói: “Mọi pháp không tự sinh, cũng không từ tha sinh, không chung mà cũng chẳng vô nhân sinh, vì vậy nói là vô sinh”. Cho nên nói được đi có nơi đi, mà sinh không nơi sinh. Trở lên bốn câu đều không thể chấp thiên lệch, nếu có thể lìa chấp thì có thể tùy cơ phương tiện đặt ra ngôn thuyết.
Phàm đã sinh ra thế giới Cực lạc phương Tây, đều có đủ ba mươi hai tướng tốt, tướng của các bậc đại Bồ tát.
Thế là đã sinh sang Cực lạc, tuy có Nhị thừa, phàm phu, v.v. khác nhau nhưng đều thẳng tiến vào Đại thừa thành Phật tất cả. Vì vậy thế giới Cực lạc phương Tây, thành tựu được là bởi từ thiện căn Đại thừa vô lậu. Bởi vì cõi thiện căn Đại thừa, không những không có thể tính Nhị thừa, căn khuyết (người què, mù, điếc, câm, ngọng), nữ nhân, mà những tên nữ nhân, căn khuyết và Nhị thừa, v.v. đều không, chỉ có tên bậc Bồ tát bất thoái.
Không những chỉ có cõi Tịnh của Phật A Di Đà mà chư Phật Bồ tát mười phương, đều có Tịnh độ. Nhưng xét đến chư Phật cớ gì lập ra cõi Tịnh? Đức Thích Ca xét hợp cơ nào mà thuyết pháp môn Tịnh độ? Đó là vấn đề người tu Tịnh độ phải mau giải đáp. Thì đây xin thuật:
Đời có người nhân ác báo hiện tiền, sợ hãi hoảng hốt mà cầu sinh cõi Tịnh. Có người nhân đói rét khốn khổ, sinh hoạt bức bách mà cầu sinh cõi Tịnh. Có người về những khổ già bệnh bức não, mà cầu sinh Tịnh độ, đều vì tâm lý lánh khổ tìm vui, làm động cơ vãng sinh Tịnh độ.
Xét ra bản ý chư Phật an lập ra Tịnh độ:
Phật Thích Ca thuyết ra pháp môn Tịnh độ, tuy có phụ cái ý để chúng sinh chán khổ ưa vui, nhưng không phải cái bản ý của Phật xây dựng tuyên truyền Tịnh độ, bản ý của Phật ở chỗ vì người chân chính phát tâm Đại thừa Bồ tát, mà an lập tuyên thuyết vậy. Tâm lý tránh khổ tìm vui của chúng sinh phàm phu chỉ ở sung sướng, không cầu đoạn tuyệt hẳn sinh tử, như chán lìa khổ ở ba đường ác, muốn giữ đời người không mất.
Chán lìa khổ não ở loài người, muốn cầu sinh lên trời; chán khổ cõi Dục cầu sinh lên cõi Sắc; chán khổ cõi Sắc cầu sinh lên cõi Vô sắc; chỉ cần dùng phép Nhân Thiên thừa trong Phật pháp thụ nhặt năm giới, mười thiện tám định.
Giữ năm giới có thể giữ được không mất thân người, tu mười thiện tám định được sinh đạo trời, cần gì chư Phật tạo ra Tịnh độ? Cần gì Đức Thích Ca thuyết ra pháp môn Tịnh độ này? Đến nỗi người Nhị thừa coi ba cõi như ngục tù, coi sinh tử như kẻ oán, cầu ra ba cõi, dứt hẳn sinh tử, chỉ cần hiểu biết những nghĩa ba cõi là khổ; chúng sinh bất tịnh, vô thường, vô ngã; dựa vào tứ niệm xứ, khởi tứ chính cần, phép tám đạo chính, v.v. ba mươi bảy phần Bồ đề, tinh tiến siêng tu ở trong một đời, tuy chẳng được ngay quả A la hán, có thể quyết định được quả Tu đà hoàn (Dự lưu).
Bởi được quả Dự lưu, thì vẫn không bị thoái chuyển để lại chịu những khổ phiền não sinh tử, cũng chẳng cần phải y vào pháp môn Tịnh độ, để cầu sinh về Tịnh độ, như Tiểu thừa Phật pháp ở những nước Tích Lan, Miến Điện chỉ chuyên cầu quả vô sinh thoát khỏi sinh tử, vì vậy những xứ Tích Lan, Miến Điện kia không có pháp môn Tịnh độ này vậy.
Bởi thế xét ra chư Phật sở dĩ an lập Tịnh độ, Đức Thích Ca sở dĩ thuyết ra Tịnh độ, không phải vì phàm phu Nhị thừa, mà vì chúng sinh có căn tính Đại thừa nghe được Phật pháp, không cầu phúc báo an vui đời sau, không mưu đồ mình khỏi sinh tử khổ não trong ba cõi, mà vì người phát tâm Đại thừa, phả độ tất cả chúng sinh, mà tuyên thuyết và lập ra vậy.
Người phát tâm Đại thừa, biết rõ đạo lý mọi pháp duyên định, bởi pháp là mọi duyên sở sinh, thì một pháp là tất cả pháp, chúng sinh là chúng duyên sinh ra, một chúng sinh là tất cả chúng sinh, lìa tất cả chúng sinh thì tuyệt không có ta, không cho tất cả chúng sinh đều cùng thành Phật, thì không có Phật thành, nhân thế phát đại nguyện phả độ tất cả chúng sinh đều thành Phật đạo, quyết không lìa tất cả chúng sinh mà mình tự bỏ cái lý liễu thoát sinh tử.
Bởi chúng sinh là mình, mình là chúng sinh, không có chúng sinh khác với ta. Thế là không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng thọ giả, không có lìa khởi chúng sinh ra mà độ thoát được mình vậy.
Bồ tát đã lấy ra tất cả chúng sinh là đồng thể không hai mà phát bi nguyện phả độ tất cả chúng sinh, nhưng muốn thành nguyện ấy một cách đầy đủ, không chứng được quả vô thượng chính đẳng chính giác thì không thể được. Nếu không, tuy có nguyện này, về sự thật quyết không có một ngày nào thành được.
Bởi phát tâm đại bi muốn độ hết chúng sinh khắp pháp giới hư không, muốn độ hết vô số chúng sinh ấy, phải đoạn vô tận phiền não, tu học vô lượng pháp môn, thành tựu quả Phật vô lượng phúc đức trí tuệ trang nghiêm, phải trải qua ba đại vô số kiếp, vào vô lượng thế giới, độ vô lượng chúng sinh, không phải một đời có thể làm được.
Luận Khởi Tín dạy thành tựu tín tâm vào tu chính định, phải trải qua mười nghìn đại kiếp tức một vạn đại kiếp, thành tựu lòng tin Đại thừa còn khó như thế huống quả Phật ư?
Một đời đã không thể thành Phật được, mà đã phát tâm Đại thừa thì phải tu lục độ, khi tu lục độ có lúc bị nhiều duyên phá hoại thoái đọa tâm Đại thừa, có cái nguy hiểm hoại mất tâm Đại thừa, mà mệnh người vắn chóng, vô thường đến sớm chiều, hoặc lên chốn vui, hoặc chìm xuống chốn khổ, lại có cái nguy hiểm mê mất tâm Đại thừa, tâm Bồ đề.
Nhân có mọi thứ duyên ác như thế, Bồ tát tuy đã phát tâm Đại thừa, mà muốn giữ được bất thoái thật không phải việc dễ. Chư Phật có trách nhiệm hộ niệm Bồ tát; Kinh Kim Cương dạy: “Như Lai khéo hộ niệm các Bồ tát”, đối với Bồ tát đã phát tâm Bồ đề mà chưa có thể bất thoái này thì lấy phép từ bi nào mà hộ niệm, để cho Bồ tát đã phát tâm Đại thừa không đến nỗi có nguy hiểm thoái đọa hoại mất?
Nhân đó chư Phật vì muốn hộ niệm Bồ tát đã phát tâm Đại thừa như thế mà chưa vững vàng bất thoái, liền an lập ra quốc độ thanh tịnh trang nghiêm.
Bồ tát đối với cõi nào có duyên, phát nguyện vãng sinh cõi nào, v.v. tùy nơi phát nguyện, khởi lòng tin quyết định một lòng chuyên chú, thì tới khi mệnh chung, tùy nơi quốc độ Ngài nguyện mà vãng sinh, nghe pháp không thoái chuyển rồi lại về độ khắp tất cả chúng sinh.
Nếu không có Tịnh độ chư Phật an lập ra, làm nơi y quy cho Bồ tát đã phát tâm Đại thừa, lỡ thoát lúc nào, thì bao nhiêu công đức tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ bị phí mất vô ích. Vì vậy Bồ tát phải lấy Tịnh độ làm nơi nghỉ ngơi, mới không đến nỗi thoái mất tâm Đại thừa, tâm Bồ đề, mà phí mất công đức trước của các Ngài vậy.
Đó là nghĩa chính Đức Phật A Di Đà và chư Phật mười phương thành lập ra Tịnh độ, cũng là đúng nghĩa Phật Thích Ca thuyết ra pháp môn Tịnh độ.
Người tu học pháp môn Tịnh độ phải nên chú ý hiểu rõ sâu sắc nghĩa này.
KHAI GIẢNG ĐỀ KINH BẢN NGUYỆN CỦA BỒ TÁT ĐỊA TẠNG1
1 Thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Xá, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ, ngày 28 tháng 6 năm 1985.
Kinh này cộng có ba quyển thượng, trung, hạ gồm mười phẩm.
Phẩm thứ nhất Cung Trời Đao Lợi, cho đến phẩm thứ mười ba Chúc Lũy (phó chúc).
Hôm nay khai giảng một thời gian ngắn, chỉ xin giải thích vắn tắt ý chính mỗi phẩm trong cả bộ. Bây giờ, trước hết hãy đem đầu đề kinh này giảng rõ một lượt.
Thấy ở phẩm thứ sáu, Bồ tát Phả Quảng hỏi Phật (Thích Ca): “Nên gọi là kinh gì? Chúng con sẽ truyền bá thế nào?”, Phật dạy:
Kinh này có ba tên:
1/ Bản nguyện của Ngài Địa Tạng.
2/ Bản hạnh của Ngài Địa Tạng.
3/ Bản thệ “Lời thề của Bồ tát Địa Tạng”.
Ba tên này đều là từ chỗ nhân địa tu trì, hạnh nguyện của Bồ tát mà lập nên. Gọi là bản hạnh là theo ý nguyện đem lại. Rồi nhân ý nguyện mà có lời thề, thề ước mình đối với mình quyết định đem cái sự tình ấy thực hành.
Vì vậy lời thề là tự nguyện mà ra, đem các loài hữu tình bị khổ ở địa ngục, ngã quỷ, súc sinh mà tế độ hết, bởi tâm thương xót rộng lớn tất yếu làm như thế. Bản nguyện, bản hạnh được thành quả, là từ công dụng bản thệ lời thề, từ nhân đến kết quả cũng chính bao hàm trong bản nguyện.
Địa Tạng là danh hiệu đạo đức của Bồ tát, thương xót chúng sinh chịu khổ nơi địa ngục, phân thân ra thế giới mười phương nói lên: “Ta không vào địa ngục thì ai vào?” Bởi lòng thương ý nguyện ở địa ngục độ chúng sinh, gọi là Địa Tạng. Rồi nhân sức bi nguyện lớn hơn, rất rộng cũng như quả đất. Quả đất là chỗ dựa của tất cả, lại còn có khả năng hàm tàng gánh vác tất cả vạn vật, mà lòng thương ý nguyện của vị Bồ tát này cũng thế, làm chỗ cho tất cả chúng sinh nương nhờ, gánh vác sự nghiệp chư Phật mười phương.
Gọi là Địa Tạng có nghĩa hàm tàng hoài bão nỗi thương ý nguyện ở trong tâm địa, đem công đức sự nghiệp của chư Phật và nỗi khổ của chúng sinh mà gánh vác lấy làm trách nhiệm của mình. Lại thế này nữa, “đất” có khả năng nảy nở tất cả các pháp. Bồ tát thuyết pháp lợi sinh nảy ra vô lượng pháp môn phương tiện.
Tên Bồ tát Địa Tạng không phải chỉ thấy ở kinh này, ở kinh khác cũng thường có nói. Với bản nguyện của Ngài chỉ có kinh này nói được, cả việc làm và kết quả tế độ chúng sinh của Bồ tát rất là tỉ mỉ.
Bồ tát là tên phổ thông như các Ngài Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Di Lặc, Bồ tát Quán Âm. Tiếng Thiên Trúc là “Bồ đề tát đỏa”, nước ta gọi là “giác ngộ cho các loài có tình cảm”.
“Bồ đề” là trên cầu quả Phật, “tát đỏa” là dưới giáo hóa các loài có tình cảm. Bồ tát đã lập xong ý nguyện đại từ đại bi trên cầu quả Phật, dưới giáo hóa chúng sinh thì gọi là Bồ tát, cũng phải có kết quả mới học hay đã tu lậu. Khác nhau như chúng ta mới phát một thứ tâm lợi mình lợi người cũng là Bồ tát. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Mình chưa được độ, đã độ người khác là phát tâm Bồ tát”. Mười ngôi trụ, mười ngôi tu hành, mười ngôi hồi hướng, mười bậc thập địa, bốn mươi ngôi, gọi là Bồ tát tu lâu. Nếu làm lợi ích mãi mãi về sau này nữa, thì cái quả Bồ tát về sau bằng với các Ngài Văn Thù, Quán Âm. Bởi vì trình độ mới học và tu lâu khác nhau xa lắm, ví cũng như mới vào trường tiểu học với đại học đều gọi là học sinh.
Đại ý nói: Không phát tâm rộng lớn độ mình độ đến người, thì không được gọi là Bồ tát, phát tâm được từ sơ học đến ngôi đẳng giác đều gọi là Bồ tát hiện tại, Bồ tát Địa Tạng là trình độ rất cao.
Giảng chữ Địa Tạng, chữ Bồ tát rồi, bây giờ giảng đến chữ bản nguyện thì có nguyện mong, nguyện muốn thì có kết quả thực hành và tạo tác, có chí thì nên, nhẫn điều khó nhẫn. Vì vậy sức nguyện là cỗi gốc tất cả mọi đạo hạnh, cũng là dòng suối tu thành quả Phật.
Phổ thông thì chư Phật, Bồ tát đều có bốn thệ nguyện rộng lớn:
Chúng sinh rất nhiều thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.