Dầu thánh để trở thành thiếu nữ
1
Một điều thần diệu mới đến với Dải Vân Sam. Bà long trọng tuyên bố là Marigold có thể chơi với Sidney Guest. Tất nhiên bà sẽ không gọi cậu ta là Budge như tất cả những người khác. Mẹ cậu ta là một người nhà Randolph đến từ Charlottetown, nên cậu ta thuộc loại có thể chấp nhận được để trở thành bạn chơi cùng một người nhà Lesley ở Harmony. Ngài Guest đã mua trang trại của ngài Donkin và vì vậy Budge sống ngay bên cạnh Dải Vân Sam.
Cậu ta là một cậu bé có “cách cư xử tốt” theo lời của bà. Khá cao và gầy trơ xương theo đánh giá sơ bộ, nhưng có mái tóc màu cát và đôi mắt sáng màu xám. Điều duy nhất mà bà thực sự lo ngại đó là hai đứa sẽ tự đầu độc mình trong những chuyến lang thang khám phá của chúng. Điều lo ngại đó cũng không phải là không có cơ sở. Bởi vì, mặc dù đã được cảnh báo các kiểu, chúng vẫn ăn hoặc thử ăn gần như tất cả những thứ gì tìm thấy.
Marigold chưa bao giờ có một người bạn chơi cùng thực sự ở Harmony, trừ ba tuần đầy sôi nổi với Gwen. Cô bé dường như không quan tâm đến những cô bạn gái ở Harmony, và mặc dù cô bé có viết những lá thư tán chuyện rất dài cho Gwen, Paula và Bernice, cô bé lại không được gặp gỡ họ thường xuyên cho lắm. Có lẽ Sylvia khiến cô bé không thân thiết được với những cô bạn gái khác, như mẹ đôi khi lo lắng. Mẹ luôn bảo vệ Sylvia một cách đầy nhiệt tình mỗi khi bà “cố tình” không hiểu. Nhưng đôi khi mẹ cũng phân vân không rõ mình làm vậy có khôn ngoan không. Sẽ là không ổn nếu sự quyến rũ thầm lặng của một người bạn tưởng tượng khiến Marigold đánh mất những người bạn đồng hành cần thiết và giá trị trong cuộc sống thực sự của cô bé. Marigold đã mười hai tuổi. Mái tóc vàng của cô bé đã sẫm thành một màu nâu ấm và cô bé cuối cùng cũng phát âm đúng từ “thú vị”. Chắc chắn đã đến lúc để cô bé quên Sylvia đi.
Vậy nên Lorraine Lesley rất mừng khi, ngay từ đầu kỳ nghỉ, nhà Guests đã mua lại khu đất của nhà Donkin, còn Marigold và Budge thì ngay lập tức mến nhau. Marigold rất ngạc nhiên và vui vẻ khi thấy bản thân mình thực sự mến một cậu bé. Cô bé chưa bao giờ mến một cậu bé nào ở trường học. Cô bé đã mến Billy nhưng đã quên cậu ấy rồi. Cô bé ghét anh họ Jack nhà chú Marcus. Về Hip Price, cậu ta khiến cô bé ghét tất cả lũ con trai trên đời trong một thời gian. Nhưng Budge thì khác biệt so với bất cứ cậu con trai nào cô bé từng biết.
Trong hàng tuần, cuộc đời của Marigold trở thành một loạt những trải nghiệm thú vị tột bậc. Cô bé làm những việc để chiếm cảm tình của Budge mà chính cô bé chưa bao giờ nghĩ mình sẽ làm. Chúng đi câu cá hồi ở suối và Marigold quả thật là chuyên gia về giun - điều mà Budge nghĩ thầm trong bụng - nhưng không nói ra - và cô bé giỏi như là một cậu bé vậy. Chúng lội nước ở dưới chân cầu. Chúng trèo lên cửa thông gió trên nóc nhà kho lớn của nhà Guest. Chúng chơi trò cướp biển trên một cái thuyền cũ màu xanh lá - con thuyền Daisy Dean - buộc ngoài bến cảng, với một cái cờ làm từ chiếc váy lụa đen cũ của Salome được trang trí bởi hình đầu lâu và xương bắt chéo. Trên con thuyền đó, chúng thực hiện những chuyến đi thú vị để tìm vàng và thám hiểm. Chúng có mật mã và dấu hiệu bí mật. Chúng thiết kế một cái bếp bằng đá rồi nấu con trai và khoai tây trên đó.
Cùng với Budge, Marigold có thể khám phá tất cả những vùng đất thần tiên xinh đẹp nơi bến cảng, những nơi mà cô bé không dám đi một mình. Chúng thậm chí còn đi đến tận cùng thế giới đầy sương mù và ảo ảnh ở cửa bến cảng, nơi những đụn cát có màu tử đinh hương và màu bạc trải dài thành những đồng muối khô cùng những cơn gió biển vi vu thật đáng yêu, một vẻ đẹp ngọt ngào và hoang dại. Không ai được biết bí mật đó cả, hay sự thực rằng chúng đã gặp thủy triều và phải trèo lên bờ và đi về nhà qua những cánh đồng ngập nước. Đó là một bí mật chiến thắng đầy tội lỗi. Một bí mật khác nữa là đống lửa được đốt lên bởi gỗ trôi dạt chúng nhóm trên bờ biển vào lúc hoàng hôn. Hai đứa đều từng được bảo không được chơi với lửa, những điều đó không làm hỏng sự thích thú của chúng một chút xíu nào. Thậm chí còn làm tăng điều đó lên, e là như vậy. Điều bí mật bị cấm đoán có sức hấp dẫn riêng của nó. Và một ngày nào đó chúng ở lì trong đầm ếch - nơi một con rồng xịn cũng trú ngụ và một con gấu xám Bắc Mỹ nhõng nhẽo nữa.
Marigold sợ ếch khủng khiếp nhưng cô bé chưa bao giờ để Budge biết, và cô bé tự ép mình khều một con rắn chết bằng một cái que - để chiếm được lòng ngưỡng mộ của cậu. Cô bé cũng khiến bản thân nói từ “khỉ gió”, nhưng cố mấy cũng không nói được từ “chết tiệt”, nhưng mà như thế cũng tốt. Bởi vì trong trái tim cậu Budge không quan tâm đến những cô gái nói từ “chết tiệt”.
Cô bé không thể học được cách thổi kèn lá như cậu. Nhưng cô có thể làm một điều mà cậu không thể - làm những cái túi đựng bánh pudding dễ thương nhất quả đất từ những cái lá thường xanh. Budge thử làm đi làm lại nhưng lực ngón tay của cậu mạnh quá. Vậy là sự cân bằng của lòng tôn trọng đã được giữ vững. Và khi Budge ngồi trúng một cánh cửa lò nướng nóng hổi một ngày kia, Marigold không bao giờ hỏi vết bỏng của cậu thế nào rồi. Bởi sự tinh tế đó, tình bạn được gìn giữ.
Budge xoa lưng cô mèo của Marigold, Pops, còn Marigold thì quý con chó của cậu, Dix. Nhưng về Sylvia thì cô bé chưa kể được với cậu. Làm thế nào đấy mà Budge đã biết Marigold có một bí mật liên quan đến đồi vân sam, và đôi khi trêu chọc cô bé về chuyện đó một chút để cô bé nói cho cậu biết. Nhưng Marigold luôn từ chối. Chưa được… chưa được. Cô bé chưa bao giờ, mặc dù đôi khi cũng bị thôi thúc, kể cho bất cứ người bạn cùng chơi nào về Sylvia - kể cả Bernice. Sylvia chỉ thuộc về mình cô bé. Mặc dù, Marigold đôi khi thở dài khi nghĩ về sự sở hữu đó - Sylvia không giống bất cứ thứ gì khác. Không sống - không thực. Sự thay đổi diễn ra chầm chậm nên Marigold chưa kịp nhận ra rằng tình bạn tuyệt vời với Budge đã thay đổi tình bạn tưởng tượng thuộc về những năm tháng cô đơn của cô bé. Cô bé vẫn cố giữ lấy Sylvia, nhớ lại những gì thím Marigold đã nói vào một buổi chiều khi họ đang ngồi ngoài vườn quả.
“Hãy giữ giấc mơ của cháu, Marigold bé nhỏ, càng lâu càng tốt. Giấc mơ là một thứ bất tử. Thời gian không thể giết chết nó hay làm nó già cỗi. Cháu có thể mệt mỏi vì thực tại chứ không bao giờ vì những giấc mơ.”
“Nhưng khi tỉnh lại thì cháu lại rất buồn bã.” Marigold ngượng ngùng nói. “Khi cháu quay về nhà qua cổng Xanh, cháu luôn cảm thấy thật khủng khiếp khi nghĩ rằng chẳng còn Sylvia nữa - rằng bạn ấy chỉ ở trong giấc mơ của cháu.”
“Niềm vui của kẻ mộng mơ xứng đáng với những nỗi buồn đi kèm theo sau nó.” Thím Marigold nói, biết rằng từ khi Marigold bắt đầu nghĩ về Sylvia là một giấc mơ thì ngày tỉnh giấc đáng buồn đã tới gần.
Vậy là, hầu như mỗi ngày, đôi khi, Marigold lướt qua cánh cửa Thần kỳ và cổng Xanh để triệu hồi Sylvia. Sylvia luôn tới - vẫn vậy. Nhưng có một sự khác biệt.
Marigold sẽ kể cho Budge nghe về Sylvia nếu cô bé có thể chắc chắn cậu sẽ phản ứng như thế nào. Marigold biết có một phần trong tính cách cậu cho thấy cậu sẽ có thể hiểu chuyện về Sylvia. Thỉnh thoảng, Budge hé lộ phần tính cách này của cậu cho cô. Khi hai người bạn đã mệt với mấy trò lang thang hay đi làm cướp biển, và ngồi xuống quan sát những cánh buồm mờ sương của những con thuyền ra đi trong ánh hoàng hôn, Budge sẽ bẽn lẽn đọc những trích đoạn thơ ngắn mà cậu tự sáng tạo ra. Marigold nghĩ rằng chúng thật tuyệt vời. Budge cũng hiểu được niềm vui thú bí mật ấy, giống như khi bạn mở ra một cuốn sách mới. Và cậu cũng là một tay kể chuyện cừ khôi. Cô bé thích câu chuyện về cậu bé mặc bộ đồ đỏ của cậu hơn cả câu chuyện tưởng tượng về cô gái mặc bộ đồ hồng và xanh dương của cô. Con sói ở tấm thảm da sói trên sàn phòng khách nhà Guest trở nên sống động và đi lang thang mỗi đêm với đôi mắt đỏ cháy. Marigold không thể ngủ được vì nỗi sợ hãi đầy thỏa mãn đó. Liệu hiện giờ có phải nó đang băng qua con đường - hít ngửi trong khu vườn - dò dẫm bước lên từng bậc thang? Marigold hét to lên và mẹ chạy vào nói rằng chỉ là cơn ác mộng mà thôi.
2
Không lâu sau đó, nhà Austin mua mảnh đất của nhà Burnaby và chuyển tới. Tad Austin là một cậu bé tầm tuổi Budge. Và Marigold thấy mình bị ra rìa.
Đây là một câu chuyện cổ và thường được kể đi kể lại1.
1. Tên tựa sách của Isabel Goldsmid, ‘Tis an old tale and often told.
Cha mẹ của Tad Austin, vì một số lý do bí hiểm nào đó, đã đặt tên thánh cho cậu ta là Romney, nhưng cậu ta thường được gọi là Tad. Cậu ta cũng không phải là không ưa nhìn, với khuôn mặt nâu tròn trịa, mặc dù Marigold, người tự nhiên chẳng nhìn ra nét gì hấp dẫn ở cậu, nghĩ rằng đôi mắt xanh tròn xoe của cậu ta nhìn như những trái mận còn xanh trên cái cây gần kho táo.
Thế giới đột nhiên trở thành một nơi lạnh lẽo, cô đơn, trống rỗng dành cho Marigold tội nghiệp của chúng ta. Từ xưa đến nay cô bé luôn mang những rắc rối của mình kể cho mẹ. Nhưng lần này cô bé không thể làm vậy được - không thể. Kể cả mẹ cũng sẽ không thể hiểu. Chắc chắn là bà thì không rồi. Bà, người đi qua và nhìn thấy Marigold ngồi thẫn thờ ở bậc thềm vào buổi hoàng hôn, đã pha trò:
“Đừng thở dài mà hãy nói ra. Và nếu không đến cậu ta đáng bị treo lên.”2
2. Một kiểu thơ cổ
Nói ra, thật tình. Marigold thà chết còn hơn là động một ngón tay để khiến Budge quay lại. Hãy cứ để lũ mèo ăn thịt cậu ta đi. Cô bé có niềm thỏa mãn tột đỉnh khi tưởng tượng hình ảnh mình sẽ kiêu kỳ và không khoan nhượng thế nào khi cậu quả thật có quay lại. Ít nhất lúc mới đầu cô bé đã có lối suy nghĩ như vậy.
“Có lẽ cậu ta sẽ hối hận nếu mình chết đi.” Marigold suy nghĩ đen tối. Nhưng cô sẽ thể hiện cho Budge thấy - cho mọi người thấy - là cô bé không cần. Cô bé đi làm kẹo và hát lên như một chú chim.
Nhưng chẳng có ai để chia sẻ kẹo sau khi chúng được làm ra. Cô bé đưa cho Lazzare gần hết để chú mang về cho con chú.
Cuộc sống thật hoang vu ảm đạm vào những tuần sau đó. Dường như Budge và Tad cố tình phô trương sự thân thiết và vui vẻ trước mặt cô bé - mặc dù sự thực đau khổ hơn là chúng thậm chí chẳng thèm nghĩ gì tới cô bé. Chúng tổ chức một buổi biểu diễn và tất cả lũ con trai ở Harmony đều được tới xem nếu trả một xu, nhưng con gái thì không. Ôi, thật là xấu xa!
Budge và Tad đi câu cá ở bờ suối. Budge và Tad đi đào vàng. Budge và Tad có một cuộc dạo chơi ở cái hang mà Marigold đã phát hiện ra ở bờ cảng. Budge và Tad đi săn mèo con trong khu nhà kho của nhà Guest, nơi mà Marigold và Budge đã lên kế hoạch đầy đủ dành cho thời gian khi có mèo con để săn.
Đây là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly tự trọng của Marigold. Cô bé muốn đi săn mèo con cùng với Budge ở khu nhà kho cũ đầy mùi cỏ khô làm sao!
Cô bé phải chiếm lại Budge. Bắt buộc. Cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì khi không có cậu ấy. Nhưng làm thế nào? Cô bé có thể làm gì? Marigold biết cô bé không được tỏ ra lộ liễu quá. Bản năng nói với cô bé điều đó. Bên cạnh đó, cô bé có một ký ức mang máng về điều mà cụ bà đã nói từ rất lâu rồi.
“Nếu con theo đuổi một người đàn ông thì anh ta sẽ chạy mất. Đó là bản năng. Chúng ta phải chạy khi có gì đó đuổi theo.”
Vậy là cô, Marigold sẽ không chạy theo Budge. Vậy thì còn cách gì khác?
“Mình phân vân không biết nếu cầu nguyện về chuyện đó thì có ích gì không?” Cô bé nghĩ. Rồi cô bé quyết định mình sẽ không làm vậy.
“Mình không muốn cậu ấy trở lại vì Chúa bắt cậu ấy làm vậy. Mình muốn cậu ấy trở lại vì bản thân cậu ấy muốn.” Giống như một nguồn cảm hứng, ý nghĩ về Sylvia xuất hiện. Cô bé sẽ kể với cậu về Sylvia. Cậu ấy luôn muốn biết về Sylvia. Và cậu ấy có thể sẽ quay trở lại.
Thật là một sự tình cờ may mắn khi Salome nhờ cô bé sang nhà Guest để giúp một việc vặt vào chiều hôm đó. Budge đang ngồi trên bậc thềm cửa để cho giun vào hộp thiếc. Cậu bé cười với cô một cách vui vẻ nhưng lơ đãng. Budge chưa bao giờ nghĩ đến việc mình đã cư xử với Marigold một cách đáng xấu hổ. Cô bé chỉ đơn giản là - tạm thời trong một thời gian - không còn quan trọng.
“Mình có một việc cần nói với cậu.” Marigold thì thầm. “Là gì vậy?” Budge lãnh đạm.
Marigold ngồi xuống bên cạnh cậu bạn và cuối cùng đã kể với cậu về Sylvia. Về cánh cửa Thần kỳ và cổng Xanh, và Vùng đất Bươm bướm cùng với Lời Chú. Cô bé có một cảm giác buồn bã lạ lùng của sự mất mát và thiếu trung thành khi kể về những thứ đó. Như thể cô bé đang mất đi thứ gì đó rất quý giá.
Và cô bé nhận được phần thưởng như sau.
“Trời, nghe thật ngốc nghếch khủng khiếp.” Budge nói.
Marigold đi thẳng không nói một lời. Cô bé sẽ không bao giờ nói chuyện với Budge Guest nữa. Cô bé sẽ không bao giờ liên quan đến bất cứ một thằng con trai nào nữa. Cùng một giuộc cả, Lazzare thường nói như vậy. Cô bé sẽ quay trở lại với Sylvia thân thương, Sylvia bị bỏ rơi. Đi qua cánh cửa Thần kỳ - trên con dốc đầy dương xỉ - qua cổng Xanh. Sau đó là Lời Chú.
Và chẳng có Sylvia!
Marigold nhìn vô vọng ra xung quanh, đôi môi run rẩy. Không có Sylvia. Sylvia sẽ không tới. Sẽ không bao giờ tới nữa. Marigold cảm nhận điều này như chúng ta cảm nhận điều gì đó không thể thay đổi được. Liệu có phải là do cô bé đã kể với Budge về Sylvia? Hay bởi vì cô bé đã trở nên quá lớn tuổi và khôn ngoan để phù hợp với những vùng đất thần tiên. Liệu những “cánh cổng ngà và vàng” mà mẹ hay hát về đã đóng lại phía sau cô bé mãi mãi? Marigold gục xuống đám dương xỉ vì khóc như chưa bao giờ được khóc, và có lẽ sẽ không bao giờ cô bé khóc như thế nữa. Giấc mơ quý giá của cô bé đã đi mất. Chúng ta ai mà chẳng ít nhất một lần mất đi những giấc mơ như thế?
3
Ngày hôm sau là ngày mà Budge quay trở lại, một cậu Budge đang phẫn nộ, mong muốn vô cùng được thổ lộ nỗi lòng mình với một ai đó. Và “một ai đó” chính là Marigold, kẻ bị khinh thị và đang rất muốn tỏ ra khinh thị trở lại, kẻ đã thề vào buổi đêm hôm trước rằng nếu Budge Guest mà nói chuyện với cô bé lần nữa, cô bé sẽ đối xử với cậu ta như rác rưởi tới nỗi nếu cậu ta có chui xuống đất cũng vẫn cảm thấy xấu hổ.
Budge và Tad đã cãi nhau bởi vì những con chó của hai thằng bé đánh nhau.
“Con chó của tớ thắng.” Budge gào lên. “Và Tad phát điên. Cậu ta nói rằng Dix là một con chó lai chết dẫm.”
“Cậu ta ghen tị đấy.” Marigold an ủi. “Và cậu ta rất xấu tính. Tớ được nghe như vậy lâu rồi từ một bạn gái biết cậu ta rất rõ.”
“Tớ thách cậu ta đánh nhau với tớ, và… rồi cậu ta nói cậu ta không đánh nhau với tớ bởi vì tớ mít ướt như con gái.” “Cậu ta không đánh nhau với cậu bởi vì cậu ta cũng sẽ thua như con chó của cậu ta thôi.” Marigold nói, ôi, thật là chua ngoa. Nhưng tất cả chua ngoa là dành cho Tad.
“Cậu ta không đánh nhau, nhưng cứ tiếp tục nói những lời xấu xa. Cậu ta nói tớ đội mũ trùm đầu đi ngủ.
Ồ, tớ có đội một lần, lâu lắm rồi, hồi tớ còn bé nhưng…”
“Ai cũng đội mũ trùm đầu khi còn nhỏ.”
Marigold nói. “Và cậu ta nói tớ là kẻ hèn nhát vì không dám đi qua những ngôi mộ vào buổi tối.”
“Hãy đi ngay tối nay để cho cậu ta thấy.” Marigold hứng khởi.
“Không phải tối nay.” Budge vội vã nói. “Có nhiều sương xuống lắm. Cậu sẽ bị ướt đấy.”
Hạnh phúc lướt qua Marigold như những con sóng. Budge đang nghĩ cho cô. Ít nhất, cô bé tin là như vậy.
“Cậu ta nói ông cậu ta có ria còn ông tớ thì không. Thế ông thì bắt buộc phải có ria à?”
“Thực ra không có ria còn quý tộc hơn.” Marigold kết luận.
“Và cậu ta nói tớ không có hình xăm và sẽ không chịu được xăm mình. Cậu ta lúc nào cũng vênh mặt lên vì cái con rắn mà người chú làm thủy thủ của cậu ta xăm lên tay cậu ta.”
“Có hình xăm thì sao?” Marigold tò mò muốn biết. Cô bé nhớ lại những lời bà nói về hình xăm rắn. “Đó là thứ hình thù man rợ. Cậu không nói lại gì với cậu ta à?”
Budge ấp úng.
“Mọi thứ tớ nói đều bị cậu ta nói lại và cười phá lên.”
“Cười như vậy rất khó chịu.” Marigold đồng ý.
“Và cậu ta nói tớ là một con chó con khôn lỏi.”
“Tớ không phiền nếu bị gọi là con chó con khôn lỏi.” Marigold nói, người nghĩ rằng điều đó nghe khá vui vẻ và lãng mạn.
Nhưng có thứ ghê gớm hơn thế chưa được kể đến.
“Cậu ta… nói… tớ không được con gái ưa thích.”
Chỗ này thì hơi khó với Marigold. Không nên chỉ ra rằng Budge được con gái ưa thích.
“Tại sao cậu không gọi cậu ta là mắt lồi và ăn uống như con thuồng luồng?” Cô bé bình tĩnh chỉ ra.
Budge đã kể hết danh sách báo tội của cậu bạn. Sự tức giận của cậu như nước triều dâng và cậu có một cảm giác khủng khiếp là cậu sẽ… khóc. Và song song với đó là một cảm giác thoải mái khi nghĩ rằng kể cả cậu có khóc thì Marigold cũng sẽ thấu hiểu và không ghét bỏ cậu. Cô bé thật là tuyệt! Đáng giá gấp hàng ngàn lần Tad Austin.
Trên thực tế Budge đã không khóc nhưng cậu không bao giờ quên cảm giác đó.
“Tớ sẽ không bao giờ liên quan đến cậu ta nữa.” Cậu hậm hực nói. “Mà này, cậu có thích một con mèo con màu xám không? Nếu có tớ sẽ mang cho cậu một con vào ngày mai.”
“Ôi, có.” Marigold nói. “Lũ con của Phù thủy toàn màu đen vào hè này.”
Chúng ngồi đó hàng giờ để ăn mứt táo, hoàn toàn hài lòng với bản thân. Đối với Marigold, những bông hồng nhỏ trên bụi cây gần bậc thềm dường như chính là hiện thân của những nốt nhạc trong giai điệu bài hát đang tự ngân lên trong trái tim cô bé. Tất cả những thứ từng tạo nên sự kỳ diệu giờ quay lại tạo nên nó một lần nữa. Và cô hỏi Budge xem liệu cậu đã kể cho Tad nghe về Sylvia chưa.
“Tất nhiên là chưa. Đó là bí mật của cậu.” Budge nói, với vẻ rất đàng hoàng. “Và cậu ta cũng không biết về mật mã và những dấu hiệu bí mật. Đó là bí mật của chúng ta.”
Khi Budge đi về nhà, họ đã thỏa thuận với nhau, đó là cậu sẽ mang mèo con sang vào chiều hôm sau và rằng hai bạn trẻ sẽ đi truy tìm Chén Thánh trên những rặng vân sam.
“Mình sẽ không bao giờ quên buổi tối nay.” Marigold nói. Trạng thái mê ly vốn đã thất lạc nay lại trở về đầy sống động.
4
Nhưng buổi sáng hôm sau, sự việc xảy ra khiến cho buổi tối hôm qua dường như chưa bao giờ tồn tại. Khi Marigold hồ hởi bật dậy khỏi chiếc giường xanh dương và trắng của cô bé, xỏ quần áo và chạy ra phía cửa trước - cô bé đã nhìn thấy gì?
Budge và Tad đang tung tăng vui vẻ phía dưới con đường với cần câu cá và hộp đựng giun, trong khi hai con chó chạy phía sau cũng đầy thân thiết.
Marigold đứng sững như trời trồng. Cô bé không đáp lại khi Budge nhiệt tình vẫy chiếc cần câu về phía cô bé và gào lên lời chào. Trái tim cô bé, vừa mới đầy niềm sung sướng phút giây gần đây, giờ đang nặng trĩu và lạnh lẽo.
Đó là một buổi sáng sầu thảm. Chiếc váy lụa màu quả đào của Marigold mới được may xong và gửi đến nhưng cô bé không hứng thú. Một tiểu thư bị bỏ rơi và đau khổ về tinh thần thì chẳng màng đến những thứ phù phiếm.
Nhưng hãy cứ chờ lúc Budge Guest lại đến để được an ủi!
Budge tới vào buổi chiều hôm đó nhưng không phải để được an ủi. Cậu vui vẻ và rạng rỡ, mang theo một con mèo con đầy mùi cỏ bốn lá có màu lông lạ lẫm. Nhưng Marigold lạnh lùng và xa cách. Rất lạnh lùng và xa cách. “Cậu có chuyện gì vậy?” Budge hỏi.
“Chẳng có gì cả.” Marigold trả lời.
“Nghe này. Tớ tới để đi săn Chén Thánh với cậu. Nhưng nếu cậu không muốn đi hãy cứ nói. Tad muốn tớ cùng đi đến cửa bến cảng.” Budge giải thích.
Trong một lát, lòng tự tôn và thứ gì đó khác đấu tranh dữ dội trong tim Marigold. Và thứ gì đó khác đã thắng.
“Tất nhiên là tớ muốn đi săn Chén Thánh rồi.” Cô bé nói.
Chúng không tìm thấy Chén Thánh nhưng tìm thấy một trong những cái chén màu hồng quý giá của bà mà đã mất được hai năm, kể từ khi chuyến dã ngoại Nhà Lesley Đoàn tụ được tổ chức ở đồi vân sam. Cái chén được tìm thấy còn nguyên vẹn trong một khe hở của một hòn đá to. Và bà đã vui mừng thưởng cho chúng một đĩa đầy bánh Ăn Nhanh Kẻo Hết để mang theo ăn đường - một hành động biểu trưng. Bà sẽ không trọng thưởng đến vậy nếu quả thật chúng tìm thấy Chén Thánh.
5
Budge đi về nhà. Cậu ta có một cuộc hẹn hò với Tad vào buổi tối. Marigold ngồi ở bậc thềm nhà. Vệt sáng trên bầu trời màu vàng phía trên những ngọn đồi tối thui băng qua bến cảng nhìn thật cô đơn. Âm thanh của những đợt sóng lớn vỗ bờ ngoài bờ biển xa xa cũng rất cô đơn. Cô bé đang rất cô đơn - mặc dù đã có một buổi chiều vui vẻ với Budge.
Thím Marigold bước ra, nhận thấy gương mặt Marigold và ngồi xuống bên cạnh cô. Thím Marigold, người chưa bao giờ có con cái, biết nhiều về việc làm mẹ hơn nhiều người phụ nữ đã có con khác. Thím không chỉ có đôi mắt biết quan sát mà còn có trái tim biết thấu cảm. Trong một thời gian ngắn thím đã nắm được toàn bộ câu chuyện. Nếu thím có mỉm cười nhẹ thì Marigold cũng không nhìn thấy.
“Con không thể kỳ vọng Budge sẽ chỉ là hoàn toàn của con, như là Sylvia, con thân yêu ạ. Ngôi nhà yêu thương của chúng ta trên trái đất này luôn có nhiều căn phòng và nhiều tầng nữa. Budge sẽ luôn luôn quay trở lại với con. Cậu bé tìm thấy điều nào đó trong tình bạn với con mà Tad không thể mang lại. Cậu ấy sẽ quay lại vì điều đó, đừng sợ. Nhưng con phải chia sẻ cậu ấy với cả những người khác. Chúng ta - những người phụ nữ - phải biết chia sẻ.”
Marigold ngồi thêm một lát sau khi thím Marigold đi. Nhưng cô bé không còn buồn bã nữa. Một nụ cười mơ mộng nở trên môi cô. Con mèo con mới đang kêu gừ gừ trên đùi cô bé. Ánh hoàng hôn bao bọc quanh cô. Những cơn gió thổi qua những rặng vân sam và sà xuống thềm hoa ở vườn quả và khuấy động mùi hương thơm ngào ngạt. Màu vàng của loài hoa mang tên cô bé trải dài dọc theo bức tường. Những ngôi sao trên bầu trời nhấp nháy qua rặng cây dương, và ở hai bên bến cảng những hàng đèn chiếu sáng cũng giống như những ngôi sao lớn dưới mặt đất. Ngay lúc này, mặt trăng đang lên và tỏa ra một dải sáng trên bến cảng như chiếc váy lụa của một quý bà.
Đúng, cô nên chia sẻ Budge. Phép thuật xưa cũ đã ra đi mãi mãi - cùng với Sylvia và Vùng đất bí ẩn và tất cả những giấc mơ thân thương, ngọt ngào đang xa dần của tuổi thơ. Nhưng sau tất cả sẽ luôn có những sự bù đắp. Thứ nhất, cô bé có thể trở thành kẻ chết nhát như cô bé muốn. Không còn phải đi săn rắn hay bắt ếch. Không còn giả vờ thích những thứ khủng khiếp hay bò ngoằn nghèo. Cô bé không còn là kẻ cạnh tranh với bọn con trai. Cô bé là chính mình.
“Và mình luôn ở đây chờ cậu ấy quay lại.” Cô bé nghĩ.
-HẾT-