Các phương pháp điều trị ung thư thông thường: Chúng là gì, tác dụng phụ và tỷ lệ khỏi bệnh
Các phương pháp điều trị độc hại có thể gây ra bệnh ung thư mới... và thường bệnh nhân không chết vì bệnh ung thư mà chết vì cách điều trị - các chuyên gia như Tiến sĩ Lai Chiu Nan và Giáo sư Yukie Niwa cảnh báo.
Phẫu thuật, hóa trị và/hoặc xạ trị là các “công cụ” tiêu chuẩn của các cơ sở điều trị ung thư. Các hội đoàn y khoa đang dần cởi mở với một số hỗ trợ tổng thể - đặc biệt là tập thể dục và kỹ thuật kiểm soát căng thẳng - thường đơn thuần chỉ được coi là bổ sung cho các phương pháp điều trị chính.
Cũng cần lưu ý rằng Mỹ và Úc đã tụt hậu xa sau châu Âu và châu Á (đặc biệt là Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và thậm chí Malaysia), trong việc chấp nhận liệu pháp thay thế và tổng thể. Thực tế, ở Mỹ, theo luật bạn có thể bị buộc phải qua điều trị bằng hóa trị hoặc chữa bằng tia X-quang, thậm chí nếu bạn không thể dùng chúng và thà chết... như đã thấy trong trường hợp gây sốc của thiếu niên Mỹ Abraham Cherrix, người đã gần như bị buộc phải điều trị hóa trị nhưng đã giành được quyền hoãn dùng cách điều trị ấy.
Tóm tắt các phương pháp điều trị y tế tiêu chuẩn
PHẪU THUẬT là lựa chọn đầu tiên để “tấn công” vào các khối u ung thư. Mục đích của phẫu thuật là loại bỏ càng nhiều càng tốt khối u ung thư trong khi giữ lại, càng nhiều càng tốt, các mô khỏe mạnh.
Phẫu thuật là cách điều trị cơ bản nhất theo truyền thống, như loại bỏ một vú và các hạch bạch huyết, và loại bỏ chi.
XẠ TRỊ... và bây giờ là xạ trị cắt lớp (TomoTherapy) (nhắm vào nhiều mục tiêu và là loại xạ trị đắt tiền), tập trung tia X trên khu vực có khối u với nỗ lực tiêu diệt tế bào ung thư và thu nhỏ các khối u.
Thật ớn lạnh khi biết rằng xạ trị bắt nguồn từ trong chiến tranh nguyên tử hồi Thế chiến II. Sau chiến tranh, khi công luận Mỹ đang dao động chống lại sự phát triển hơn nữa của các đầu đạn hạt nhân nguyên tử (sau thảm kịch Hiroshima và Nagasaki), các “mafia” trang thiết bị chiến tranh lại âm mưu chuyển chùm tia bức xạ sang bệnh ung thư.
Họ thành công đến nỗi Hiệp hội Y khoa Mỹ (năm 1947) đã táo tợn tuyên bố rằng khoa học nguyên tử áp dụng cho y tế đã cứu nhiều mạng sống hơn là số người đã chết trong thảm họa Hiroshima và Nagasaki.
Ủng hộ yêu sách thái quá này không ai khác chính là Chủ tịch Ủy ban Năng lượng nguyên tử, Lewis Strauss, người đã nói: “Việc tập trung các tia bức xạ mạnh mẽ gây chết người vào chỗ phát triển ung thư sẽ là một ví dụ về việc sử dụng tốt năng lượng nguyên tử”.
Đây là lý do tại sao vị giáo sư, bác sĩ Nhật Bản Yukie Niwar, đã ví việc sử dụng những gì ông gọi là “bức xạ” liệu pháp như đưa một quả bom nguyên tử nhỏ vào khối u... là một sự tận diệt!
Thuốc hóa trị liệu
“Thuốc hóa trị liệu đang giết cơ thể và tinh thần của tôi” - Abraham Cherrix
Hóa trị liệu thường được sử dụng qua đường tiêm sau khi phẫu thuật để thu dọn các tế bào ung thư còn sót lại xung quanh. Ít nhất đó là cơ sở mà các bác sĩ dựa vào khi kê toa thuốc hóa trị.
Một hoặc nhiều loại thuốc kết hợp cũng có thể được kê cho bệnh nhân vì một hoặc nhiều lý do sau:
1. Khối u phát triển chậm.
2. Giảm đau (mặc dù một số bệnh nhân như Fong Ah Mui nói rằng hóa trị còn đau đớn hơn so với ung thư).
3. Làm teo nhỏ khối u trước khi phẫu thuật.
Nó thường được hiểu rằng, nếu điều trị chỉ dùng mỗi hóa trị liệu thì không chữa được bệnh ung thư.
Ngày càng có nhiều loại thuốc ung thư được đưa ra thị trường trong những năm gần đây. Một số bác sĩ cho rằng các loại thuốc mới không độc hại, và điều này gần giống như việc nói rằng các loại thuốc trừ sâu mới không độc hại như DDT.
Vậy, nếu nó không phải đủ độc để giết (một tế bào ung thư đột biến hoặc một loài côn trùng yếu), thì người ta tự hỏi tại sao nó được sử dụng cho tất cả các loại ung thư?
Rõ ràng, những người kiểm định vẫn còn chưa nắm được liệu các loại thuốc mới hơn có thực sự ít độc hại và thậm chí hiệu quả hơn? Chắc chắn là có một sự mâu thuẫn trong tuyên bố?
Cũng thú vị khi lưu ý rằng một số loại thuốc trước đó không còn được ưa chuộng đã trở lại và cũng có thể được trộn vào một hỗn hợp “mới”.
Một hỗn hợp các loại thuốc hóa trị đã được khẳng định là cho kết quả cao hơn, so với một loại thuốc hóa trị duy nhất.
Thuốc pha chế phổ biến nhất của loại thuốc hóa trị được sử dụng để điều trị ung thư vú hiện nay là CMF, viết tắt của hỗn hợp cyclophosphamide, methotrexate và 5-FU.
Các phương pháp điều trị y tế thành công như thế nào trong điều trị ung thư?
Tiến sĩ Chris K.H. Teo trong cuốn sách năm 2003 của mình Ung thư - Những gì bạn cần biết (Cancer – what you need to know) cho biết dữ liệu từ Chính phủ Mỹ và xã hội ung thư của họ dự đoán rằng cứ trong ba đến bốn người sẽ có một mắc bệnh ung thư. Đây cũng là kiến thức phổ biến giữa các nhà nghiên cứu.
Tiến sĩ Teo cũng trích dẫn bài xã luận tờ báo Star của Malaysia, nói rằng: “Một phần ba số bệnh ung thư có thể được ngăn chặn, trong khi một phần ba có thể được điều trị và một phần ba là có thể chữa được.”
Tập trung vào từ “Điều trị”, Tiến sĩ Teo cảnh báo rằng “Để nói có thể được “điều trị” không có nghĩa là nó có thể chữa được.”
“Đồng thời, đừng bị lừa bởi từ ‘có thể chữa được,’ ông tiếp tục cảnh báo. “Để nói rằng một phần ba có thể được chữa khỏi không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn ung thư ra khỏi cơ thể. Chữa được, theo định nghĩa y tế hiện nay, là thuyên giảm trong 5 năm, không phải là loại bỏ bệnh vĩnh viễn.”
Bác sĩ chuyên khoa ung thư X cũng đã nói với Caryn Dunning khi cô bất ngờ có thai, “Bạn biết ung thư không chữa được, đúng không?”
Phương pháp điều trị y tế nào hiệu quả nhất?
Phẫu thuật dường như là cơ hội tốt nhất để loại bỏ khối u ung thư phát hiện sớm và ung thư đơn giản.
Theo Tiến sĩ Richard Evans, một trong những người sáng lập Trung tâm Ung thư Texas, hơn 90% số bệnh nhân được chữa khỏi bệnh ung thư đã làm phẫu thuật - và chỉ phẫu thuật mà thôi.
Thật thú vị khi suy ngẫm rằng, 30 năm trước, khi hóa trị liệu không được sử dụng sau khi phẫu thuật tại Singapore và xạ trị là rất hiếm, bệnh nhân ung thư như vợ của tù nhân chính trị Said Zahari (17 năm trong tù ở Changi), người đã được phẫu thuật thành công tại Bệnh viện Đa khoa loại bỏ một khối u ác tính ở vú, không bị tái phát. Saleha chết vì bệnh tim sau hơn 30 năm làm phẫu thuật đó.
Lila Notley, người sống sót phi thường, chỉ được phẫu thuật hai lần khi bà bị ung thư – lần đầu bị ung thư ruột và sau đó là bị ung thư vú.
Và bà tin rằng do cả hai lần bà đều từ chối xạ trị (bà không được yêu cầu hóa trị nhưng nếu có cũng sẽ từ chối) và quay sang điều trị bằng dinh dưỡng cùng các phương pháp trị liệu tổng thể khác nên bà vẫn giữ được sức chịu đựng để làm được rất nhiều việc trong 20 năm “sống truyền cảm hứng với bệnh ung thư” của mình.
Chúng tôi cũng biết một trường hợp kết thúc có hậu, đó là bà Eng, người đã được phẫu thuật lấy khối u ung thư ra khỏi ngực gần bốn năm trước đây. Do tuổi cao (khi đó là 80 tuổi) nên các bác sĩ không đề nghị hóa trị hoặc xạ trị. Rồi con gái bà là Evelyn Eng-Lim, đồng sáng lập Trang trại Sinh thái Vòng Xanh hữu cơ, đã đưa mẹ mình đến trang trại để sống.
Bữa sáng, Evelyn làm cho mẹ (và cho mình) một hỗn hợp pha trộn rau hữu cơ tươi lấy từ trang trại của mình. Cô còn thêm táo xanh (để làm nó ngon hơn) cùng với thói quen đi bộ mỗi sáng trong vườn bách thảo, đã giữ cho mẹ cô không bị ung thư trở lại và khỏe mạnh hơn so với hầu hết những người cùng tuổi!
Vì vậy, không phải là đáng ngạc nhiên khi Tiến sĩ Chris Teo, trong cuốn sách mới nhất của ông Ung thư vú: Viễn cảnh của khoa học y tế và chữa bệnh tổng thể (Breast cancer perspectives of medical sciences and holistic healing) đã viết:
“Phẫu thuật đôi khi là thủ tục cứu sống cần thiết trong điều trị ung thư. Đây là cách điều trị hiệu quả cho các khối u nhỏ, được phát hiện sớm mà chưa lây lan đến các bộ phận khác của cơ thể.”
Phẫu thuật có thể làm cho hàng triệu tế bào ung thư đi vào trong máu
Nhưng Tiến sĩ Teo cảnh báo tiếp, những người chỉ trích phẫu thuật cũng đã chỉ ra rằng do lỗi của con người hoặc bất cẩn, khi đang phẫu thuật các khối u ung thư, có thể để hàng triệu tế bào ung thư lọt vào trong máu.
Đây cũng là lý do tại sao một số bác sĩ như Giáo sư Yukie Niwa nói rằng sinh thiết - một công cụ chẩn đoán để phát hiện ung thư sớm - do dùng một dụng cụ chọc vào khối tăng trưởng có thể gây ung thư hoặc làm cho ung thư hiện có lây lan ra rộng hơn.
Tiến sĩ Ian Gawler - người sống sót sau ung thư và bị cắt cụt chân - cũng nói với bệnh nhân rằng phẫu thuật có thể là lựa chọn tốt nhất cho bệnh ung thư đơn giản. Nhưng đối với nhiều loại ung thư phức tạp và tiến triển, đó có thể không phải là một lựa chọn tốt.
Gawler đã phải cắt cụt chân từ hông vì u xương ác tính (ung thư xương) vào năm 1975 khi ông mới 20 tuổi. Người ta nói với người bác sĩ thú y trẻ rằng chỉ có 5% số bệnh nhân có thể mong đợi sống thêm được 5 năm sau khi phẫu thuật như vậy. Mặc dù không có dấu hiệu của bệnh ung thư ở bất cứ nơi nào khác trên cơ thể của ông nữa, nhưng chỉ sau 10 tháng ung thư quay trở lại và bác sĩ dự đoán ông chỉ sống được vài tuần lễ nữa.
Chỉ khi Gawler quyết định trung thành đi theo liệu pháp dinh dưỡng và thiền định của Gerson, thì ông mới thực sự bước trên con đường chữa bệnh đích thực và lâu dài.
Ralph Moss, một người rất được kính trọng đã viết Công nghiệp ung thư (The cancer industry), cũng đồng ý “không thể phủ nhận rằng trong một số trường hợp phẫu thuật là phương pháp hiệu quả và không thể thiếu để đối phó với ung thư. Nhìn chung, hầu hết các bệnh nhân ung thư được chữa khỏi ngày nay đều được chữa khỏi do phẫu thuật”.
Mặc dù phẫu thuật được các nhà nghiên cứu và các tác giả viết về đề tài ung thư công nhận một cách vô tư là tuyệt diệu nhưng Tiến sĩ Andrew Weil, tác giả và Giám đốc của chương trình Y tế Hợp nhất tại Đại học Arizona cảnh báo rằng “phẫu thuật thường không nhất thiết phải làm và có thể dẫn đến một sự cực đoan mạnh mẽ... đôi khi cũng có niềm tin trung thực rằng phẫu thuật đã được chỉ định là đúng, đôi khi lại như một cách thô bỉ để nâng cao thu nhập của họ.”
Hóa trị - “Căn bệnh này tự nó không đáng sợ, mà điều trị bằng hóa trị mới là đáng sợ.” Tiến sĩ Lai Chiu Nan khẳng định: “Tôi đã làm việc 10 năm tại một trong ba bệnh viện ung thư lớn nhất ở Mỹ là MD Anderson, do đó hiểu được những hạn chế của họ. Vị Phó giám đốc của chúng tôi là người chịu trách nhiệm về tất cả các nghiên cứu ung thư, đích thân nói với chúng tôi rằng “Hóa trị là đường cùng.”
“Ban đầu nó có vẻ có hiệu quả, tuy nhiên sau đó, các tế bào ung thư phát triển sức đề kháng và điều này dẫn đến việc phải sử dụng thuốc hóa trị ngày một nhiều hơn, mạnh hơn và cuối cùng là giết chết bệnh nhân, (ví dụ như: một công chức nhà nước trẻ tuổi người Singapore đã qua đời sau khi được chỉ định một liều hóa trị mạnh trong khi Ah Mui vẫn còn sống, do cô không đủ khả năng chạy hóa trị nên đã chuyển sang ăn rau tươi sống. Xem câu chuyện của Fong Ah Mui).
“Các loại thuốc dùng trong hóa trị liệu không chỉ có độc tính cao, mà chúng cũng là những chất gây ung thư. Một số bệnh nhân ung thư lúc đầu có thể được điều trị thành công bằng hóa trị liệu, nhưng các thuốc được sử dụng có thể dẫn đến một bệnh ung thư 5 năm sau đó,” Tiến sĩ Lai cảnh báo.
“Với bức xạ cũng vậy. Điều này cũng có thể gây ra ung thư. Ngay cả việc gây mê được diễn ra trong khi phẫu thuật cũng có thể làm suy yếu hệ miễn dịch”, Tiến sĩ Lai cảnh báo.
Thế còn các loại thuốc hóa trị liệu mới nhất đã được mô tả là giống như “các quả bom thông minh” hơn so với các thuốc cũ được mô tả như “pháo binh hạng nặng” thì sao? (tạp chí Time, ngày 9/4/2007).
Vâng, nếu một bệnh nhân ung thư vú cũng thích lựa chọn từ một “tấn thuốc, để tìm ra tám hoặc chín loại hoặc hơn thế cho bất kỳ bệnh ung thư nào khác” thì nghe có vẻ thú vị đây. Ngoài ra, nếu bệnh nhân hiểu rằng cô ấy chỉ “sử dụng một loại thuốc cho đến khi nó không còn hiệu quả - vì điều đó gần như chắc chắn sẽ như vậy - sau đó chuyển sang loại khác, thì cả đời cô ấy sẽ phải đi tìm kiếm các loại thuốc như vậy.” (Tiến sĩ Christy Russell, đồng giám đốc Trung tâm vú Norris, Đại học Nam California), rồi cuối cùng bệnh cũng có thể tạm ổn.
Điều vẫn chưa được nói ra trong “Sống chung với ung thư” là các tác dụng phụ lâu dài không thể tránh khỏi của các loại thuốc mới, và chi phí cho chúng.
Chỉ ba năm trước đây người mẹ 80 tuổi của Juraimi Rahmat đã được đề nghị dùng một loại thuốc hóa trị thử nghiệm giá 4.000 đô la Singapore cho một đợt truyền, nhưng sau đó bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn cuối đó không đáp ứng nổi với chu kỳ đầu tiên của hóa trị. Ông từ chối và mẹ ông đã được chữa lành bằng nước trái cây hữu cơ cùng các chất bổ sung tự nhiên tối ưu.
Vì vậy, việc chung sống với ung thư bằng con đường dùng thuốc, có nghĩa là đang “uống thuốc để sống”, một chất lượng cuộc sống chưa biết ra sao bởi phản ứng của mỗi người với một loại thuốc là khác nhau, và phải chi rất nhiều tiền.
“Dùng xạ trị như thể đưa một quả bom nguyên tử vào để trị nỗi ưu phiền”
“Liệu pháp xạ trị và thuốc chống ung thư (hóa trị) làm việc trên nguyên tắc ‘tổng diệt’. Vấn đề là, các tế bào ung thư bền vững gấp 10 lần so với các tế bào khỏe mạnh và cùng tồn tại trong cơ thể với các tế bào khỏe mạnh. Trong cả hai liệu pháp hóa trị và xạ trị, các tế bào khỏe mạnh trong vùng lân cận của các tế bào ung thư cũng được tiếp xúc với bức xạ (hoặc thuốc hóa trị) giống nhau như các tế bào ung thư”, Giáo sư Niwa viết trong cuốn sách của mình:
“Vào thời điểm các tế bào ung thư bắt đầu yếu đi, thì các tế bào khỏe mạnh cũng gần như bị hủy diệt. Vì vậy việc điều trị đến đó phải dừng lại và các tế bào ung thư - vừa bắt đầu suy yếu - lại bật trở lại sức mạnh ban đầu của chúng... Đây là lý do tại sao bệnh ung thư thường không thể chữa được và gây tử vong.”
“Có rất nhiều phương pháp y tế điều trị ung thư, bao gồm cả việc sử dụng các loại thuốc. Tuy nhiên, trước khi các tế bào ung thư chết, bệnh nhân thường chết trước. Đó là vì sao tôi gọi việc dùng xạ trị và các loại thuốc chống ung thư (hóa trị) là hoạt động trên nguyên tắc “tổng diệt”.
“Không quan trọng là xạ trị được cải thiện và thay đổi được bao nhiêu (như thực tại hiện có trong những năm gần đây), sự thật vẫn là... không chỉ các tế bào ung thư mà các tế bào khỏe mạnh cũng bị chết.”
Hơn nữa, điều trị y tế không chỉ gây ra các tác dụng phụ thường xuyên, mà các tác dụng phụ còn trở nên trầm trọng hơn qua năm tháng.
Sylvia, một y tá Singapore bị ung thư amidan nói rằng cô ấy đã được điều trị bằng một quá trình xạ trị.
“Nó đã làm cho các tuyến nước bọt của tôi gần như bị xóa sổ hoàn toàn... đã có một số thiệt hại cho các dây thần kinh xung quanh mặt và cổ mà bác sĩ của tôi nói qua năm tháng chúng còn tồi tệ hơn. Tôi cũng gặp một số khó khăn trong việc nuốt và đó là một trong những triệu chứng có thể còn tồi tệ hơn.”
Những bệnh nhân như Sylvia đang ngày càng trở nên phổ biến hơn và dường như nhiều người không biết rằng tất cả các thiệt hại có thể có - trước mắt và lâu dài - mà có thể phát sinh từ phương pháp điều trị của họ.
Tại sao liệu pháp xạ trị gây ung thư mới, dị tật bẩm sinh... và các bệnh ung thư ở thế hệ tiếp theo
“Sự phơi nhiễm bức xạ tạo ra OH – làm phân rã và tiêu hủy các ADN trong nhân tế bào... sau đó, các tế bào có thể thoát khỏi sự hủy diệt nhưng phần gen có giá trị của chúng đã bị thiệt hại nghiêm trọng trên ADN... sự thiệt hại cho những gen này trở thành nguyên nhân gây ra dị tật và ung thư. Sự hình thành ung thư mới (thông qua sự ADN) trong khi đang được điều trị bằng xạ trị cho những ung thư hiện có là một điều thực sự đáng sợ để suy ngẫm”, Niwa viết.
“Thuốc chống ung thư, giống như xạ trị, tiêu diệt ung thư đang tồn tại nhưng lại sản sinh ra ung thư mới.”
“Thuốc chống ung thư, đặc biệt là thuốc Bleomyein và Anthracyclin, tạo ra OH trên ADN của tế bào ung thư, làm phá hủy các ADN và giết chết các tế bào ung thư. Nhưng, giống như tia X-quang, chúng cũng giết cả các tế bào khỏe mạnh bình thường”, Giáo sư Niwa giải thích.
Vì vậy, đã có những giới hạn cho các loại thuốc chống ung thư là dùng bao nhiêu có thể chấp nhận được (một cách an toàn) và, thật không may, trong nhiều trường hợp một liều quá mạnh được sử dụng đã làm cho bệnh nhân ung thư chết, không phải chết vì ung thư mà chết vì phương pháp điều trị - tức là thuốc hóa trị.
“Đồng thời nên biết rằng các tế bào khỏe mạnh bình thường bị ảnh hưởng bởi việc tiêm các loại thuốc này (và xạ trị). Thậm chí nếu thuốc được dùng với liều không đủ mạnh để tiêu diệt các tế bào bình thường, thì nó vẫn có thể tạo ra các dị tật và ung thư mới”, ông viết.
“X-quang và thuốc trừ hại đều làm tổn thương tế bào như nhau. Tính hiệu quả của các phương pháp điều trị độc hại như vậy thực sự là một vấn đề đang được nguyền rủa nếu bạn chết, và bị chỉ trích nếu bạn sống sót.”
Ở châu Âu, Ernst Krokowski - một Giáo sư Đức chuyên ngành X-quang - đã chứng minh rằng di căn (sự lan rộng của ung thư) thường được kích hoạt bởi sự can thiệp của y tế, bao gồm cả sinh thiết hoặc thậm chí phẫu thuật không liên quan đến ung thư.
“Việc làm xáo trộn một khối u (khối u là một cách của tự nhiên để đóng gói các chất độc lại) gây ra một số lượng lớn các tế bào ung thư đi vào trong máu, trong khi đa số sự can thiệp của y tế, đặc biệt là hóa trị liệu, lại làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Sự kết hợp này là một công thức tạo ra thảm họa” Krokowsi kết luận.
Cố gắng gây độc cho bệnh nhân hòng làm họ khỏe lại - Một sự lố lăng và bi kịch
Câu chuyện bi thảm về việc các chuyên gia nổi tiếng nhất của Mỹ đã cố gắng ‘gây độc’ cho Jackie Kennedy-Onassis1, cựu đệ nhất phu nhân Mỹ, để mong làm cho bà khỏe mạnh trở lại khi bà được các bác sĩ phát hiện bị mắc bệnh ung thư máu, được Harvey Diamond mô tả trong cuốn sách của ông Khỏe để sống.
1 Jackie Onassis (1929 – 1994), tên đầy đủ là Jacqueline Kennedy Onassis là vợ của Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ John F. Kennedy, và Đệ nhất Phu nhân Hoa Kỳ từ năm 1961 đến 1963. Kết hôn lần hai với tỉ phú Aristotle Onasis. Bà thường được gọi một cách thân mật là Jackie, Jackie Bouvier, Jackie Kennedy, Jackie Onassis và, đôi khi, Jackie O (BT).
Bà Onassis, 64 tuổi, đã bị ung thư hạch. Điều này có nghĩa là một hoặc nhiều hạch bạch huyết của bà đã có tế bào ung thư trong đó. Bây giờ, các hạch bạch huyết sưng lên để bao bọc các chất độc (do tiếp xúc với hóa chất gây ung thư trong chế độ ăn uống và môi trường).
Ai cũng đều có độc tố trong cơ thể của mình nhưng khi hạch bạch huyết bị sưng lên, đó là một dấu hiệu cho thấy các chất độc đã đạt đến mức độ cơ thể đang đấu tranh để ngăn chặn chúng.
Đối với tự nhiên, những tín hiệu từ cơ thể đang dàn trận như vậy có nghĩa là nó cần phải được dọn sạch thật nhanh các độc tố và chất thải.
Thay vào đó, bà Onassis đã bị “bắn phá bằng thuốc. Rất nhiều thuốc mạnh, độc hại, làm tổn thọ.” Tờ The New York Times viết rằng ban đầu bà đáp ứng với điều trị (giống như Dana Reeve, ca sĩ Seha và rất nhiều người khác năm 2006), nhưng sau đó ung thư đã trở lại trong não và lây lan toàn cơ thể của bà.
“Chất Steriods được trộn vào hóa trị liệu của bà và gây ra một vết loét làm thủng dạ dày. Trước thử thách đó, bà đã được phẫu thuật để vá lỗ hổng trong dạ dày”.
“Dù bà đã phải chịu nhiều bức xạ và hóa trị liệu, nhưng lần này - như một cuộc tấn công cuối cùng - họ đã tia trực tiếp vào não của bà.”
“Bệnh ung thư đã lan đến tủy sống và gan... bà trở nên rất yếu và mất phương hướng, bị sụt cân, người cảm thấy ớn lạnh, nói năng chậm chạp và đi lại khó khăn.”
Tất cả điều này xảy ra trong vòng sáu tháng ngắn ngủi. Bà Onassis đã ra ngoài cưỡi ngựa vào mùa thu năm 1993. Bà bị ngã ngựa nên buộc phải đến gặp bác sĩ nhiều lần và hai tháng sau bà được chẩn đoán bị bệnh ung thư máu không hodgkin. (Xem câu chuyện về cuộc sống của Caryn Dunning và một em bé mới ra đời sau ung thư máu).
Bà Jackie 64 tuổi và cuộc sống của bà chưa bao giờ tốt hơn thế. Hạnh phúc với người bạn đồng hành lâu năm Maurice Tempelsman (cũng 64 tuổi), bà luôn yêu thích công việc của mình là một người biên soạn sách thành đạt và vai trò người bà của ba đứa con của Caroline Kennedy. Con trai út của bà - John F Kennedy - giờ đây cũng đang ở gần bà. Nói ngắn gọn, không có sự tổn thương tình cảm nào gây ra bệnh ung thư, mà có lẽ chủ yếu do chấn thương vật lý (do bị ngã).
Sau bốn tháng điều trị khủng khiếp, Jackie - “một người từng cưỡi ngựa tuyệt vời là thế - đã trở nên yếu đuối, người khọm xuống, bị hói cả đầu”, đã bước sang một thử thách khác.
Các bác sĩ, những người đã hứa với Jackie rằng bà sẽ không phải trải qua đau đớn nào nữa, hóa ra là sai. Bà bị đau đầu liên tục do hậu quả của bệnh ung thư não. Khi bà bị viêm phổi do hậu quả việc dùng thuốc steroid làm suy yếu hệ thống miễn dịch, mỗi hơi thở đều làm bà cảm thấy đau đớn.
Khi còn nằm viện bà được báo rằng bệnh ung thư của bà đã lan đến gan. Tiến sĩ Anne Moore, chuyên gia nổi tiếng về ung thư nói: “Chúng ta hãy thử tăng liều hóa trị xem sao”.
“Không, không,” bà Jackie nói. “Tôi muốn về nhà để chết.” Bà về nhà và lên kế hoạch cho đám tang của mình chi tiết đến những bước cuối cùng. Jackie Kennedy Onassis qua đời tại nhà như bà mong ước vào ngày 19/5/1994. Vậy bà ấy chết do phương pháp điều trị hay do bệnh ung thư của mình?
Kinh nghiệm của những người sống sót qua hóa trị và xạ trị
Dee Page... Tổn thương lan rộng và có nhiều tổn thương vĩnh viễn
“Hóa trị thực ra là không đau,” bà nhớ lại, và bà không bị rụng tóc nhưng nó gây nhiều vết loét trong miệng và có vấn đề bên trong.
“Liều bức xạ, tôi nhận được trong khoảng bảy tuần lễ là rất lớn và họ cảnh báo rằng đường ruột của tôi có thể bị tổn thương nghiêm trọng.”
“Chuyện đó không xảy ra nhưng tổn thương lan rộng và có nhiều tổn thương vĩnh viễn. Tôi bị lở loét xuất huyết trong, khiến tôi thức trắng nhiều đêm (do chảy máu và bị hành hạ đau đớn).”
“Chồng tôi đã thức cùng tôi qua nhiều đêm và anh ấy ôm lấy tôi, chúng tôi khóc cùng nhau. Ngay cả đến bây giờ tôi vẫn còn phải đối phó với những ảnh hưởng của việc xạ trị. Tôi thực sự phải xem kỹ những gì tôi ăn cũng như giám sát ruột non và sự đi ngoài rất cẩn thận.”
“Đôi khi tôi phải xạ trị viêm bàng quang: do thỉnh thoảng bị nhiễm trùng bàng quang vài tháng. Xạ trị ruột đã ảnh hưởng đến đường ruột của tôi, vì nó là ‘mô mỏng’ nên rất nhạy cảm.”
“Có những lúc tôi bị chảy máu trực tràng và rất khó chịu vì suy nhược. Tôi cũng bị chứng phù nề bạch huyết, tức là chân bị sưng lên và phải đeo ‘vớ’ chun (thật là nóng và khó chịu trong cái khí hậu ẩm ướt của Singapore)”.
Lila Notley... Từ chối xạ trị sau khi được phẫu thuật ung thư ruột
“Vì tôi nhìn thấy những gì xạ trị đã làm cho em rể của mình... nó “nấu” ruột ông ấy lên và ông ấy không bao giờ còn được như trước nữa.” Chỉ sử dụng các loại thực phẩm và các liệu pháp tự nhiên - Lila 56 tuổi - đã hồi phục và có năng lượng vô tận cho đến giờ bà đang ở tuổi 70 của mình.
SC LIM – Liệu pháp xạ trị và khu xạ trị là “Địa ngục”
“Ông Lim, hàng ngày phải xạ trị, một đợt tám tuần lễ... trong quá trình điều trị ông có thể gặp các tác dụng phụ khác - điều đó không thể tránh khỏi”...
“Khu xạ trị.... Mặc dù hoạt động ở đây rất nhộn nhịp... nhưng tôi có cảm giác mình đang ở trong hành lang của cái chết”.
“Trước tôi, nằm sõng xoài và bất động trên cáng xe đẩy là một cô bé khoảng sáu hoặc bảy tuổi. Làn da tươi trẻ và dịu dàng của nó đã xám đen lại trên toàn bộ khu vực mũi do xạ trị. Cô bé dường như đang ở tình trạng bán hôn mê.”
“Một phụ nữ trẻ khác... vừa điều chỉnh chiếc mũ nhiều màu sắc của mình để che giấu một phần đầu bị rụng tóc...”
“Một người phụ nữ, có lẽ khoảng 50 tuổi, có một chỗ đỏ sưng lên khủng khiếp ‘nhô’ ra bao trùm toàn bộ cằm và môi, một phần trong số đó đã chuyển sang màu đen... do nhận được tia bức xạ.”
“Một ông già tập tễnh quanh quẩn một cách không chắc chắn để tìm đường về...”
“Trong một thời gian dài tôi không nói chuyện với ai cả và cũng không có ai nói với tôi. Nhìn biểu hiện trên khuôn mặt của họ, tôi thấy rõ sự nghi ngờ đang gặm nhấm và nỗi sợ hãi... tuyệt vọng của họ.”
“Xạ trị... khi cái cổng kim loại trượt qua và đóng lại, với sự im lặng lạnh người theo bản năng tôi cố gắng nhìn chằm chằm vào các máy đang quay đều im lặng...”
Các hiệu ứng phồng rộp do nguồn bức xạ mạnh mẽ tập trung vào phần trên cơ thể của tôi làm tôi cảm thấy mình đang bị nấu lên bởi một mặt trời nơi sa mạc hoang dã, hoặc giống như thực phẩm trong một nồi đang sôi.
“Môi tôi khô lại và bắt đầu nứt nẻ, giộp lên. Các mô ở vùng mũi, miệng và cổ họng bắt đầu chảy xệ, biến dạng dưới cái nóng dai dẳng và khát...”
“Do phải chạy xạ trị hàng tuần liền, tôi cảm nhận được các tác động xấu đã xuất hiện trong vùng đầu, vai, cổ, ngực và bụng của mình…”
“Nhiệt kích thích ở cường độ cao gây ra sự buồn nôn liên tục, khiến tôi nôn liên tục trong những cơn co thắt...”.
“Khát, đau, nhìn một thành hai, chóng mặt, loét lở miệng, lưỡi và cổ họng... Tôi cũng bị khó tiêu và tồi tệ hơn nữa là bị tắc ruột, điều này vượt quá những gì tôi có thể chịu đựng.”
“Tôi thường bị bỏ lại trong khi thở hổn hển ngay cả lúc nghỉ ngơi trên giường… Không lâu sau, thậm chí ăn thức ăn mềm cũng khiến tôi rất đau đớn. Đến nước uống và chất lỏng cũng trở nên khó khăn đến ngộp thở.”
Thậm chí 23 năm sau khi sức khỏe đã phục hồi, sự tức giận của Lim lại nổi lên khi ông nói với tôi trong cuộc họp năm 2004: “Lúc trước họ nói với tôi rằng tôi bị ung thư cấp độ trung bình, còn sau khi xạ trị, nó lại trở thành ác tính trầm trọng, tôi không thể nói được gì. Lặng lẽ, tôi tự nghĩ... Thật tàn nhẫn, sự điều trị mà các vị đưa ra còn tồi tệ hơn so với chính căn bệnh. Trước đây nó chỉ là cấp độ trung bình, bây giờ nó lại là ác tính trầm trọng”.
Vì vậy, khi được dự báo chỉ còn 10 tuần để sống... Lim, cũng như Ian Gawler, đã kiên trì với chế độ ăn uống nước trái cây, thiền, quán tưởng và đã hoàn toàn bình phục.
Nure Lin Lin Tsui - Một phản ứng rất xấu với hóa trị
Bắt đầu vào tháng 4/2005 khi ung thư của bà tái phát. “Sắc tố bùng nổ trên khuôn mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân, lưỡi. Sau mỗi phiên điều trị tôi bị tiêu chảy, nôn mửa, đau đầu khủng khiếp và các vấn đề về dạ dày... Tôi không còn nước mắt, không còn nước bọt và hơi thở ngắn lại. Thậm chí tệ hơn, tôi đi tiểu không tự chủ...”
“Chính nhờ liệu pháp spa (bằng nước) và chế độ ăn chay mà cuối cùng tôi được chữa khỏi”.
Bà Fong Ah Mui - “Hóa trị liệu... rất đau đớn và vô dụng...”
“Đau đớn dữ dội, tồi tệ hơn trước khi tôi tiêm nhiều. Cơn đau rồi cũng qua, nhưng bệnh tật luôn còn đó. May mắn cho tôi vì tôi không đủ khả năng theo đuổi hóa trị nữa… phải chuyển sang ăn các loại rau xanh mà tôi khỏi bệnh.”
Sally Mah: Xạ trị - Một trải nghiệm kinh hoàng
Khi Sally Mah bị tái phát ung thư lần thứ hai (nó nằm đúng vị trí mà ung thư vú của bà đã được lấy đi), bà kiên quyết từ chối hóa trị nhưng cuối cùng đã đồng ý đi xạ trị trong vòng sáu tuần.
Khi bà hỏi xạ trị có làm thay đổi màu da của mình không, thì được trả lời rằng nó sẽ không trở thành màu đen, nó sẽ chỉ chuyển sang màu đỏ thôi.
Tuy nhiên trong khi xạ trị, chỗ được chiếu tia lúc đầu chuyển sang màu đỏ và sau đó màu đen. Hơn thế nữa, ngay cả phần lưng nơi không nhận được bất kỳ bức xạ nào - cũng chuyển sẫm màu.
“Khi tôi hỏi về chuyện này, người ta nói rằng sự đổi màu trên lưng của tôi là do bức xạ phản xạ lại từ các tấm kim loại mà tôi đã nằm lên.” Bà thấy lời giải thích này thật khó tin và tin rằng liều bức xạ chắc chắn đã đi xuyên qua cơ thể của mình để “đốt cháy” lưng bà.
Nhiều người đã chết - sau khi chịu đau đớn khủng khiếp - từ hóa trị hay xạ trị. Trong cuốn sách của mình, Ung thư - Những gì bạn cần biết, Tiến sĩ Chris Teo liệt kê một số trường hợp bi kịch mà cá nhân ông biết đến.
Tôi cũng biết một phụ nữ Indonesia, bà M, người mà nếu không phải nhận phương pháp chữa bệnh hung bạo của y tế, cũng có thể đã sống thêm vài năm nữa, và chết một cách bình yên tại nhà riêng ở Jakarta, bên cạnh những người thân của mình.
Thay vào đó người phụ nữ giàu có này đã được gia đình đưa sang Singapore để tìm cách điều trị y tế. Tôi không thể nhớ bà ấy đã bị ung thư gì, khi đã bước sang tuổi 70 thì các bác sĩ Indonesia chẩn đoán là bà bị ung thư. Họ nói rằng bà không nên có bất kỳ điều trị xâm lấn nào vì tuổi bà đã cao. Chỉ cần chăm sóc giảm nhẹ cho bà ở nhà là đủ.
Nhưng các con bà không chấp nhận điều đó và đã đến Singapore để tìm kiếm ý kiến thứ hai. Các bác sĩ ở đây gợi ý phẫu thuật, sau đó là hóa trị và /hoặc xạ trị.
Người phụ nữ này đã đến thăm cha tôi trong khi ở Singapore và mặc dù bà đang ngồi trên một chiếc xe lăn, nhưng bà rất vui vẻ và nom khá mạnh mẽ.
Họ quyết định bay tới Nhật Bản để tìm kiếm quan điểm y tế thứ ba. Các bác sĩ Nhật cũng đồng tình với ý kiến của các bác sĩ Indonesia - tức là không làm gì cả, chỉ cần làm cho bà ấy cảm thấy thoải mái là được.
Gia đình họ quyết định không thể “không làm gì” cho mẹ mình. Vì vậy, họ trở về Singapore và đặt một chỗ trong bệnh viện để cho một người giúp việc có thể ở lại chăm sóc bà.
Tôi đến thăm bà M ở bệnh viện sau khi bà đã được phẫu thuật và điều trị. Bà ở bệnh viện được khoảng hai tháng. Nom bà thật khủng khiếp, một cảnh tượng thảm thương vô cùng. Miệng bà đầy vết loét đau đớn nhưng bà vẫn cố gắng nói với tôi bằng giọng thì thầm rằng bà sắp về nhà rồi.
Con trai bà - người cũng đến thăm bà lúc đó - ra hiệu cho tôi rằng bà ấy sẽ không thể về nhà sớm được. Không phải vì bệnh tình của bà. Một vài ngày sau chuyến thăm của tôi, bà M qua đời. Có thể hiểu được sự đau đớn tột bực của các con bà. Họ đã chi khoảng 200.000 đô la Singapore mà vẫn mất mẹ.
Giá mà gia đình bà M được biết đến Tiến sĩ Cynthia Foster (tác giả cuốn Hãy dừng thuốc (Stop the medicine)) người đã viết:
Đôi khi tốt hơn cả là KHÔNG LÀM GÌ
HB Jones, Giáo sư Vật lý Y tế, một nhà thống kê ung thư, trong một bài phát biểu trước Hội Ung thư Mỹ vào năm 1969.
“Có rất nhiều số liệu thống kê cho thấy nhiều người chết sớm hơn nếu họ làm theo lời khuyên của bác sĩ và sử dụng tất cả các phương pháp điều trị bệnh ung thư hơn là nếu họ không cần làm gì cả. (Chính nhiều bác sĩ đã chết vì bệnh ung thư, sau khi họ đã qua điều trị y tế).
“Không làm gì bao gồm việc không bị nợ nần do phải dùng các điều trị đắt tiền, không phải là đối tượng thử nghiệm vì những sai lầm y tế và các biến chứng khủng khiếp... không phải chịu đựng do ngộ độc thuốc nguy hiểm và tương tác thuốc,” Tiến sĩ Foster nói.
Tiến sĩ Foster không phải là người duy nhất ủng hộ phương pháp tiếp cận không làm gì.
Walter Last, một chuyên gia hóa - sinh trở thành nhà dinh dưỡng, đã viết trong bài báo của mình: ‘Các phương pháp điều trị ung thư chính thống mang tính khoa học như thế nào? Ngoại trừ một số bệnh hiếm gặp, không có thử nghiệm lâm sàng nào cho thấy những phương pháp này (hóa trị, xạ trị,…) là thành công hơn việc cứ để bệnh nhân không được điều trị.”
Trước đó, Hippocrates, người mà các bác sĩ coi là Cha đẻ của Y học hiện đại, đã viết: “Tốt hơn cả là không áp dụng bất kỳ phương pháp điều trị nào trong những trường hợp ung thư bị che khuất (ẩn); vì nếu điều trị, bệnh nhân chết rất nhanh; nhưng nếu không được điều trị, họ còn chịu đựng được trong một thời gian dài.”
Vậy “không làm gì” nghĩa là gì?
Nghĩa là không vội vàng điều trị y tế chính thống vốn xâm lấn, độc hại và đôi khi rất tàn bạo mà cần nghiên cứu tìm hiểu về bệnh ung thư đó, sau đó nhận trách nhiệm và hành động nhằm thay đổi thái độ và lối sống, đặc biệt là chế độ ăn uống và tập thể dục.
Theo Walter Last, “Nhiều nhà trị liệu ung thư tự nhiên khẳng định tỷ lệ thành công là hơn 90% trong việc kìm hãm và đẩy lùi ung thư, với điều kiện là bệnh nhân trước đó KHÔNG dùng phương pháp điều trị chính thống. Các phương pháp điều trị gây tổn hại nhất là hóa trị và xạ trị.”
Đáng buồn thay, vì nhiều lý do, hơn 90% bệnh nhân ung thư, những người tìm đến phương pháp điều trị tự nhiên/tổng thể/thay thế đã đi theo con đường y tế trước đó, và trong rất nhiều trường hợp, đây là lần thứ hai họ - quanh quẩn với bệnh ung thư trong nỗi tuyệt vọng và chán nản - phải đến gõ cửa các phòng khám và trung tâm chữa trị do các chuyên gia hành nghề chữa bệnh tổng thể điều hành.
Trước khi bạn quyết định dùng phương pháp điều trị nào, bạn nên đọc cuốn sách của Tiến sĩ Chris Teo Ung thư - Những điều bạn cần biết. Ông đã viết những chương rất toàn diện về xạ trị - các tác dụng phụ phổ biến và tác dụng phụ lâu dài. Và hóa trị - tác dụng phụ ngắn hạn phổ biến và tác dụng phụ lâu dài bi thảm.
Câu chuyện thực sự về sự ảnh hưởng ngấm ngầm, nguy hiểm và lâu dài của một số tác dụng theo phương pháp điều trị y tế độc hại, dường như đang được che đậy.
Và bây giờ chúng ta đề cập không chỉ là tác dụng phụ lâu dài của các loại thuốc hóa trị mà cả các loại thuốc khác. Bạn có nghe nói về hormone tăng trưởng nhân tạo DES hoặc diethylstilbesterol? Đúng, từ giữa những năm 1940 đến những năm 1970, loại thuốc này đã được quy định dùng cho những phụ nữ bị sẩy thai. Các chuyên gia y tế công bố thuốc này là “tuyệt đối an toàn”.
Ba mươi năm sau, vào tháng 4/1991, người ta phát hiện rằng DES gây ra bệnh ung thư âm đạo và cổ tử cung ở các con gái của các bà mẹ từng dùng thuốc này!
Ngày nay người ta đang nhanh chóng tìm kiếm nhiều loại thuốc mới trong cuộc đua để đưa ra cách chữa bệnh kỳ diệu khác cho loại ung thư mới/hiếm gặp loại này hay loại khác. Vậy chúng an toàn như thế nào?
Khi bác sĩ chuyên khoa ung thư của Caryn Dunning biết rằng cô đã mang thai, ông thừa nhận rằng nếu cô ấy tham gia đủ thời gian cho phác đồ hóa trị có sẵn thì (thực tế cô ấy đã từ chối nó và thay vào đó tham dự khóa chữa trị ung thư của Trung tâm Gawler) cô sẽ bị vô sinh.
Tiến sĩ Teo lưu ý “có một nguy cơ gia tăng về các khối u ác tính thứ hai trong những người sống sót dài hạn đã được điều trị bằng hóa trị và xạ trị. Một số lớn trong số các loại ung thư thứ hai là ung thư xương, ung thư máu hoặc các khối u mô mềm khác”.
Chúng ta thường đọc trên các phương tiện thông tin đại chúng rằng phương pháp điều trị tổng thể và phương pháp chữa trị bằng dinh dưỡng là không khoa học, và các bằng chứng chỉ mang tính giai thoại. Tất nhiên ai cũng tin rằng các nghiên cứu khoa học và Cơ quan FDA của Mỹ đã chấp thuận thuốc tức là đã được nghiên cứu tỉ mỉ tất cả bằng cách sử dụng các con chuột lang hoặc những con chuột trong phòng thí nghiệm.
Vâng, Tiến sĩ Teo (là một nhà khoa học đã hơn 20 năm), đã trích dẫn từ các nhà khoa học độc lập khác để vạch trần sự tin tưởng mù quáng rằng các thí nghiệm mang tính ngẫu nhiên, được kiểm soát bằng giả dược thực sự mang tính khoa học.
Người nào trả tiền cho nhạc sĩ thì người đó có quyền bảo họ chơi nhạc gì cũng được... điều đó là tự nhiên thôi! Bên cạnh đó, Tiến sĩ Teo nhắc nhở chúng ta rằng dữ liệu từ chuột và thỏ không nhất thiết áp dụng được cho con người. Bạn biết chuột cống ăn gì không? Liệu chúng ta có thể ăn những gì chuột ăn, trộn với tất cả các chất thải thô bẩn thỉu, và liệu chúng ta có tồn tại được?
Và hãy xem xét sự việc này. Để có thể phát hiện tỷ lệ ung thư 1:10.000, có nghĩa là mỗi thí nghiệm ít nhất cần phải có 10.000 con chuột để điều trị, Tiến sĩ Teo viết. Điều đó có phải là hiện thực không? “Không bao giờ. Tuy nhiên, một thí nghiệm với 50 hay thậm chí 100 con chuột không thể cho kết quả tốt được. Điều này cũng giống như cố gắng bắt một con cá voi bằng chiếc cần câu.”
Và, nếu hóa trị và xạ trị có thể có những tác động khủng khiếp và dài hạn như vậy đối với người lớn, thì người ta có thể tưởng tượng nó sẽ tác động ra sao tới trẻ em vốn cơ thể còn non yếu và dễ bị tổn thương?
Hãy đọc câu chuyện cảm động về người mẹ Sew Peng ở Singapore, với sự hỗ trợ của Tiến sĩ Jiang (Đài Loan), cô đã ngừng điều trị hóa trị cho cậu con trai bốn tuổi của mình vì bệnh bạch cầu cấp tính và chỉ sử dụng các loại thực phẩm sống để chữa lành cho con.
Đừng bao giờ vội vàng đưa ra một quyết định về phương pháp điều trị
Các bác sĩ có thể cho bạn biết, “Tốt nhất là bạn nên đi phẫu thuật và bắt đầu hóa trị/xạ trị vào tuần tới. Nếu không, tôi sẽ chào thua và...” Vâng, hãy cứ để bác sĩ hoặc chuyên gia phẫu thuật chào thua đi.
Phải mất nhiều năm thì bệnh ung thư mới biểu lộ ra. Bạn cần một vài tuần, thậm chí hàng tháng, để tìm hiểu về bệnh ung thư của mình, và có thể thấy được sự khác biệt giữa không chỉ sự sống và cái chết, mà còn một cuộc sống chất lượng hoặc một cuộc sống khổ sở suy yếu bởi những phương pháp điều trị y tế tàn bạo.
“Có rất nhiều loại ung thư (đặc biệt là tuyến tiền liệt) bị phát hiện ra khi đi khám sàng lọc ung thư mà chưa phát triển. Sau đó những bệnh nhân ấy được trải qua tất cả các loại điều trị khó chịu mà, NẾU không đi sàng lọc,họ sẽ không bị ung thư. Những bệnh nhân này cũng có thể sẽ sống thêm 20 đến 30 năm nữa và sau đó qua đời vì một cơn đau tim... mà không biết mình có bệnh ung thư.”
- Tiến sĩ Craig Hassed nói trong một bài giảng của ông tại Trung tâm Gawler (tháng 5/2006)
CẢNH BÁO! CÔNG CỤ CHẨN ĐOÁN CÓ THỂ GÂY UNG THƯ
Tiến sĩ John Gofman đổ lỗi cho 75% các trường hợp bị ung thư mới là do các dạng ion hóa bức xạ y tế từ các công cụ chẩn đoán phổ biến gây ra. Chúng bao gồm X-quang, chụp cắt lớp vi tính (chụp CT), chụp quang tuyến vú.
Chúng ta đã nghe Tiến sĩ Lai và Giáo sư Tiến sĩ Niwa đưa ra cảnh báo rằng chính phương pháp điều trị y tế làm gia tăng hoặc phát tán bệnh ung thư.
Bây giờ chúng ta cũng có quan điểm này với với Giáo sư danh dự 82 tuổi về sinh học phân tử và tế bào, người đã nâng tầm cảnh báo rằng ông đã có nhiều năm phủ nhận sự an toàn của các công cụ chẩn đoán, ngăn ngừa ung thư và cứu sống con người.
Ông bổ sung thêm tiếng nói của mình (cộng với một nghiên cứu dày dặn được công bố bởi Ủy ban Trách nhiệm Hạt nhân (CNR), San Francisco) về mối quan tâm này. Nhưng, ngay vào đầu năm 1987, Irwin JD Bross, Giám đốc Thống kê Sinh học tại Viện Memorial Roswell Park nghiên cứu ung thư đã nhận xét về chương trình tầm soát ung thư (quốc gia):
“Những phụ nữ đáng lẽ nên được biết thông tin về các mối nguy hiểm của bức xạ cùng với lúc họ được người ta nói chuyện về chụp quang tuyến vú... thế mà họ đã đi trước và làm X-quang ngay... một sự gia tăng đột ngột phơi nhiễm cho một phần tư triệu phụ nữ đến một mức độ nào đó có thể làm hại nhiều hơn lợi, đó là một tội lỗi.”
Dù bất kỳ chuyên gia nào có thể nói về sự cần thiết và an toàn của chụp quang tuyến vú, thì điều đó cũng không rửa sạch được lỗi lầm với người sống sót ung thư vú như Linda Chan.
Linda Chan hoàn toàn chắc chắn rằng chụp quang tuyến vú đã gây ra ung thư cho bà ba năm trước, khi ấy bà là người ăn chay 60 tuổi khỏe mạnh và hạnh phúc (hãy xem đầy đủ câu chuyện của Linda trong câu chuyện ‘Hành trình đi đến sức khỏe toàn diện’.)
* Có nhiều phương pháp chẩn đoán an toàn hơn được sử dụng bởi các nhà công nghệ y học và bác sĩ tổng thể.