Ăn no hại phổi
Đói thì hại khí
Mặn thì hại cơ
Chua thì hại xương.
Lời nói đầu
Khi một người sắp xa lìa khỏi cõi trần gian, luôn để lại những gửi gắm nhắn nhủ cuối cùng cho người ở lại, đó gọi là di chúc.
Trước khi Đức Phật nhập Niết bàn, có đệ tử đã thưa với Ngài: “Thưa Đức Phật, khi Ngài còn tại thế gian này, chúng con sẽ nương theo Ngài làm thầy của chúng con. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, chúng con sẽ nương vào ai làm thầy?”
Đức Phật dạy rằng: “Các con nên lấy giới luật làm thầy”.
Vị đệ tử đó lại thỉnh ý: “Khi Đức Phật còn trên đời, những kẻ xấu sẽ bị Ngài khuất phục, khi Ngài nhập Niết bàn rồi thì phải làm sao để xử lý những người xấu đó?”
Đức Phật trả lời rằng: “Đối với người xấu thì nên im lặng không quan tâm”.
Vào lúc đó, cũng có đệ tử thưa hỏi Đức Phật, làm thế nào để tu hành và hóa độ chúng sinh? Cho nên, Đức Phật lưu truyền để lại cho người đời sau có Phật di giáo tam kinh, bao gồm ba bộ kinh là: kinh Bát đại nhân giác, kinh Tứ thập nhị chương và kinh Phật di giáo.
Trong ba bộ kinh trên, bộ kinh thứ nhất là kinh Bát đại nhân giác. Chữ Đại nhân có nghĩa là Bồ tát, nghĩa là người hành trì phát tâm tu đạo, tự khích lệ bản thân mình đi trên con đường của tám phương pháp tu hành, đạt đến giải thoát giác ngộ.
Bộ kinh thứ hai, là kinh Tứ thập nhị chương, bộ kinh này được phiên dịch sớm nhất là vào thời Hán Minh Đế (28 - 75 SCN) ở đất nước Trung Hoa. Vào thời điểm đó, Phật giáo chưa được phổ biến và chưa có người chuyên phiên dịch các bản kinh từ Ấn Độ sang Trung Quốc. Vì vậy, ngài Ca Diếp Ma Đằng1 đã chọn lọc một số chương trong kinh điển để phiên dịch, tổng cộng có bốn mươi hai chương, cho nên mới có bộ kinh tên là kinh Tứ thập nhị chương. Mỗi chương có một ý nghĩa trọn vẹn riêng, không có sự liên kết với nhau.
Chú thích:
1 Ca Diếp Ma Đằng (S. Kāśyapa Mātaṇga ? - 73): Thường được biết với các phiên âm Hán Việt với tên Ca Diếp Ma Đằng, Nhiếp Ma Đằng, Trúc Nhiếp Ma Đằng, Trúc Diếp Ma Đằng: Là một cao tăng của Phật giáo Ấn Độ, người có công truyền bá Phật pháp vào Trung Quốc.
Ngoài ra, kinh Phật di giáo do Đức Phật chỉ dạy cũng là một bản kinh chính thức, hướng dẫn các đệ tử phương pháp để hoằng pháp và phục hưng Phật pháp.
Đức Phật đã dạy cho chúng ta cách quản lý bản thân như thế nào, cách hiểu thế giới và cách đối nhân xử thế mọi việc tại thế gian ra sao. Sau đây, chúng ta sẽ lấy những ví dụ tiêu biểu trong ba bản kinh để phân tích rõ:
I. Phương pháp quản lý trong kinh Bát đại nhân giác
1. Cuộc đời vô thường, vật chất mong manh
Con người sống trên đời, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu cũng đều sẽ có nguy cơ gặp các tai họa như gió bão, lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, chiến tranh, v.v. Cõi nước Ta Bà này thật không an toàn, không ổn định, khiến lòng người sợ hãi, rất khó để an cư lạc nghiệp.
Mặc dù hiện tại, chúng ta không thể thay đổi được những hiện tượng tự nhiên và những hiểm nạn do con người tác động gây nên. Vậy thì, chúng ta cần phải thay đổi quan niệm sống của mình, để sống theo hướng tích cực. Chúng ta phải bắt đầu thay đổi bản thân trước, sau đó mới thay đổi được đất nước và xã hội.
Ví dụ: Nhìn từ mặt tiêu cực thì vô thường là điều xấu, là điều không tốt, thế nhưng xét từ mặt tích cực thì vô thường lại có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta. Chẳng hạn như việc quản lý vô thường, Đức Phật đã dạy: “Tôi ngu ngốc, không sao; người khác học một lần, tôi dành nhiều thời gian hơn để học nó 10 lần cho đến 20 lần, đến khi nào tôi hiểu được điều đó. Bây giờ, tuy tôi nghèo khó, nhưng cũng chẳng sao, chỉ cần cố gắng phấn đấu tạo nhiều điều tốt đẹp cho mọi người thì cũng sẽ có một ngày tôi sẽ được giàu sang sung túc”.
2. Biết đủ thường vui, thân tâm tự tại
Tục ngữ có nói: “Ai ít tham vọng thì thất vọng ít; ai tham vọng nhiều thì đau khổ nhiều hơn”. Tham vọng của nhiều người là vô cùng tận, có được tiền lại mong muốn có cả tình; có được số tiền mười ngàn, liền mong muốn có trăm ngàn, mong muốn mãi không có điểm dừng. Do đó, tham vọng chính là cội rễ của đau khổ và vĩnh viễn sẽ không bao giờ thỏa mãn hết được.
Vì vậy, tham vọng càng ít, thì dù ngồi dưới đất cũng giống như ở trên thiên đàng; tham vọng càng nhiều, thì dù ở trên thiên đàng cũng giống như ngồi trong địa ngục. Có thể nói, đau khổ và hạnh phúc của con người là do tham vọng quyết định.
Ngày nay, chúng ta nên ứng dụng cách quản lý bản thân mình: Người có ít tham vọng thì sẽ có cuộc sống bình an thanh thản; tâm hồn bao dung, biết đủ thì mới có thể sống an vui trong đạo nghĩa.
3. Sống đạo là thanh cao, trí tuệ là sự nghiệp
Vào thời nhà Tấn, có một người đã cúng dường đại sư Đạo An1 gần 10 tấn gạo để ủng hộ Phật pháp. Thế nhưng trong chùa không có kho gạo lớn nên mọi người mới nghĩ nhiều cách để chứa số gạo này. Sau đó, đại sư Đạo An đã viết thư cho người cúng gạo này rằng: “Bản tự xin cảm ơn ngài đã cúng dường số lượng gạo lớn như vậy, thế nhưng nhiều gạo quá cũng đã gây thêm rất nhiều phiền muộn cho chúng tôi!”
Chú thích:
1 Đạo An (312 - 385): Cao tăng Trung Quốc, ngài có công lớn là nối kết hai cách tu học Phật giáo: Thiền (s: dhyāna) và Trí tuệ (s: prajñā), cũng là người tổng kết kinh điển thành thư mục, đề nghị các tăng sĩ xuất gia nên mang họ Thích (s: śākya), và soạn ra những nguyên lý sống chung dựa trên Luật tạng. Ngài cũng là người đề xuất việc thờ phụng Di Lặc Bồ tát.
Tính cách của đại sư Đạo An là an bần thủ đạo, ngài chỉ mong muốn có vừa đủ, phàm là cái gì ít thì dễ quản lý, nhiều thì khó quản lý. Vì vậy, việc quản lý thực sự không cần nhiều, không cần phức tạp, mà cần chất lượng chứ không chạy theo số lượng.
4. Tinh tiến hướng thiện, chuyển hóa ưu phiền
Những bậc đại đức cao tăng khi xưa có được thành tựu về đạo nghiệp đều là vì các ngài đã vào sinh ra tử và tinh tiến tu hành. Ví dụ như Đức Phật khiển trách Tôn giả A Na Luật1 rằng:
Ôi chao, kẻ ham ngủ
Thu mình trong vỏ ốc
Một giấc ngủ ngàn năm
Không nghe danh hiệu Phật.
Chú thích:
1 A Na Luật (S. Aniruddha, P. Anuruddha): Dịch ý là Vô Diệt, Như Ý, Vô Chướng, Vô Tham, người theo nghĩa thuận, không tranh có không. Một trong mười vị đệ tử lớn của Đức Phật, là em họ của Phật, dòng họ Thích, người thành Ca Tỳ La Vệ thuộc Ấn Độ cổ đại. Trong khi nghe Đức Phật giảng pháp, ngài A Na Luật thường hay ngủ gật, bị Phật quở trách, bèn thề không ngủ, đến nỗi đau mắt rồi bị mù. Nhưng nhờ tu hành càng ngày càng tinh tiến, con mắt tâm dần dần khơi mở, và cuối cùng, ngài đã trở thành bậc có thiên nhãn đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật, có khả năng thấy suốt trên trời, dưới đất và chúng sinh trong sáu đường.
Tôn giả A Na Luật bị Đức Phật khiển trách, nên trong lòng cảm thấy hổ thẹn. Kết quả, ngài nỗ lực tinh tiến tu hành đã chứng đắc được thiên nhãn thông.
Tục ngữ có câu: “Cần hữu ích, hý vô công” (chăm chỉ thì hữu ích, vui chơi là vô ích). Dưới vòm trời này không có bữa ăn nào là miễn phí, cũng không có ai không làm gì mà có được thành tựu. Chúng ta muốn có thành tựu, thì phải xem chúng ta đã làm được những gì. Ví như khi chúng ta đề ra mục tiêu cho cuộc đời này là sống đến “trăm tuổi”, thế thì để sống được đến độ tuổi đó, chính bản thân chúng ta phải cần cù nỗ lực, cố gắng tạo dựng nên mọi thứ chứ không phải chờ đợi từ đầu cơ, mưu lợi mang đến.
Việc này cũng ví như chúng ta chỉ có thể làm một việc nhưng vì chúng ta hiểu cách “quản lý”, biết cách sử dụng thời gian của mình một cách khôn ngoan nên có thể xử lý được nhiều việc cùng một lúc.
5. Học rộng hiểu nhiều, trí tuệ ngời sáng
Chúng ta nên học rộng hiểu nhiều, không nên chỉ chuyên tu một tông phái, không nên chấp trước vào kiến thức hạn hẹp nào, không nên có thành kiến với một môn phái nào. Không nên độc quyền, mà nên nghe thấu những ý kiến khác nhau của mọi người, nên lắng nghe sự hướng dẫn của các bậc thiện tri thức, tiếp thu thông tin từ sách báo, đài, bài giảng, v.v. từ các thiết bị công nghệ ngày càng phát triển.
Đức Phật cũng đã dạy chúng ta hết lần này đến lần khác, là phải biết tàm quý, phải biết cái mốc giới hạn tri thức của chúng ta, nên phải không ngừng trau dồi học hỏi. Ví dụ, tôi không hiểu nhiều về khoa học và công nghệ, cũng như không hiểu nhiều về lý luận triết học, thậm chí là chưa thể hoàn thiện các nguyên tắc đối nhân xử thế. Do còn có những thiếu sót nên bản thân luôn cảm thấy hổ thẹn, và tôi cần phải học tập nhiều thêm kiến thức hơn nữa. Do đó, phương pháp quản lý để khích lệ cho bản thân chính là lấy tâm tàm quý.
6. Không ghìm thù xưa, chẳng ghét người xấu
Người học Phật không nên có lòng “thù dai” với người khác, dù người khác có lỗi thì cũng nên học cách tha thứ cho họ.
Đương nhiên, chúng ta muốn đạt được trình độ này không phải là việc dễ dàng. Thế nhưng, nếu như chúng ta có thể đạt được trình độ không oán ghét khi “gặp mặt đối thủ” và đối xử với họ tử tế như người thân quen thì chúng ta đã giải thoát rồi. Để đạt được đến trình độ này, điều quan trọng nhất là chúng ta phải có tấm lòng vị tha của Bồ tát.
Như việc Đề Bà Đạt Đa1 đã hai, ba lần gây trở ngại cho Đức Phật: Tung tin đồn nhảm, vu cáo và sai người hành hung, muốn hại chết Đức Phật. Thế nhưng lần nào Đức Phật cũng tha thứ cho Đề Bà Đạt Đa và còn nói với các đệ tử của mình rằng: “Đề Bà Đạt Đa là người đối nghịch làm tăng thêm duyên lành cho ta và cũng là thiện tri thức của ta”.
Chú thích:
1 Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) (Hán dịch: Thiên Nhiệt, Thiên Thụ, Thiên Dữ): Vị Tỳ kheo xấu ác, phạm tội ngũ nghịch, phá hoại Tăng đoàn, đối địch với Phật. Thưở nhỏ, ông học tập cùng thái tử Tất Đạt Đa, Nan Đà, tài năng ông xuất sắc nên thường tranh đua với thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi thái tử Tất Đạt Đa thành Phật, ông theo Phật xuất gia, trong khoảng 12 năm đầu, ông dốc lòng tu đạo, siêng năng tinh tiến. Sau vì không được thánh quả nên ông thoái tâm và muốn học thần thông để cầu lợi dưỡng, Đức Phật không cho, Đề Bà liền đến chỗ Thập Lực Ca Diếp học thần thông, được thái tử A Xà Thế của nước Ma Kiệt Đà cúng dường. Do đó, Đề Bà càng kiêu mạn hơn, muốn thay Phật lãnh đạo Tăng đoàn. Sau đó, Đề Bà cầm đầu 500 đồ chúng thoát ly Tăng đoàn, tự xưng Đại sư, đặt ra năm pháp và cho đó là con đường tới Niết bàn mau chóng. Đây là việc phá hòa hợp tăng.
Cho nên, nghịch tăng thượng duyên cũng là một phương pháp quản lý giúp chúng ta đạt được thành tựu cao hơn trong đạo nghiệp và sự nghiệp.
7. Sống giữa dòng đời, không nhiễm thói tục
Có người nói: “Tiền là tất cả”. Câu này không hoàn toàn đúng.
Ví dụ, người có tiền thì có thể mua thức ăn ngon, nhưng không mua được sự ngon miệng; người có tiền có thể được thuốc men, nhưng không mua được sức khỏe cho mình; người có tiền có thể mua giường cao nệm tốt, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; người có tiền có thể mua lời khen ngợi, nhưng không mua được người tri kỷ; người có tiền có thể mua được quần áo lộng lẫy, nhưng không mua được khí chất cao sang; người có tiền có thể mua được sách vở, chứ không mua được trí tuệ.
Trong lúc bận rộn tích lũy tài sản, bảo vật trên đời, chúng ta đã dần đánh mất đi bảo vật ngay bên trong chính mình. Do đó, chúng ta nên thực hành như theo phương pháp quản lý “Thất thánh tài”1 của Phật giáo như: Có niềm tin là tài bảo, vì nó giúp chúng ta đạt được hạnh phúc về thể chất và tinh thần; biết tàm, quý là tài bảo, từ đó chúng ta mới có thể tăng trưởng điều lành; giữ giới là tài bảo, vì có thể khiến chúng ta được tự do và giải thoát.
Chú thích:
1 Cũng gọi Thất tài, Thất đức tài, Thất pháp tài. Chỉ cho bảy thánh pháp để thành tựu Phật đạo. Đó là tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ. Vì bảy pháp được gìn giữ này có công năng trợ giúp cho sự nghiệp thành Phật nên gọi là tài (của cải). 1. Tín tài: Tin nhận chính pháp. 2. Giới tài: Giữ gìn giới luật. 3. Tàm tài: Tự hổ thẹn không dám làm các việc xấu ác. 4. Quý tài: Tâm sinh hổ thẹn khi làm điều bất thiện. 5. Văn tài: Có khả năng nghe chính giáo. 6. Thí tài: Lìa bỏ tất cả không đắm trước. 7. Định tuệ tài: Thu nhiếp tâm không tán loạn, chiếu soi rõ các pháp.
8. Phát tâm Đại thừa, cứu độ tất cả
Tổng thống Hoa Kỳ Lincoln (1809 - 1865) đã nói: “Được cống hiến là một niềm vui và đó cũng là đức tính cao quý nhất trong cuộc đời”.
Cuộc sống sinh hoạt của bất cứ sinh mệnh cá nhân nào trong xã hội, luôn phụ thuộc vào việc cung cấp nhu yếu phẩm hằng ngày đến từ các đoàn thể xã hội chứ không thể tự mình tự cung, tự cấp hoàn toàn được.
Làm thế nào để chúng ta có phương pháp quản lý giúp bản thân thăng hoa? Đức Phật dạy rằng, chúng ta phải biết xây dựng tinh thần trách nhiệm với bản thân, gia đình, người thân, thầy cô và mở rộng cuộc sống. Chúng ta không chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân mà còn phải nghĩ đến việc góp phần làm việc cho công chúng, phục vụ mọi người, giúp người khác được thành tựu và mang lại lợi ích cho xã hội.
Như trong tác phẩm Phật Quang thái căn đàm có nói: “Giá trị của cuộc sống nằm ở việc nhận thức được bản thân, ý nghĩa của cuộc sống nằm ở việc phụng sự công chúng”.
II. Phương pháp quản lý trong kinh Phật thuyết Tứ thập nhị chương
1. Thiện ác phân minh, nên làm việc lành
Chỉ dựa một ý niệm, có thể biết được người tốt và người xấu. Thế nhưng ngày nay, đôi khi con người không phân biệt được đâu là tốt và đâu là xấu. Ví dụ những việc như dùng tiền tham ô lừa gạt để quyên góp làm từ thiện.
Trong pháp Phật có nói, động lực để phát tâm rất quan trọng. Ví dụ như, trong việc tu tập sáu giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, v.v. việc nhìn người bằng đôi mắt có lễ giáo, có quy tắc là thể hiện sự tôn trọng, nếu như nhìn chằm chằm vào người khác thì sẽ khiến họ không hài lòng, không vui.
Một ví dụ khác là, chúng ta không nên dùng tai nghe chuyện thị phi, mà nên nghe kỹ, nghe thấu, nghe đến cùng những điều tốt đẹp. Chúng ta làm tất cả những việc trên đều là đang tu tập những điều thiện tốt đẹp.
Vì vậy, trong nhà Thiền có nói: “Trăm ngàn pháp môn, đều quay về một nơi”. Việc quản lý giữa các pháp môn đòi hỏi sự sáng suốt và trí tuệ của chúng ta.
Có lời dạy: “Pháp không có thiện ác, thiện ác chính là pháp” nghĩa là như thế nào? Nghĩa là nói không có sự khác biệt giữa thiện ác, tốt xấu trên thế giới này, vì mọi việc đều phụ thuộc vào việc chúng ta đã làm những gì, nên mới có sự phân biệt giữa thiện - ác, tốt - xấu.
2. Bỏ ác làm lành, tiêu trừ tội lỗi
Trong Phật giáo có câu: “Người không phải thánh hiền, có ai chưa từng tạo tội?”
Mắc lỗi chưa hẳn là việc nghiêm trọng nhưng đã làm sai lại không biết sám hối mới là việc nghiêm trọng. Điều này ví như quần áo của chúng ta dơ bẩn lấm lem thì phải dùng nước để tẩy giặt sạch sẽ. Hình ảnh ẩn dụ cho việc sám hối có thể tẩy trừ những chỗ dơ bẩn của chúng ta, làm tăng thêm công đức thiện duyên và tiêu trừ tội lỗi.
Lại ví như việc bỏ một nắm muối vào cốc nước, nước trong cốc sẽ mặn, còn nếu bỏ nắm muối vào cái thùng nước lớn, nước trong thùng sẽ không bị mặn. Nước bị mặn hay nhạt tựa như nước công đức của chúng ta, chỉ cần chúng ta có nhiều công đức tốt lành thì có thể giảm trừ được tội lỗi.
Cách “sám hối”1 trong Phật giáo chính là phương pháp quản lý tốt nhất để tiêu trừ tội lỗi nghiệp chướng. Nếu một người biết tha thiết “sám hối” thì liền có thể thay đổi được cục diện cuộc sống tương lai sau này và được nhiều phúc báo.
Chú thích:
1 Sám hối (s: deśanā, kṣama, paṭi karoti, āpatti-pratideśanā): Còn gọi là hối quá (ăn năn những điều sai lầm), là hành vi bộc bạch trước chư Phật và các vị Tỳ kheo về những tội lỗi, sai lầm tự mình phạm phải và cầu xin được công nhận. Nguyên ngữ tiếng Sanskrit của từ này có mấy loại khác nhau. Kṣama nghĩa là cầu xin tha tội và ăn năn, hối lỗi với những tội lỗi của quá khứ. Trong kinh A hàm, có nhiều trường hợp bộc bạch tội lỗi lên Đức Thế Tôn và cầu xin tha tội. Trong Phật giáo Đại Thừa, có nghi thức lễ bái mười phương chư Phật, phát lộ những tội lỗi của ba nghiệp thân, khẩu, ý cũng như các tội lỗi khác và cầu xin sám hối.
3. Không giận người ác, ở ác gặp ác
Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đối xử tệ, mắng nhiếc người khác và sống ác với mọi người?
Đức Phật dùng một ví dụ để hỏi các đệ tử: “Nếu các con đem tặng một món quà mà người đó không nhận, thì phải xử lý như thế nào?”
Người đệ tử nói: “Nếu con đem tặng quà mà người ta không nhận thì tất nhiên con phải đem về”.
Đức Phật nói: “Việc này cũng giống như một người có đức hạnh sẽ không bị tổn hại bởi lời vu khống của người khác và hậu quả thường sẽ trả lại cho người nói lời vu khống đó”.
Lại có một ví dụ khác, vào thời nhà Đường, Hàn Sơn1 hỏi Thập Đắc: “Người đời vu khống tôi, lừa dối tôi, sỉ nhục tôi, cười nhạo tôi, xem thường tôi, khinh rẻ tôi, bắt nạt tôi, ghét bỏ tôi, tôi phải ứng xử như thế nào?”
Chú thích:
1 Hàn Sơn: Cũng gọi Hàn Sơn Tử, là một dị nhân trong Phật giáo Trung Quốc đời nhà Đường. Ông thường được nhắc đến cùng với thiền sư Thập Đắc và Phong Can. Cả ba vị đều là những nhân vật độc đáo trong lịch sử Thiền tông, tạo thành một trong những đề tài hấp dẫn của lối vẽ tốc họa bởi các nghệ sĩ thiền. Những bài thơ của Hàn Sơn khắc trên vách đá được sưu tầm và lưu truyền dưới tên Hàn Sơn thi.
Thập Đắc trả lời: “Cách duy nhất là nên nhẫn nhịn cho qua, tránh xa, mặc kệ, v.v. qua mấy năm sau mới nhìn lại!”
Thật ra, trong quản lý, sự nhẫn nại và sức chịu đựng là một loại trí tuệ, sức mạnh, hóa giải và đó cũng là một cách thể hiện lòng từ bi.
4. Ngược gió ném đất, tự chuốc bụi dơ
Có một hôm, Đức Phật đến thành Xá Vệ để khất thực. Trên đường đi, Đức Phật liền gặp một người Bà la môn. Khi nhìn thấy Đức Phật, người Bà la môn này mắng nhiếc chửi rủa luôn mồm. Đức Phật vẫn điềm nhiên mặc kệ ông ta, an nhiên tiến bước về phía trước. Bà la môn này thấy Đức Phật vẫn bình thản thì càng tức giận nên cúi xuống nắm một nắm đất ném về phía Đức Phật. Thật không may, lúc đó có một cơn gió thổi về hướng của người Bà la môn. Kết quả là bụi đất do người này ném đi bị gió thổi bay ngược trở lại, nên toàn thân ông ta dính đầy cát bụi.
Lúc này Đức Phật căn dặn các đệ tử: “Nếu có người nào vô cớ chửi mắng bậc thánh thanh tịnh vô cấu nhiễm thì kẻ mắng chửi đó sẽ tự chuốc lấy tai họa; chẳng khác nào như người ác ý ném đất trong gió sẽ tự làm ô uế chính mình”.
Từ câu chuyện trên có thể thấy Đức Phật đã dạy cách xử lý ưu việt nhất để hóa giải tất cả những việc thị phi chính là “im lặng”.
5. Hoan hỷ với người làm việc lành sẽ được phúc báo lớn
Khen ngợi người làm việc thiện là một loại “tùy hỷ công đức”. Giả sử như nói: “Tôi không có tiền để quyên góp, cũng không có thời gian để phục vụ người khác, thậm chí tôi cũng không biết nói lời tốt đẹp, như vậy làm sao tôi có thể làm từ thiện?”
Kinh Phật dạy, chỉ cần chúng ta hoan hỷ khi thấy người khác làm việc thiện, trong lòng ta có cảm giác vui; thấy người khác nói điều tốt đẹp, ta khen ngợi; thấy người khác có ý tốt, ta cũng vui mừng theo vì lòng hảo tâm của họ. Do chúng ta có tâm hoan hỷ vui vẻ, thuần tịnh trong sáng nên công đức khen ngợi người bố thí này còn tốt hơn nhiều so với việc bố thí nói hay nói khéo hoặc cúng dường tiền của.
Trong kinh có câu: “Một niệm thanh tịnh khởi lên có thể diệt trừ 84.000 trọng tội”. Một niệm thanh tịnh, một tâm thanh tịnh như lời Đức Phật dạy “tùy hỷ công đức” đem tâm hướng thiện vĩnh hằng trong chân, thiện, mỹ. Vì vậy, công đức bố thí bậc nhất chính là tùy hỷ công đức .
6. Vượt khó chuyên tu, hiểu rõ nhân quả
Có người đi chùa luôn cầu trời, Phật, Bồ tát phù hộ cho mình sống lâu, gia đình hòa thuận, thăng quan tiến chức, v.v. Đây thật không hợp với lẽ phải của nhân quả.
Vì không làm đất gieo hạt thì làm sao lại trông mong trong ruộng có lúa để thu hoạch? Chỉ cần giữ được năm giới thì ta không cần phải cầu nguyện, điều gì cũng sẽ tự nhiên có kết quả tốt đẹp.
Thí dụ: Không giết hại mà phóng sinh thì tự nhiên sống lâu; không trộm cắp mà bố thí thì có được của cải, phú quý; không tà dâm, coi trọng danh tiết của người khác thì gia đình sẽ hòa thuận; không nói dối và nói đâm thọc thì sẽ được danh tiếng tốt; nếu chúng ta không uống rượu, không sử dụng ma túy, thân thể của chúng ta sẽ khỏe mạnh và thông minh sáng suốt.
Hiện tại, chúng ta được giàu sang phú quý hay là bần cùng nghèo khó, đều là do chúng ta đã làm điều tốt hay điều ác ở quá khứ. Chúng ta muốn có được cuộc sống sung túc giàu sang, không còn nghèo hèn, tuyệt vọng ở tương lai thì phải làm sao? Điều này sẽ phụ thuộc vào những hành động của chúng ta ngay trong cuộc sống này. Cho nên, cách quản lý “nhân quả” như “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu” được xem là chân lý cụ thể, rõ ràng nhất.
7. Nhẫn nhịn làm thiện, được người tôn trọng
Thiền sư Bạch Ẩn1 bị tín đồ hàm oan, họ đem đứa bé sơ sinh cho ngài nuôi. Đứa trẻ này là do con gái của họ tư tình với người khác sinh ra. Thiền sư không giải thích việc này nên phải nhận chịu sự chê cười, đánh mắng của người khác. Cho đến khi sự việc được sáng tỏ thì thiền sư chỉ cười mà nói rằng: “Các vị hãy đem em bé này về đi!” Thiền sư Bạch Ẩn từ bi nhẫn nhục, chính bản thân mình bị hàm oan cũng xem như không có việc gì xảy ra, ngài tôn trọng thể diện và nhân cách của người khác nên kết quả là được mọi người kính trọng.
Chú thích:
1 Thiền sư Bạch Ẩn Tuệ Hạc (Hakuin Ekaku 1685 - 1768): Là vị tăng thuộc tông Lâm Tế - Nhật Bản, hiệu Hạc Lâm, người Tuấn Hà (huyện Tĩnh Cương). Mười lăm tuổi, sư xuất gia ở chùa Tùng Ấm (huyện Tĩnh Cương, quận Tuấn Đông, Đinh Nguyên), nối pháp của ngài Tín Nùng (huyện Trường Dã), ở núi Phạn, đứng đầu trong chùa Diệu Tâm. Bình sinh sư không thích danh lợi, từng đi nhiều nơi hoằng pháp, thích đời sống nông dân và ở trong ngôi chùa nghèo nàn ở các vùng quê, người đời gọi là Tổ Trung Hưng tông Lâm Tế, là cha đẻ của tông Lâm Tế hiện đại. Sinh thời sư cũng đề xướng giảng diễn để mở rộng Phật pháp. Ngoài việc phục hưng chùa Tùng Ấm ra, sư còn khai sáng chùa Quan Âm trên núi Diệu Trí, chùa Tân Vô Lượng, chùa Tam Đảo Long Trạch, v.v.
Để thực sự cứu giúp người khác, chúng ta phải học cách quản lý “từ bi” của Bồ tát Quán Thế Âm, bởi chúng ta có lòng từ bi, thì mọi người ai cũng chấp nhận chúng ta cứu giúp.
Vì vậy, khi chúng ta giúp đỡ người khác, không màng đến lợi ích, được mất của cá nhân, nỗ lực hết mình để tháo gỡ khó khăn cho tất cả mọi người thì lúc đó chúng ta mới có thể giúp họ thoát khỏi khổ đau, được an vui hạnh phúc.
8. Trừ sạch cấu bẩn ái dục liền có thể thấy đạo
Có người như con thiêu thân, đâm đầu vào lửa đến nỗi muôn lần chết cũng bởi vì ái dục. Ái chính là tình yêu thương nhưng tình yêu thương này cũng chia ra trong sạch, cao thượng và u ám, đen tối; có sự chiếm hữu và cũng có sự dâng hiến. Ái được ví như mật ngọt trên lưỡi dao sắc bén, muốn nếm chút ngon ngọt của mật thì có nguy cơ bị thương.
Trong kinh có câu:
Sông ái ngàn thước sóng
Biển khổ vạn trùng khơi.
Vì thế, Đức Phật dạy chúng ta quản lý “ái”, chính là đem “ái” thăng hoa, chuyển hóa thành tâm từ bi hướng đến mọi người. Như việc Đại Vũ1 trị thủy, ông dành toàn tâm toàn ý cho công việc mà mình đang đảm nhận. Ba lần đi qua trước cửa nhà mình, ông không hề bước chân vào dù đã xa cách gia đình 13 năm ròng. Bởi vì, ông muốn giúp cho mọi người thoát khỏi cảnh bị nước lũ cuốn trôi nên ông đã gác lại tình riêng với người nhà của chính mình.
Chú thích:
1 Đại Vũ, còn gọi là Hạ Tử Thành hay Hạ Đại Vũ (2298 - 2198 TCN), là vị vua thành lập nhà Hạ ở Trung Quốc thời cổ đại, xác lập chế độ cha truyền con nối. Ông nổi tiếng với về việc chống lũ, nhân cách đạo đức ngay thẳng.
9. Học đạo thấy đạo, vô minh liền dứt
Trong kinh, Đức Phật đã nhiều lần nói về tầm quan trọng của trí tuệ ý muốn chúng ta có thể vĩnh viễn tránh xa ngu si. Chẳng hạn như trong kinh Bách dụ1, có nhiều câu chuyện như: Giết con thành gánh, Kẻ ngu ăn muối, Phú ông chỉ muốn xây tầng lầu thứ ba, v.v. đều chỉ rõ sự đáng sợ của ngu si.
Chú thích:
1 Kinh Bách dụ: Còn gọi là kinh Bách cú thí dụ, kinh Bách cú thí dụ tập, kinh Bách thí. Kinh này được tập hợp chọn lọc từ những sự tích thí dụ về quả báo thiện ác tội phúc mà thành, viết theo hình thức ngụ ngôn, dùng một trăm (nay còn chín mươi tám thí dụ) câu chuyện để giảng thuyết về những giáo lí cơ bản của Phật giáo. Phần lớn tích truyện lấy dân chúng phổ thông làm đối tượng, cũng có khi đối với tín đồ ngoại đạo, chúng xuất gia và cả nhà vua mà nói, tất cả đều dùng thí dụ dạy bảo để tăng thêm sự hiểu biết.
Lại như các ví dụ khác, nói về những việc ngu xuẩn như: Thương nhân thu mua nhưng không bán để đầu cơ trục lợi; Nông dân phá bỏ hàng rào phía đông để lấp bức tường phía tây; Phú ông mua nhiều nhà, rồi phải chi tiêu một khoản tiền để thuê người quét dọn, v.v. Hay như câu chuyện Người mù xem voi đã cho chúng ta thấy rõ rằng, chỉ có cách quản lý trí tuệ khôn ngoan thì mới có thể nhìn rõ chân tướng sự thật.
Để giải quyết một vấn đề, chúng ta không chỉ nhìn trước, nhìn sau, không chỉ nhìn vẻ bề ngoài mà còn phải nhìn vào cả nội dung bên trong. Chỉ có hiểu biết một cách toàn diện, chúng ta mới có thể nhìn ra cốt lõi của vấn đề một cách rõ ràng, từ đó mới đưa ra những nhận định đúng đắn để giải quyết chúng.
10. Tham cầu danh vọng, uổng công vô ích
Mọi người ai cũng mong có được danh tiếng, thế nhưng lại có người vì ham cầu danh vọng mà không ngại khen mình chê người, soi mói các lỗi lầm của người khác. Những việc làm này của họ, không những làm xấu đi mối quan hệ với mọi người mà còn phải gánh lấy tiếng xấu làm mất đi con đường tốt đẹp của tương lai.
Thực ra, danh thơm, tiếng tốt không cần cầu ở đâu xa, bởi “ai làm điều thiện, phúc đức sẽ có thừa”. Nếu chúng ta quản lý tốt từ những hành vi lời nói, làm người có uy tín, có đạo đức, thân thiện với mọi người xung quanh, với hàng xóm, láng giềng, miệng luôn khen người, vui vẻ làm việc tốt thì còn sợ gì không có được danh thơm tiếng tốt.
11. Tài sắc chiêu khổ như dao dính mật
Xưa có người nước Tề (1046 - 221 TCN), vì tham luyến vàng bạc mà trở thành kẻ ngốc. Có một lần ở trong chợ, anh ta đến tiệm vàng, trộm vàng rồi bỏ chạy, lính canh bắt được anh ta trên đường liền hỏi: “Tại sao ngươi dám lấy trộm vàng của người ta trước chốn đông người? Anh ta liền nói: “Lúc lấy vàng, tôi chỉ thấy vàng, không thấy ai ở đấy”.
Cho nên, khi một người đặt tâm tư vào tiền bạc của cải, thì trong tâm của người đó sẽ bị của cải, danh vọng che mờ mắt, chẳng khác nào người trộm vàng người nước Tề kia, trong mắt anh ta chỉ có vàng mà không thấy người bán vàng. Những ai tham luyến của cải sẽ không thấy được những hậu quả khó lường đang chờ họ phía sau.
Vì vậy, Đức Phật dạy chúng ta nên dùng “tâm xả” (tâm buông bỏ) để chế ngự lòng tham và đó cũng là phương pháp tốt nhất để chúng ta thoát khỏi tâm tham. Khi chúng ta có thể từ bỏ tâm tham đem lại niềm vui, sự thuận lợi và hy vọng cho người khác thì chúng ta mới có thể thanh thản tự tại. Phúc báo sẽ tự nó sinh ra mà không cần tìm cầu, cho nên mới có câu:
Tâm tham bỏ được một phần
Tâm xả vui vẻ nhiều lần tăng lên.
12. Trong đạo có đạo, có thể đắc đạo
Khi chưa xuất gia, Nhị Thập Ức Nhĩ (Sona) là một thầy giáo âm nhạc. Sau khi xuất gia học đạo làm đệ tử của Đức Phật, tuy ngài rất cần mẫn tinh tiến tu học nhưng vẫn không thấy được đạo nên đạo tâm thoái lui.
Khi biết chuyện, Đức Phật liền hỏi: “Dây đàn quá căng hoặc quá chùng, hậu quả sẽ là gì?”
Nhị Thập Ức Nhĩ nói: “Nếu dây đàn quá chùng sẽ không có âm thanh; nếu dây đàn quá căng thì âm thanh không đều và dây dễ đứt”.
Đức Phật nói, việc này cũng giống như việc tu học, không thể quá căng thẳng hoặc quá lười nhác, nên phối hợp hài hòa như phép “trung đạo”.
Đức Phật đã hướng dẫn các đệ tử của mình thực hành phương pháp quản lý “trung đạo” không nên quá khăng khăng cố chấp thì mới dễ dàng thấy được đạo.
Cũng giống như đôi mắt coi “giấc ngủ” là chế độ ăn uống của chúng, ngủ đúng cách sẽ đi được quãng đường dài hơn nhưng ngủ quá nhiều sẽ lãng phí cuộc sống.
13. Chuyển đổi thù thắng, tinh tiến hành đạo
Trong kinh Niết bàn dạy:
Thân người rất khó được
Gặp Phật lại khó hơn
Như rùa mù trong biển
Trăm năm nổi một lần
Đầu lọt vào bọng cây
Lênh đênh trên biển lớn.
Cho nên mới nói “Thân người khó có được, Phật pháp khó nghe hiểu, được thân như đất trong móng tay, mất thân như đất cả địa cầu”. Chư Phật ba đời đều đã thành Phật ở nhân gian, vì nhân gian “khổ vui lẫn lộn”. Cho nên, cõi nhân gian này là nơi tu hành tốt nhất.
Trong kinh, Phật dạy: “Trước khi ta thành Phật, đã tạo nhiều thiện duyên”. Tựa như một số người khi gặp khó khăn sẽ luôn có quý nhân giúp đỡ kịp thời, đó là vì họ đã có nhiều nhân duyên tốt đẹp với nhau. Vì thế, việc hình thành mối quan hệ rộng lớn tốt đẹp của ngày hôm nay chính là bước chuẩn bị cho tương lai sau sẽ có người giúp đỡ.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng có thể bồi dưỡng những thiện duyên cho tương lai sau này bằng cách nói năng tử tế với mọi người; tạo cho mọi người một chút thuận lợi và cũng có thể tạo nên những mối quan hệ tốt đẹp bất khả tư nghì; luôn tôn trọng người khác, giữ tâm luôn vui vẻ thì có thể tạo ra được những nhân duyên tốt đẹp cho mai sau. Có thể nói, những điều này chính là cách quản lý “rộng kết thiện duyên”.
14. Vừa sinh đã diệt, chớ sống buông lung
Đức Phật hỏi các thầy Tỳ kheo: “Mạng người sống trong bao lâu?”
Thầy thứ nhất trả lời: “Mạng người sống từ sáng đến tối”.
Phật hỏi người khác, thầy thứ hai trả lời: “Mạng người sống trong khoảng bữa ăn”.
Thầy thứ ba liền trả lời: “Mạng người sống trong một hơi thở”.
Đức Phật khen ngợi thầy thứ ba rằng: “Con là người thật sự biết mạng sống là quý giá và biết được vô thường nhanh chóng qua mau”.
Sinh mệnh là quý giá nhưng sinh mệnh chỉ có trong một hơi thở, thế thì chúng ta phải làm sao mới có thể nắm giữ sinh mệnh cho tốt? Và đó cũng là lý do tại sao Đức Phật dạy các đệ tử của mình, những người biết sử dụng thời gian để tu tập và rèn luyện là những người hiểu được ý nghĩa của sinh mệnh.
Như vậy, sống trong xã hội bận rộn này, chúng ta cũng phải học tập cách “tận dụng thời gian” để quản lý cuộc sống của chính bản thân mình. Như việc sinh viên, học sinh có thể lẩm nhẩm tính toán hay học thuộc lòng, khi ngồi trên xe đến trường; quý bà nội trợ có thể lập kế hoạch làm thế nào để tăng thu nhập, giảm chi tiêu hoặc niệm danh hiệu Phật trong khi làm việc nhà; các chính trị gia có thể tận dụng thời gian sau khi giải quyết công việc để kiểm thảo những việc làm được hay chưa làm được của mình.
Chúng ta có thể thấy được những khoảng thời gian mấy phút tưởng chừng như ngắn ngủi này nhưng vô hình trung chúng sẽ tích lũy lại và có những ảnh hưởng nhất định đến mọi người.
III. Phương pháp quản lý trong kinh Phật di giáo
1. Lấy giới làm thầy, như trong bóng đêm được đèn soi sáng
Khi Đức Phật sắp nhập Niết bàn, các đệ tử rất sầu khổ, nghĩ rằng sẽ không bao giờ được gặp lại Đức Phật, trong lòng không khỏi xót xa. Thế nhưng, Đức Phật đã căn dặn các đệ tử rằng: “Các con nên lấy giới làm thầy”.
Trong đạo Phật có nói rằng “y pháp bất y nhân” có nghĩa là mọi người nên lấy tiêu chuẩn từ quy tắc, chế độ, giới luật để tuân theo. Thậm chí, những điều này còn chuẩn mực hơn cả những người thầy khác. Như trong một quốc gia tự do và dân chủ, họ cũng đều coi “pháp quyền quan trọng hơn nhân quyền”.
Phật giáo khuyến khích người theo đạo Phật quy y Tam bảo, giữ gìn năm giới và làm nhiều việc thiện. Thế nhưng, không phải chỉ có người theo đạo Phật mới phải giữ giới, mà thực tế thì mọi người ai cũng có thể thụ trì giới pháp. Bằng chứng cho thấy, những người giữ được năm giới thì có cuộc sống an nhàn thanh thản, thân tâm tự tại; còn những người không giữ được năm giới đều đang bị giam giữ trong ngục tù đau khổ.
Vì vậy có thể nói, “thụ giới” cũng là một kiểu quản lý cái tâm của chúng ta, và chắc chắn người giữ giới phải là người tuân thủ pháp luật.
Một người làm trái pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị, điều này cũng chính là nói người vi phạm giới luật thì sẽ bị luật nhân quả trừng phạt thích đáng.
2. Tiết chế ăn uống, sống đời cao thượng
Tục ngữ có câu: “Ăn bảy phần no”, nghĩa là không nên tham cầu, không ăn quá no. Tôn Tư Mạc1 đời Đường có nói rằng:
Ăn no hại phổi
Đói thì hại khí
Mặn thì hại cơ
Chua thì hại xương.
Chú thích:
1 Tôn Tư Mạc: Được người đời tôn xưng là Dược Vương và Tôn Thiên Y, là một bậc thầy thuốc nổi danh thời cổ đại của Trung Hoa, uyên thâm Nho, Lão, Phật, trước tác có Thiên kim yếu phương và Thiên kim dực phương.
Ăn quá nhiều, quá ít, quá mặn, quá ngọt sẽ dễ sinh bệnh. Do đó chúng ta ăn mặn, ngọt, chua, cay, v.v. phải có chừng mực thì mới khỏe mạnh.
Ngoài ra, sống theo Bát chính đạo, như “chính mạng”, nghĩa là Đức Phật giảng dạy các đệ tử của Ngài, phải sống một đời sống minh bạch chính đáng, nên xa lìa các việc làm ăn mưu mô không đúng theo chính pháp. Bởi vì, hầu hết mọi tội lỗi đều xuất phát từ những mưu cầu không phù hợp gây nên, chẳng hạn như mở sòng bạc, lò giết mổ, v.v.
Vậy nên, quản lý theo “Bát chính đạo” nghĩa là khi chúng ta đi theo tám con đường sống chính đáng thì cuộc sống sẽ tràn đầy ánh sáng, gia đình an vui hòa thuận, xã hội đoàn kết hài hòa.
3. Bám gót người giàu là điều không nên làm
Trên thế gian này, có một số người, khi nhìn thấy người có quyền có thế thì sẽ chào đón, nịnh nọt, nói những điều trái ý mình và làm một số việc không chính đáng để thu lợi. Kiểu sống tự hạ thấp chính mình để ăn bám cường hào, a dua nịnh bợ của họ sẽ khiến người khác xem thường.
Ngoài ra, cũng có một số người sống theo kiểu “gió chiều nào xoay theo chiều ấy”. Bởi họ có cách sống rất linh hoạt, biết nhìn thế sự xoay vần để đầu cơ mưu lợi. Họ làm việc không có nguyên tắc, làm người thì không có quan điểm, điều này khiến cho người cảm giác bất an, thật không dễ lấy được sự tin tưởng và trọng dụng của người khác.
Vì vậy, trong việc quản lý cách “làm người”, Đức Phật dạy chúng ta trong cách đối nhân xử thế, cần phải đúng chính pháp, không được ham lợi nhỏ mà lao đầu vào đống lửa quyền thế. Bởi vì, “tự khinh thường mình thì người mới khinh mình, tự xem nhẹ mình, thì người mới xem nhẹ mình”.
4. Ăn uống vừa đủ, không cất giữ thêm
Khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, vua Ba Tư Nặc1 vì quá béo mà thân thể chịu nhiều phiền lụy. Vì thế, Đức Phật giảng dạy cho vua Ba Tư Nặc rằng mỗi bữa trước khi ăn hãy luôn nhớ rằng:
Thường luôn luôn chú ý
n uống biết liều lượng
Giảm bớt các món ngon
Mới an vui trường thọ.
Chú thích:
1 Ba Tư Nặc (S. Prasenajit, Pasenadi): Dịch ý là Thắng Quân Vương, Thắng Quang Vương, Hòa Duyệt Vương, Nguyệt Quang Vương, Quang Minh Vương. Là vua nước Kiều Tát La thuộc trung Ấn Độ, cùng thời đại với Đức Thế Tôn. Vua ở thành Xá Vệ, là nhà ngoại hộ lớn của giáo đoàn Đức Thế Tôn. Đức Như Lai thành đạo chưa bao lâu, vua Ba Tư Nặc lên ngôi. Lúc đầu, nhà vua bạo ác, không tin Phật, sau khi quy y, nhờ Phật giáo hóa, nên dốc lòng tin Phật pháp, từng vấn đáp với phu nhân Mạt Lợi, và rút ra được kết luận là người ta ai ai cũng tự yêu mình hơn cả. Về sau, vua thỉnh ý Đức Thế Tôn chỉ giáo, cho đến nay, cuộc đối thoại đó vẫn còn được biết đến ở đời.
Điều này có nghĩa là, chúng ta nên tự nhắc nhở phản tỉnh chính mình, phải biết cách ăn uống có điều độ, không nên ăn quá no mà gây ra gánh nặng cho cơ thể, làm được như vậy thì mới có thể duy trì cuộc sống nhẹ nhàng, an vui, khỏe mạnh và trường thọ.
Nếu ai quản lý tốt chế độ ăn uống thì sẽ không mắc bệnh, bởi “bệnh từ miệng mà vào”. Sự sống của con người được duy trì là vì dựa vào chế độ ăn uống để nuôi dưỡng cơ thể. Nhưng nếu chế độ ăn uống không đúng cách thì sẽ dễ gây ra các bệnh tật, tích lũy lâu dần sẽ dẫn đến các bệnh mạn tính, thậm chí mất mạng.
Trong nhà Phật, khi chư tăng dùng cơm đều phải tụng niệm “thực tồn ngũ quán” (năm điều quán căn bản khi ăn, cho mỗi người đệ tử xuất gia tu học)1. Đó cũng là cách nhắc nhở chúng tăng, khi ăn không nên tham ăn món ngon hợp khẩu vị, không nên lựa chọn, phân biệt thức ăn ngon dở.
Chú thích:
1 Ngũ quán: 1. Tính xem công lao mình nhiều hay ít, thức ăn này từ đâu đến? 2. Tự xét đức hạnh của mình có xứng đáng được cúng dường không? 3. Đề phòng tâm không phạm lỗi, không tham lam, v.v. 4. Coi thức ăn này là vị thuốc hay chữa bệnh gầy gò. 5. Vì sự nghiệp thành đạo mà nhận thức ăn này.
5. Trì giới thanh tịnh, thiện pháp được sinh
Khi Phật Thích Ca còn trụ thế, có một vị Sa di thường tán thán Tam bảo và tán thán người khác, không bao giờ nói dối, chửi bới người khác, thường nói năng tử tế, lâu ngày liền không thấy mùi hôi tanh trong miệng, từ trên thân thể lại thường có mùi thơm lạ tỏa ra, cho nên mọi người gọi Sa di ấy là “Sa di miệng thơm”.
Trong ba nghiệp của thân, khẩu và ý, thì riêng khẩu nghiệp lại có bốn loại nghiệp. Vậy làm thế nào để quản lý được khẩu nghiệp?
Đức Phật dạy chúng ta, trong cách đối nhân xử thế phải tích công đức cho miệng, không mắng người, không nói lời ác, thường nên nói thật, không nói hai lời, không nói thêu dệt.
Ở mọi lúc, mọi nơi, chúng ta phải thận trọng trong lời ăn, tiếng nói cùng với việc làm của chính mình. Phải nói lời hay, nói lời tao nhã, nói ra lời khiến mở rộng kiến thức và truyền được cảm hứng cho người được nghe, như câu nói:
Mặt không cáu kỉnh là cúng dường
Miệng không la hét là diệu hương
Tâm không ôm hận là bảo vật
Không nói quanh co hợp lẽ thường.
6. Giữ tâm chuyên nhất, việc gì cũng xong
Xưa kia, có hai thư sinh hẹn nhau đến kinh thành ứng thí. Thư sinh A là một người theo tín ngưỡng dân gian nên mang theo rất nhiều bùa hộ mệnh của các vị thần bên mình; thư sinh B là một Phật tử và chỉ đeo một dây chuyền có hình tượng Bồ tát Quán Âm. Trên đường đi họ gặp phải bọn cướp, thư sinh A không may bị bọn cướp chém đứt lìa tay, thư sinh B bị dao chém trúng dây chuyền nên đã thoát chết.
Lúc bấy giờ, thư sinh A rất tức giận mà trách rằng: “Tại sao tôi tôn thờ nhiều vị thần như vậy nhưng không có ai đứng ra bảo vệ tôi?”
Liền lúc ấy, đức Thành hoàng hiện ra nói: “Ngươi bị tai họa, tất cả chúng ta ai cũng muốn tới cứu. Chỉ là trước muôn vàn vị thần thánh, ai cũng đều ngại nên không ai đứng ra, khi các vị thần còn đang nhường nhau, thì con dao đã chém xuống rồi”.
Tín ngưỡng là một lòng hướng về. Nếu chúng ta có thể một lòng hướng về, một lòng niệm Phật, một lòng học Phật thì còn lo sợ mình không được thành tựu?
Cũng giống như khi làm việc, chỉ cần chúng ta có thể tận tâm tận lực thì có thể “biến đá thành vàng”. Làm một người mẹ thì phải một lòng chăm lo chu toàn cho con cái; làm học sinh thì phải một lòng chăm lo đọc sách, chỉ cần chúng ta có sức mạnh của sự nhất tâm thì việc gì cũng có thể làm được trong xã hội này. Đây là cách quản lý một lòng chuyên nhất.
7. Mỗi ngày ăn uống, như ong hút mật
Con người không thể tồn tại nếu không có thức ăn, nhất định phải dựa vào thức ăn để nuôi dưỡng cơ thể, duy trì sự sống.
Thế nhưng, Đức Phật đã dạy rằng khi ăn uống, chúng ta nên “như ong hút mật, chỉ hút nhụy hoa, không hại cánh hoa”. Có nghĩa là ong chỉ lấy mật hoa, hoàn toàn không làm hỏng màu sắc và cấu trúc của hoa. Và chúng ta ăn uống cũng chỉ là để nuôi thân học đạo, không nên quá chú ý đến khẩu vị. Như khi chúng đệ tử xuất gia thụ trai rất thanh tịnh nhẹ nhàng dùng bữa, không tham luyến, chấp trước vào thức ăn, đó chính là việc tu tập hành đạo được thể hiện qua cách ăn uống.
Thực ra, đây chính là nói về quản lý “tự chủ”, từ phương diện Lục độ.
Tại sao Phật giáo lại dạy người bố thí? Chính là muốn chúng ta đừng quá tham luyến tiền bạc vật chất mà phải có năng lực tự chủ.
Tại sao phải giữ giới? Chính là muốn chúng ta có thể ngăn chặn những điều ác từ trong cuộc sống, và giúp chúng ta có sức mạnh để điều phục khi ác niệm mới manh nha xuất hiện.
Tại sao phải nhẫn nhục? Chính là muốn chúng ta có thể khống chế, kiểm soát sân hận và ác cảm để từ đó phát triển các tính cách ôn hòa, nhu thuận của mình về các vấn đề nhân sự.
Tại sao phải tinh tiến? Chính là muốn chúng ta sau khi đặt ra mục tiêu phấn đấu thì không được chểnh mảng lười biếng mà phải chăm chỉ làm việc để đạt được mục tiêu.
Tại sao phải thiền định? Bởi khi chúng ta gặp khó khăn, người có thiền định sẽ kịp thời sáng suốt phán đoán và xử lý chính xác các sự việc mà không bị hỗn loạn.
Tại sao phải tu Bát nhã? Bởi khi chúng ta có trí tuệ sẽ thay đổi được nhận thức ngu si, dại dột của chính mình, và không bị vô minh dẫn dắt tới hành động dại dột, cố chấp.
“Tự chủ” là không yêu cầu người khác thay đổi như thế nào mà chính là đòi hỏi sự tự kỷ luật của bản thân người đó. Ví như trong cửa Thiền có nói: “Quán chiếu tự tâm, tìm về bản tính, v.v.” Tất cả những điều đó đều là quản lý tự chủ.
8. Khoác áo tàm quý là trang trọng nhất
Đức Phật đã dạy: “Ai trong chúng ta đang tu học đạo thì nên biết tàm quý”. Tàm có nghĩa là tự thấy hổ thẹn với chính mình, quý là thấy hổ thẹn với người khác.
Hãy thử suy xét xem, chúng ta đang sống trên thế gian này, là đệ tử của Đức Phật, chúng ta đã tuân thủ theo những gì Ngài đã dạy, đã làm theo chỉ dẫn, đã đem lại lợi ích gì cho chúng sinh? Và đã hoằng pháp lợi sinh được hay chưa?
Bản thân chúng ta nên tự cảm thấy hổ thẹn với công lao sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ, sự dạy dỗ của thầy cô và sự hộ trì, cúng dường của tín thí.
Nghĩ được như vậy, chúng ta sẽ có động lực thúc đẩy bản thân phải siêng năng phấn đấu và không ngừng tiến bộ.
Cho nên, tàm quý được ví như là trang phục đẹp đẽ nhất, người có tàm quý là người có áo quần chỉnh tề, trang trọng lịch thiệp nhất.
9. Sớm cầu tự độ chớ tham ngủ nghỉ
Mọi người ai cũng cần ngủ nghỉ, vì ngủ nghỉ chính là phương pháp để phục hồi thể lực. Ví như, tuổi thọ của một người có thể sống đến 90 tuổi, thời gian ngủ mỗi ngày là tám tiếng, cộng chung lại thì người đó có khoảng 30 năm là thời gian dành cho việc ngủ nghỉ.
Thế nhưng đối với việc ngủ nghỉ, thì có người lúc nào cũng muốn ngủ, có người nằm trằn trọc đến sáng mới ngủ được, có người lại chỉ ngủ được hai, ba tiếng một ngày, mà người càng lớn tuổi lại càng không ngủ được, v.v.
Thiếu ngủ nghỉ sẽ khiến cho con người cảm thấy uể oải hôn trầm nhưng không nên vì thế mà chúng ta ngủ quá nhiều, vì như vậy sẽ gây trở ngại cho đạo nghiệp, khiến cuộc sống của chúng ta trở nên trống rỗng và bỏ qua nhiều nhân duyên tu tập tốt.
Vậy nên, phương pháp quản lý “giấc ngủ” phải có chế độ ngủ nghỉ hợp lý, có được như vậy thì mới có thể khiến tinh thần trở nên thư thái.
10. Chớ nói lời ác mất nhiều công đức
Trong cuộc sống này, việc gây tổn thương cho người, giết hại người không chỉ là dùng gươm đao, gậy gộc, mà còn có thể là từ những lời nói cay nghiệt không hình bóng góp sức vào. Thật đúng như câu người xưa đã nói: “Một câu nói tốt, sưởi ấm ba đông, một lời ác lạnh người giữa hè tháng sáu” hoặc là “Một lời nói chấn hưng dân tộc, một lời nói hủy diệt non sông”.
Miệng lưỡi như thanh gươm có thể làm tổn thương con người, cũng có thể tu đạo tạo ra công đức. Cho nên mới có câu:
Chớ nói người khác thế nào
Nói đi nói lại rước vào cái xui
Âm thầm im miệng rút lui
Pháp tu bậc nhất đẩy lùi họa tai.
Vậy, chúng ta phải làm thế nào để quản lý được lời nói? Đức Phật dạy, chúng ta nên:
Nói lời ngay thẳng hiền hòa
Nói lời thân thiết thật thà mến yêu
Nói lời khen ngợi thêm nhiều
Nói lời khiêm tốn, những điều thật hay.
Bởi vì, lời nói tốt đẹp khiến người nghe cảm thấy như gió xuân. Với những người đang thất vọng chán nản, chúng ta nói lời động viên tinh thần, sẽ khiến cho họ có thêm lòng tin nghị lực. Đấy chính là năng lượng tương trợ của lời nói.
11. Chính niệm tỉnh thức, phóng túng tổn đạo
Người Nhật thích ăn cá hồi tươi, khi nguồn cá nguyên liệu trong nước không đủ, họ sẽ nhập khẩu từ Nga, nhưng quãng đường vận chuyển quá xa, thường khi đến Nhật Bản, hơn một nửa số cá đã chết. Sau này, có người nghĩ ra cách cho một vài con cua vào trong thùng đựng cá. Vì cua là thiên địch của cá và có thể cắn xé cá bất cứ lúc nào nên thấy cua di chuyển một chút là cá lo lắng né tránh. Những con cá này vì phải chịu áp lực tấn công của những con cua, vì bản năng sinh tồn mà nó tăng thêm nghị lực sống nên số cá còn sống được vận chuyển thành công đến Nhật Bản đã lên tới 80% - 90%.
“Áp lực” là một phương pháp quản lý có sức kích thích nghị lực tiềm năng, giống như hạt đậu xanh bỏ trực tiếp vào chậu nước, nếu không có vật gì có áp lực đè lên, thì giá đỗ mọc ra sẽ rất dài. Nếu có vật nặng tạo áp lực đè hạt đậu thì giá đỗ mọc ra sẽ mập chắc hơn.
12. Người hay nhẫn nhịn là người mạnh mẽ
Trong nhà Phật có nói: “Nhẫn là đạo cao vời của Bồ tát”. Nhẫn là một loại nhận thức, nhận định, thừa nhận, xử lý và trách nhiệm, nếu đủ sức chấp nhận cuộc đời thì chúng ta mới có thể nhẫn.
Trong Cảnh hành lục có chép:
Một chút không thể nhẫn
Phiền não tăng theo ngày.
Chúng ta có thể chịu đựng, nhẫn nhịn, có nghĩa là chúng ta có sức mạnh chịu đựng tốt. Nếu chúng ta không thể chịu đựng được sự chế giễu, vu khống và phỉ báng thì những phiền não này sẽ không ngừng bủa vây khiến chúng ta không thể làm được việc lớn.
Vì vậy, khi chúng ta tức giận, trước tiên chúng ta hãy học cách nhẫn nhịn từ cái miệng của mình, không nên hơn thua với người. Kế đến, đem sự nhẫn nhịn thể hiện thông qua vẻ từ bi, nhẹ nhàng trên nét mặt. Sau cùng, là dùng tâm để nhẫn nhịn, tâm không bị tức tối, không bập bùng lửa giận. Như vậy là chúng ta đã nhẫn nhịn thành công. Vậy nên có câu nói: “Nhẫn nhịn được yên ổn”. Nếu ai đó, có thể nhẫn nhịn được một câu nói không hay thì cội rễ của tai họa ngầm sẽ không phát triển, đấy chính là sự quản lý của “nhẫn nhịn”.
13. Tác hại của sân hận là phá nát thiện pháp
Trong kinh Phật có dạy: “Một ngọn lửa sân thiêu đốt cả rừng công đức”. Ngọn lửa sân nổi lên có thể làm che mờ lý trí của con người, nó như đám mây đen che mặt trăng trong sáng, như một ngọn lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả rừng cây. Sân hận, có thể gây ra những điều không tốt với mọi người, có thể phá hủy mối quan hệ giữa mọi người và gây ra nhiều tai họa khôn lường. Vì thế, người tu đạo cần phải giữ giới không sân hận làm đầu.
Câu chuyện xưa kể về vị sư già nói câu kệ:
Đi tới ba bước nghĩ tận tường
Đi lùi ba bước nghĩ đa phương
Tâm sân đã hiện cần suy xét
Dập tắt lửa sân mới cát tường.
Điều cốt yếu của câu kệ này muốn nói rằng, chúng ta phải suy nghĩ chín chắn, đừng quá bộp chộp hay bốc đồng, đừng để cơn nóng giận nhất thời nổi lên để rồi gây ra những tác hại không thể cứu vãn, làm tổn thương người và tổn thương chính mình.
Nếu một người có tính cách bốc đồng thì tự bản thân người đó phải biết cách quản lý tâm tính bốc đồng. Như khi gặp chuyện bất bình thì không được quá thô tháo, càng không thể lộ tính kiêu căng, phải bình tĩnh để suy nghĩ, xử lý thấu đáo thì mới có thể giải quyết được vấn đề.
14. Tiếng xấu đồn xa, muôn đời chán ghét
Hòa Ngưng (898 - 955) cùng Phùng Đạo (882 - 954) là những vị quan trong cùng một triều thời Ngũ đại (907 - 960). Một ngày nọ, người hầu của Hòa Ngưng đã giúp ngài ấy mua một đôi giày mới với giá 1.800 đồng. Phùng Đạo rất thích và cũng mua một đôi giày cũng cùng kiểu dáng. Hòa Ngưng nhìn thấy, liền hỏi: “Ngài mua chiếc giày này bao nhiêu?”
Phùng Đạo nói: “ 900 đồng”.
Hòa Ngưng nghe xong tức giận chỉ vào người hầu trách mắng rằng: “Người khác chỉ mua 900 đồng thôi, tại sao ngươi lại mua cho ta là 1.800 đồng?”
Lúc này, Phùng Đạo nhanh trí giơ cái chân với chiếc giày còn lại và nói: “Giày của tôi ở bên chân này cũng có giá là 900 đồng”.
Người không nhẫn nại sẽ dễ tức giận, dễ mắc sai lầm, khiến cho người khác không tôn kính. Như câu chuyện Rùa mở miệng trong kinh Bách dụ, cuối cùng rùa chết tan xác, chỉ vì do bản thân nó không thể nhẫn nhịn.
Ở cõi đời này, cách quản lý đối nhân xử thế tốt nhất chính là dùng nhu thắng cương. Như đại sư Hám Sơn1 có dạy: “Dây nỏ căng sẽ luôn bị đứt, dao thép cứng sẽ dễ bị gãy”. Đừng nghĩ rằng dao thép sắc bén, thực tế thì rất dễ gãy. Làm người cũng vậy, hòa thuận là điều quý giá nhất.
Chú thích:
1 Hám Sơn (1546 - 1623): Vị thiền tăng ở đời Minh, người huyện Toàn Tiêu, tỉnh An Huy, họ Thái, tên Đức Thanh, tự Trừng Ấn, hiệu Hám Sơn. Năm 12 tuổi, sư theo ngài Vĩnh Ninh ở chùa Báo Ân tại Kim Lăng học tập kinh điển. Sư từng ở các chùa Hải Ấn tại Thanh Châu (Sơn Đông), chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, v.v. xiển dương Thiền tông. Sư đề xướng niệm Phật kết hợp với tham cứu công án Thiền. Trước tác: Hoa nghiêm kinh thông nghị 10 quyển, Quán Lăng già kinh ký 8 quyển, Pháp hoa kinh thông nghĩa 7 quyển, Hám Sơn Lão nhân mộng du tập 55 quyển.
15. Tâm tính kiêu mạn, sự nghiệp tàn lụi
Một học giả với thái độ tự cao tự đại và kiêu ngạo đã thỉnh giáo với thiền sư Nam Tuyền (748 - 834). Thiền sư không nói lời nào, cầm ấm trà lên và không ngừng châm nước vào tách trà. Vị học giả thấy vậy nhắc nhở: “Thưa thiền sư, tách trà đã đầy”.
Thiền sư nói: “Tâm của ngài giống như tách trà lúc này, nó đã rất đầy rồi, dù ta có nói đạo pháp tốt đến đâu đi nữa thì cũng không thể chảy vào tâm ngài”.
Vị học giả nghe xong liền bừng tỉnh, vội bỏ tâm kiêu mạn, khiêm tốn thỉnh cầu thiền sư Nam Tuyền thuyết pháp. Cho nên mới có câu: “Khiêm tốn được lợi ích, ngã mạn chuốc đau thương”, mọi người không thể tự mãn, bởi tự mãn chính là tự giới hạn bản thân.
Đấy là phương pháp quản lý tâm ngã mạn của thiền sư Nam Tuyền, thu phục vị học giả có tâm kiêu căng. Thiền sư không trực tiếp tranh luận với vị học giả ấy mà ngài lấy những sự việc xung quanh mình để ví dụ, từ đó chỉ rõ khuyết điểm của học giả.
16. Có tâm nịnh hót rất khó đắc đạo
Trong Phật thuyết Bột kinh có ghi lại bốn loại bạn: Có bạn như hoa, như cái cân, như núi và như đất.
Có bạn như hoa là khi cuộc đời chúng ta suôn sẻ tươi đẹp như hoa thì người bạn này sẽ vui vẻ xuất hiện, đến khi chúng ta gặp khó khăn “héo tàn” thì người đó sẽ tùy ý vứt bỏ ta không thương tiếc.
Có bạn như cái cân, là khi địa vị của chúng ta cao, địa vị người bạn sẽ xuống thấp và khi địa vị của chúng ta xuống thấp thì địa vị người bạn sẽ được đưa lên cao.
Những người bạn như trên, khi thì sẽ khom lưng khụy gối, a dua nịnh hót, khi thì lại kiêu ngạo, thấy lợi quên nghĩa, thật khiến người ta xem thường.
Có bạn như núi là cách nói ẩn dụ giống như các báu vật ẩn tàng trong núi, chúng ta có thể đào lên để dùng.
Có bạn như đất thì ví như mặt đất không chừa bỏ sự tồn tại của bất cứ thứ gì, có thể chứa chấp tất cả mọi thứ và không có cảm giác chán ghét. Có bạn như núi, như đất, người bạn ấy sẽ không khinh thường khi chúng ta kém cỏi, đấy mới chính là những người bạn hữu ích chân chính.
Điều quan trọng trong tình bạn, chính là lòng trung thực, chính trực, sự tương trợ và cảm thông. Đây là phương pháp quản lý về cách “chọn bạn mà chơi” mà Đức Phật đã dạy chúng ta.
17. Người được ngộ đạo dựa vào phẩm chất
Trong kinh Duy Ma Cật có ghi: “Trực tâm là đạo tràng, trực tâm là tịnh độ” (Tâm ngay thẳng là đạo tràng, Tâm ngay thẳng là tịnh độ). Trực tâm chính là không giả dối xu nịnh, không khom gối tươi cười. Người có tâm ngay thẳng mới học đạo dễ dàng.
Vua Đường Thái Tông1 có thể cai trị đất nước trong những năm Trinh Quán thịnh trị là vì có Đại phu Ngụy Trưng2 can gián. Ngụy Trưng tính tình chính trực, đã trực tiếp chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm cho vua. Nhất là khi vua Đường Thái Tông xem qua những điều can gián của ông trong Thập tiệm bất khắc chung sớ, vua không những không bắt tội ông ta mà còn đối đãi như những bậc hiền nhân.
Một người sống ngay thẳng, không gian dối, vui vẻ, gần gũi với mọi người thì chắc chắn sẽ có được lòng tin của mọi người. Đấy chính là phương pháp quản lý của vua Đường Thái Tông. Nhờ biết mở rộng tấm lòng tiếp nhận lời khuyên của các quan đại thần nên một vị hoàng đế như Đường Thái Tông mới có thể làm nên một triều đại nhà Đường huy hoàng rạng rỡ.
18. Người biết thiểu dục không lo lắng gì.
Sau khi vương tử Bạt Đề xuất gia với Đức Phật, ông ta thường không nhịn được mà hét lên: “Hạnh phúc quá! Hạnh phúc quá!” Một hôm Đức Phật đi ngang qua, lại nghe thấy Bạt Đề hét “hạnh phúc quá”, liền hỏi ông ta tại sao. Tỳ kheo Bạt Đề thưa: “Trước đây con tuy là vương tử, ngày đêm luôn có thị vệ canh giữ, nhưng con vẫn lo lắng kẻ địch sẽ hại con. Bây giờ con đã buông bỏ tất cả để xuất gia, tuy mỗi ngày đều phải cầm bát đến từng nhà để khất thực, nhưng thân tâm của con đều cảm thấy tự do tự tại và tràn đầy niềm vui sướng”.
Người hiền đức luôn có thể quản lý tốt lòng mình, không đòi hỏi nhiều, không tranh đoạt danh lợi, không bị quyền lực dụ dỗ nên tự nhiên sẽ không bị ngoại lực bức ép.
19. Người biết đủ tuy nghèo mà giàu
Người biết đủ, ở đây ví như ngài Đại Ca Diếp là đệ tử của Đức Phật, thường ngồi thiền ở bãi tha ma hay ở dưới gốc cây, và ngài cũng không cho đó là khổ. Như Nhan Hồi1 sống trong ngõ hẹp, ăn đơn giản uống đạm bạc, như người khác sẽ không thể chịu đựng được cảnh nghèo nhưng đối với Nhan Hồi, sự nghèo khó này lại không làm đổi thay sự an lạc nơi tâm của ngài. Đại sư Hoằng Nhất2 lại cho rằng, mặn hay nhạt đều có mùi vị độc đáo riêng của nó. Tất cả những nhân vật kể trên, bởi vì họ đều tu dưỡng công phu thiểu dục tri túc nên đã vượt qua những chướng ngại trong tự nhiên.
Chú thích:
1 Nhan Hồi (521 - 481 TCN): Tự là Tử Uyên, còn gọi là Nhan Uyên, người nước Lỗ, một trong những đệ tử kiệt xuất của Khổng Tử, có đức hạnh số một, nhưng mất sớm trước thầy vào năm 32 tuổi.
2 Đại sư Hoằng Nhất (1880 - 1942): Vị danh tăng trung hưng Luật học Nam sơn, sống vào thời Dân Quốc, người Bình Hồ, Chiết Giang. Ngài họ Lý, tên Quảng Hầu, hiệu Thúc Đồng, cũng lấy tên là Thành Hề, tự Tích Sương. Tính sư điềm đạm, giản dị, ngoài thi văn từ phú ra, sư còn giỏi về thư họa, đặc biệt là chữ triện, thư pháp đã đạt được bí quyết của Hán Ngụy Lục triều.
Trong trai đường của chốn tùng lâm cũng thường có câu:
Sáng cháo trưa cơm thường nhớ người nông dân khổ sở
Mặc y khoác áo luôn nghĩ thợ dệt vải cần lao.
Những điều này đã luôn nhắc nhở người tu đạo cần biết đủ và biết cảm ơn.
Chúng ta có được một phòng ngủ, có một bàn làm việc, có một cái ghế, có thể đi dạo trong công viên, có thể đi xe buýt, liền cảm thấy rất hài lòng, không còn muốn đi siêu xe. Nếu tâm chúng ta đòi hỏi quá đáng, tất nhiên chúng ta sẽ không thể hạnh phúc. Nếu chúng ta có thể bằng lòng biết đủ, chúng ta sẽ cảm thấy an lạc, thanh thản, đây cũng là phương pháp quản lý trong Phật giáo, dạy con người thiểu dục vô vi.
20. Tránh xa ồn ào, an lạc vô vi
Một đệ tử hỏi Thiền sư: “Thưa sư phụ! Ngài có thể cho con biết một cách đơn giản và hữu ích nhất về pháp được không?”
Thiền sư không trả lời.
Người đệ tử lại hỏi: “Tại sao ngài không trả lời con?”
Thiền sư nói: “Con đã tự trả lời rồi, vậy ta còn nói gì nữa? Đơn giản, chính là thế”.
Một câu nói “đơn giản” của thiền sư là phương pháp quản lý “tự tâm” tốt nhất, đấy là một câu nói rất rõ ràng.
21. Ngồi thiền tĩnh lặng, nghĩ diệt cội khổ
Mỗi người nên có một không gian riêng sau một ngày làm việc mệt nhọc để có được giây phút tĩnh lặng, thầm thì với lòng mình, kiểm điểm lại những điều được mất trong ngày, lên kế hoạch tổng thể cho công việc hoặc để thực hiện các hoạt động tôn giáo như thờ cúng, tụng kinh và ngồi thiền; hoặc các hoạt động giải trí như đọc sách, thư giãn v.v. để tâm hồn luôn được thư thái.
Tuy nhiên, khi ở một mình, chúng ta cũng phải có tâm “thận trọng” để quản lý bản thân, phải nghiêm khắc với bản thân mình từ hành động cho đến suy nghĩ, và quan trọng là không được tự phụ, không làm qua loa. Nếu một người, có thể giữ được thân tâm đoan chính lúc ở một mình thì khi sinh hoạt chung với nhiều người sẽ rất dễ hòa đồng.
22. Chuyên cần tinh tiến, không việc gì khó
Trong tác phẩm Vô tướng tụng có ghi: “Nếu khoan gỗ lấy được lửa, thì trong bùn sẽ mọc hoa sen”. Như thế nào và tại sao có thể tạo ra lửa từ trên đá và gỗ?
Khoan gỗ có thể tạo ra lửa, mài đá có thể tạo ra lửa, vì gỗ và đá có tính cháy. Điều này đồng nghĩa với việc: Mọi người ai cũng có Phật tính chỉ là Phật tính của mỗi người lại bị cát bụi vô minh che lấp, nên không thấy được. Nếu ai biết tu hành thì dù ở trong ngũ dục lục trần cũng có thể xây dựng được cõi Tịnh độ. Cũng như từ bùn dơ, sen vẫn mọc lên và nở hoa thuần khiết.
Như trong truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ, chú rùa chậm chạp nhưng lại biết tự quản lý tốt bản thân. Rùa không vì khuyết điểm của bản thân, không chịu thua mình, nên cuối cùng giành được chiến thắng. Do đó, tinh tiến hành đạo, như chày sắt còn có thể mài thành kim thêu. Nếu buông lung lười biếng đến giơ tay bẻ cành cây cũng ngại khó. Vậy nên mới nói, từ xưa đến nay chỉ có cái “lười” mới khó.
23. Tỉnh thức chính niệm, phiền não không xen
Có một vị đệ tử chăm chỉ tu tập, ngồi thiền dưới gốc cây mỗi ngày, nhưng đã qua mười hai năm vẫn chưa giác ngộ. Đức Phật thấy vị đệ tử ấy tinh tiến trong đạo pháp, nên muốn giúp đỡ. Ngài đến gặp mặt rồi cùng ngồi tham thiền. Đến nửa đêm thấy con rái cá đói bụng muốn ăn thịt con rùa, bất ngờ rùa rụt đầu, đuôi và rụt tứ chi vào trong mai nên đã thoát chết.
Lúc này Đức Phật dạy: “Vì rùa biết dùng mai để bảo vệ mình, nên rái cá không thể làm hại được nó. Nhưng con người sống ở trên đời cũng như con rái cá không biết vô thường, luôn tham chấp mê đắm một cách mù quáng, buông xuôi sáu căn chạy theo năm dục sáu trần, không biết tự quản lý tâm, kiềm tâm giữ ý, cuối cùng phải rong ruổi trong lục đạo luân hồi”. Vị đệ tử này nghe xong liền hiểu rõ ý Phật, quản chặt thân tâm, chuyên tâm tu hành và đã đắc đạo.
24. Tu tập thiền định, tâm không tán loạn
Thiền sư Hoài Nhượng1 hỏi Mã Tổ2 rằng: “Nếu một con bò kéo xe mà xe không đi, thì nên đánh con bò hay là đánh chiếc xe?” Xe ở đây là chỉ cho thân thể, còn con bò chỉ cho tâm của chúng ta.
Chú thích:
1 Hoài Nhượng: Sư họ Đỗ, sống vào đời Đường, người An Khang, Kim Châu (huyện Hán Âm, tỉnh Thiểm Tây). Sư xuất gia năm 15 tuổi, mới đầu học luật, sau đến Tào Khê tập thiền, trở thành đệ tử của Lục tổ Huệ Năng. Sư ở lại thị giả tổ 15 năm. Sau khi tổ thị tịch, năm Thiên Tiên thứ 2 (713) đời vua Đường Huyền Tông, sư đến trụ ở đài Quán Âm chùa Bát Nhã tại núi Nam Nhạc, tỉnh Hồ Nam, để tuyên dương Thiền pháp của tổ, khai sáng hệ phái Nam Nhạc, người đời gọi sư là Nam Nhạc Hoài Nhượng. Pháp hệ của sư gọi là Nam Nhạc hạ, đối lại với pháp hệ Thanh Nguyên hạ của Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư, đây là hai dòng pháp lớn của Thiền Nam tông. Năm Thiên Bảo thứ 3 (744) sư thị tịch, thọ 68 tuổi, thụy hiệu Đại Tuệ.
2 Mã Tổ Đạo Nhất (709 - 788): Là một Thiền sư Trung Quốc đời nhà Đường, là môn đệ đắc pháp xuất sắc nhất của Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng.
Lục tổ Huệ Năng đã dạy các đệ tử của mình rằng, thiền định chân chính là: “Ngoài không bị cảm quan làm động tức là thiền, trong không bị nội tâm rối loạn tức là định”. Có nghĩa là tâm không bị dao động bởi ngoại cảnh.
Làm thế nào để quản lý cái tâm lăng xăng, rong ruổi như khỉ, như ngựa này? Đó chính là học cách kiểm soát tâm!
Chẳng hạn như cảnh sát khống chế được bọn côn đồ, công an bắt được bọn trộm cướp. Những người cảnh sát và công an này là ai và ở đâu trong mỗi chúng ta? Đó chính là chính niệm, chính kiến. Hai điều này được ví như là cảnh sát và công an ở trong ta. Chúng ta phải ứng dụng thật tốt thì mới có thể làm chủ được tâm ý của mình.
25. Văn tư tu tuệ, vượt qua biển khổ
Một ngày nọ, người huấn luyện voi Kha Đề Đàm đến chỗ của Đức Phật và cầu nguyện Đức Phật giải tỏa tâm lý cho anh ta. Đức Phật hỏi: “Làm cách nào để thuần hóa một con voi?”
Kha Đề Đàm trả lời: “Tôi có ba phương pháp: Một là dùng móc thép móc vào miệng con voi để khuất phục nó, không để nó chạy trốn; thứ hai là giảm lượng thức ăn để nó bị đói, không còn sức chống cự, để có thể khống chế được sự hung dữ của nó; thứ ba là dùng gậy đánh nó, khiến cho nó đau đớn, sợ hãi và khuất phục cúi đầu”.
Đức Phật nói với Kha Đề Đàm: “Ta cũng có ba cách để thuần hóa tất cả mọi người và làm cho họ thanh tịnh hỷ lạc. Một là kiểm soát lời ăn tiếng nói một cách chân thành, hai là điều phục sự ngoan cố và chấp trước của mọi người bằng lòng từ bi và sau cùng loại bỏ tính cố chấp ngu si đầy phiền não bằng trí tuệ. Ta dùng ba phương pháp này để cứu độ tất cả chúng sinh ra khỏi ba đường ác và không còn trở lại biển khổ sinh tử nữa”.
Đức Phật là một nhà giáo dục vĩ đại, tinh thông việc quan sát các căn cơ của mọi người để giảng dạy đạo lý sao cho phù hợp. Các ví dụ được nêu ở trên chính là một trong những phương pháp quản lý của Ngài.
26. Không nói lời vô ích tâm luôn được thanh tịnh
Không nói lời vô ích chính là không nói chuyện tầm phào, không thách đố chữ nghĩa, v.v. Vì làm như thế thì đến khi kết thúc cuộc nói chuyện, cũng không có kết luận hay đóng góp gì cho xã hội. Vì vậy, những lời vô ích không thích hợp với Phật pháp, không liên quan đến con đường giải thoát và thực hành hạnh của Bồ tát thì gọi là những lời vô ích.
Cứ mỗi khi gặp Đức Phật, ngoại đạo đều hỏi các vấn đề “siêu hình”, Đức Phật không trả lời. Bởi vì đây chỉ là những lý luận vô ích và không giúp gì cho việc giải thoát phiền não. Đạo Phật là tôn giáo coi trọng việc tu tập và dạy con người cách tu hành thực tiễn. Đây chính là sự quản lý của nhà Phật.
27. Chăm chỉ siêng năng, như lìa oán tặc
Trong chùa, các buổi tụng kinh tối thường xuyên trì tụng Phổ Hiền cảnh chúng kệ:
Ngày nay đã qua
Mạng sống giảm dần
Như cá cạn nước
Có gì là vui
Mọi người tinh tiến
Như lửa cháy đầu
Nhớ nghĩ vô thường
Chớ nên chậm trễ.
Điều quan trọng trong việc khuyên người tu học là phải tinh tiến. Bởi vì, mạng sống trôi qua, con người ta như cá thiếu nước, thời gian là phù du đã trôi qua sẽ không quay trở lại. Tuổi thọ tối đa cũng chỉ trăm năm, vì vậy hãy nên tinh tiến càng sớm càng tốt, chớ đợi đến già mới học đạo.
Buông lung, phóng dật là thói quen xưa nay của đại đa số chúng sinh. Vì vậy, Đức Phật đã căn dặn các đệ tử rằng: “Người tại gia lười biếng đánh mất nhiều lợi lạc. Người xuất gia lười biếng là nỗi đau buồn của đạo pháp”.
Người tại gia không làm việc chăm chỉ sẽ không có cơm ăn, người xuất gia học đạo mà không tinh tiến tu học thì sẽ làm nguy hại cho đạo pháp. Cho nên mới có câu chuyện thiền sư Triệu Châu1 80 tuổi vân du tầm đạo khắp nơi hay là chuyện đại sư Pháp Hiển2 ở tuổi 60 quên thân vì đạo, đi Tây Vực cầu pháp. Sự phát tâm của các ngài thật đáng để chúng ta học tập. Sự quản lý của Phật giáo luôn luôn ở trong cuộc sống hằng ngày, luôn nhắc nhở chúng tăng nên tinh tiến học đạo.
Chú thích:
1 Triệu Châu (778 - 897): Là một vị Thiền sư Trung Quốc, môn đệ thượng thủ của Nam Tuyền Phổ Nguyện.
2 Pháp Hiển (340? - ?): Vị tăng họ Cung, sống trong thời Đông Tấn, xuất thân vùng Võ Dương, Bình Dương. Năm lên 3 tuổi, ông xuất gia, đến 20 tuổi thì thụ Cụ túc giới. Sau đó đến Thiên Trúc, ông khoảng 60 tuổi. Trước sau hơn 10 năm, ông đã đi qua hơn 30 nước, và mang về rất nhiều kinh điển Phật giáo tiếng Phạn. Trong thời gian ấy, ông đã học được luật, Trường A hàm, Tạp A hàm, kinh Niết bàn, v.v. Sau khi trở về nước, ông cùng với Phật Đà Bạt Đà La (s: Buddhabhadra, 359-429) dịch bộ luật Ma ha Tăng kỳ, kinh Đại Bát nê hoàn, kinh Tạp tạng, Tạp A Tỳ đàm tâm luận. Bên cạnh đó, ông còn lấy những ký lục trong chuyến lữ hành của mình viết thành sách với tựa đề Phật quốc ký. Sau đó ông thị tịch tại Kinh Châu Tân tự. Niên đại thị tịch của ông được xác định trong khoảng từ năm thứ 14 niên hiệu Nghĩa Hy (418) cho đến năm đầu niên hiệu Cảnh Bình (423). Cùng với Huyền Trang (602 - 664), Nghĩa Tịnh (635 -713), ông được xem như là một trong những danh tăng từng chiêm bái Ấn Độ.
28. Bác sĩ khéo chữa trị, người trí giỏi dẫn đường
Đức Phật là người, không phải là thần thánh. Các vị thần nói chung đều dùng vào thần thông để thưởng thiện, phạt ác. Thế nhưng, Đức Phật là bậc trí giả sáng suốt, đại giác ngộ, Ngài lấy chân lý làm trung tâm chỉ ra phương hướng chính xác nhất cho muôn loài. Ví dụ:
Trong lòng chúng ta có bệnh tham, sân và si, Đức Phật đã kê đơn thuốc quản lý chính là giới, định, tuệ để hướng dẫn chúng ta chữa trị. Thế nhưng, chúng ta có điều trị khỏi hay không đều tùy thuộc vào việc chúng ta có sẵn sàng hợp tác với thầy thuốc hay không.
Thực ra, mỗi một pháp môn trong số 84.000 môn mà Đức Phật đã nói đều là một đơn thuốc để chữa khỏi bệnh tham sân si cho chúng sinh, nếu không chịu uống thuốc thì đó không phải là lỗi của bác sĩ.
Lại như ví dụ khác, khi chúng ta bị lạc, Đức Phật giống như người chỉ đường, dẫn dắt chúng ta đi tới con đường tươi sáng. Đấy chính là phương pháp quản lý “lấy thân làm tấm gương” của Đức Phật. Ngược lại, nếu chúng ta không muốn làm theo lời Phật dạy thì đó không phải là lỗi của Ngài.