Sớm sớm thức dậy, ông Thăng bần thần, ngồi nghĩ miên man bên đống lửa, đăm chiêu nhìn cái ấm đất sứt tai, lúc lại òng ọc kéo điếu thuốc lào, ho sù sụ. Mệt không còn sức nhả khói, cứ ngửa cổ cho khói bay ra. Có lần, ông nhả khói vào cái điếu mà không để ý. Từ ngày bà Mía bỏ ông về cố hương, cái lưng ông còng xuống nhanh quá. Ba đứa con càng lớn, miệng ăn núi lở. Vắng bà, ông không chỉ mất người phụ nữ cùng lo liệu cho con, mà thiếu cả bàn tay khâu vá. Lắm hôm, ông nhìn thằng Út Ly đi chăn trâu về, trên vai còn vác theo nào củi, nào cỏ, hôm thì xâu cá, mớ rau, mà cái áo nó rách hở vai, cái quần che không kín cái đít, rách to không rơm nào túm lại được nữa, mắt ông lại thấy cay cay, rơm rớm tràn ra giọt nước mắt nhớ bà. Nhà không có đàn bà như giỏ mất hom. Ông đưa tay vuốt lên khuôn mặt khô khốc xua đi nỗi cô đơn, đăm chiêu nhìn ngọn lửa. Chợt bếp than nổ tí tách, tung lên một chùm hoa lửa.
Ông Thăng nhìn thằng Út Ly nằm trên tấm phản, ruột se sắt. Tuổi nó trên châu lỵ, con người ta đi học cả rồi. Cái tổng Yên Thái lấy đâu ra trường, ra lớp, ra thầy! Nó không biết đọc cái chữ, làm sao nó được cấp sắc? Con trai người Dao lớn lên phải được cấp sắc sau này còn cúng cái ma nhà mình. Không được cấp sắc, bao giờ nó mới có cái tên phật? Lúc già nó chết, thầy cúng gọi cái ma nó bằng thằng được à! Tục lệ có từ cố hương. Con trai Dao phải biết chữ Nho, phải đọc được sách cúng ma, để được cấp sắc. Giá thằng bé còn mẹ, ông không phải nghĩ ngợi. Nhưng giờ không nghĩ, ông vẫn phải lo. Nhìn thằng Út Ly ông nhẩm, vụ này cũng phải bán vài giạ thóc, thiếu gạo đã có củ mài. Dành dụm cho nó vài đồng, đón thầy Thân, là chỗ họ hàng bên ngoại nhờ thầy dạy cho nó cái chữ.
Ông mở to mắt. Không hiểu sao, hôm nay ông mới nghĩ ra điều này. Theo thầy Thân, thằng bé học được cái chữ, lại biết cả sách cúng ma, chứ nó theo thầy đồ, lên tận châu lỵ, tiền thầy còn không có, nhà ông lấy đâu ra tiền trọ học!
Nghĩ thế, ông lần cạp quần nắn thử cái bọc. Ông không cần mở ra đếm cũng nhớ, bố con ông năm nay dành dụm được mấy đồng. Tết này, ông đã định bụng, may cho ba đứa, cả con chị nó nữa, mỗi đứa một tấm áo mới. Giờ có nhẽ, ông mua đôi lợn giống. Sang năm, thằng bé theo học thầy cúng về, hai con lợn cũng lớn là vừa. Ra Giêng ấm áp, cho ấp mái gà, bắt cặp dê. Qua tết Đoan ngọ, đón thầy về làm lễ cắp sắc cho tròn bổn phận làm cha. Nay mai nhỡ ông có mệnh hệ, về với tổ đường ông cũng dễ nhắm mắt.
Bản người Dao ở đâu cũng lập ngôi miếu bên cây cổ thụ. Mùng ba, mùng năm tháng Giêng, rằm tháng bảy làm lễ tế thần, kêu cầu thần linh, thổ địa, thần núi, thần sông phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, dân bản an lành, quốc gia an thái. Cũng có khi dân bản, hay con cháu trong họ làm ăn thất bát, hoạn nạn thiên tai, họa vô đơn chí…, con cháu trong họ bảo nhau sắm lễ, kêu cầu Bàn Vương về cứu thế độ trì, cầu thần linh về phù hộ cho mùa màng không bị thất bát, con cháu tránh được hoạn nạn rủi ro.
Truyền thuyết của người Dao kể, Bàn Vương là Long Khuyển Bàn Hồ, lập công lớn giết tướng giặc ngoại xâm Cao Vương, được Bình Vương ban thưởng, lại gả công chúa cho. Vợ chồng Bàn Hồ sinh được sáu người con trai, sáu người con gái, lại được Bình Vương ban sắc lập mười hai họ, là các họ Phượng, Bàn, Lan, Mãn, Uyển, Lương, Đặng, Trần, Đối… Tống, Lưu, Triệu, là mười hai họ của người Dao bây giờ. Khi Bình Vương qua đời, ngài không có con trai, lại nhường ngôi cho Bàn Hồ. Bàn Hồ giữ nếp cần cù, giản dị, dạy cho con dân trồng lúa, trồng đay, trồng bông kéo sợi, dệt vải. Sau này Bàn Vương qua đời, ngày tết, ngày lễ, người Dao thờ cúng ngài trên bàn thờ gia tiên. Tổ chức lễ cúng cộng đồng tại nơi đền miếu.
Nói đến thầy Thân động Loong Coong thì ai cũng biết, một thầy cúng lành hiền, tử tế. Phải người có tâm có đức mới làm thầy. Nửa đêm gà gáy, lúc nắng lúc mưa, khi trái nắng giở giời, hễ có ai thỉnh, dù mệt nhọc thế nào cũng phải ôm sách, cắp đồ, chống gậy mà đi. Khi thì người ốm, khi người đau, khi người chết nằm đợi. Nhà này gọi cúng mát nhà, nhà kia chờ cúng ma, làm chay. Nhà này chưa cúng ma xong, nhà kia đã đợi, đón đi làm lễ này, lễ khác. Sang năm nay, cái lưng thầy còng xuống trông thấy, thầy lại thêm cái lo, ông sắp làm liên lụy đến dân bản rồi.
Bốn đứa con gái nhà thầy, sắc thì không ai bảo xấu, chịu khó thì ai cũng khen. Tính cách giống cha, nết na giống mẹ. Nhưng tục lệ thế rồi. Con gái không làm thầy cúng bao giờ. Bản người Dao muốn thay thầy cúng phải sắm sửa đồ lễ, không ít đâu, nào gà, nào lợn, nào gạo, nào rượu…, cả bản gò lưng ra gánh. Tế lễ thay thầy phải kêu Ngọc Hoàng, Bàn vương, thần linh thổ địa, lễ bảy ngày đêm, có bản mười hai ngày đêm, xin âm dương mới thuận.
Nhưng xót xa nhất, cái nghiệp làm thầy ông cha để lại, cả đời ông thành tâm giúp dân bản, tối lửa tắt đèn vui buồn bấy nhiêu năm, rồi đây ông phải gác sách, treo đồ! Nghĩ mà nhiều đêm ông khóc thầm. Có đêm ông nằm mơ, ông cưới rể đời. Cưới rể về làm rể đời, con rể sẽ đổi họ sang họ nhà ông. Con cái đẻ ra theo họ mẹ. Sau này, nó cúng cái ma nhà ông. Chuyện trong bản có tục lệ rồi. Nhưng rể về kế nghiệp thầy cúng, không biết, liệu dân bản có thông? Ông trời có thuận? Chưa kể cả đời ông làm thầy cúng, bạc trắng không đủ cưới một rể đời đâu. Vẫn phải vay mượn dân làng, hàng chục đồng bạc trắng, ít à? Còn bao nhiêu thứ đi theo!
Thầy Thân vặn mình răng rắc, ngáp một cái thật dài, cầm chén nước lên nhấp miệng, lại kéo điếu thuốc lào. Khói bay lên gác bếp đắp dày mấy tầng bồ hóng. Mắt thầy rưng rưng nhìn lên bàn thờ gia tiên. Chưa kịp buông một cái thở dài, đã nghe có người đánh tiếng ngoài sân. Nhìn ra, thì là ông Thăng.
Ông Thăng chống gậy, đứng ngoài sân đằng hắng. Thầy Thân đang ngồi hút thuốc một mình, mau miệng lên tiếng:
- Mời ông vào xơi nước!
- Tôi chào thầy! - Ông Thăng vươn cổ lên thở, cố nói nhỏ.
- Không phải khách sáo! Ông lại sang khất nợ chứ dề? Có mấy giạ thóc mà ông cứ cả nghĩ. Bữa nào tôi gả chồng cho bọn nó, ông đem sang giúp được mà. Từ ngày bà Mía bỏ đi, mấy tết rồi còn gì? - Chủ nhà rót nước ra mời. Câu chuyện như giãi lòng cho nhau.
- Báo cáo thầy, hai mùa đông rồi. Mà nợ thầy vẫn nguyên! - Khách áy náy.
- Nhanh thế đấy! Người ta sống thì lâu, chết chả mấy chốc. Bà ấy đã thành người thiên cổ rồi. Cầu cho bà ấy về cố hương sớm siêu sinh tịnh độ!
- Cám ơn thầy! Người sống thấy lâu, vì phải vừa làm, vừa trả nợ, còn người chết họ yên bề cõi vĩnh hằng mà - Cả hai bật cười xót xa.
- Thế hôm nay, ông sang nhà có việc gì? - Ông Thân thật thà, vì có thấy ông Thăng bỏ nhà đi chơi bao giờ.
- Có đấy. Nhưng thưa thầy, lúc đi thì nghĩ rồi, giờ gặp thầy lại ngại quá đi! - Ông Thăng thật thà.
- Ông cứ nói mà! Mình có đi buôn đâu mà sợ lỗ lãi!
- Vâng! Thế thì tôi nói. Tôi muốn nhờ thầy dạy thêm chữ cho thằng Út Ly…!
- Tôi... Thằng Út Ly? Thằng thần đồng động Loong Coong ấy à? - Ông Thân thực sự ngạc nhiên, bởi thầy cúng xưa nay có bao giờ dạy chữ!
- Vâng! Chính thế,… thưa thầy. Nhưng…! - Ông Thăng nói một mạch những điều bao nhiêu đêm ông đã vắt óc ra nghĩ.
Cả hai im lặng nhìn đống lửa. Ông Thăng bối rối, hơ tay trên bếp. Chủ nhà chợt nhớ câu chuyện dở dang. Có đêm nằm nghĩ chuyện cưới rể, ông mơ thấy thằng Út Ly mặc áo cưới. Thằng bé thông minh, tháo vát, chịu khó lam làm. Cả Yên Thái ít đứa được như nó. Nhưng dạy chữ thì xưa nay chỉ có thầy đồ. Nghĩ sao nói vậy, ông trải lòng thông cảm. Nhưng ông Thăng đã cất công đến nhà, cố nói hết những gì ông đã nghĩ ngần ấy đêm rồi bảo:
- Thầy thông cảm, tôi mới dám nhờ. Thầy dạy cho thằng bé cái chữ, sau thầy đi đâu, cho nó theo thầy chép sớ, ôm đồ. Thầy dạy cho nó cái nghề để nó nên người, bố con tôi đội ơn. Thầy biết mà, mẹ nó bỏ đi, một mình tôi không có khả năng lo cho nó theo học thầy đồ...!
Nghe ông Thăng nói, có đầy tớ chép sớ, gổng đồ, tự nhiên ông Thân vặn mình. Cái lưng kêu răng rắc, thì thầm câu một:
- Để tôi nghĩ mấy hôm cái đã… Nhưng mà, thôi,… có gì phiên chợ sau,… ông bảo thằng bé sang bên này!
Nghe thầy Thân nói, tự nhiên ông Thăng thấy bà Mía hiện về, nhìn ông. Mắt ông cay dần, vội đứng dậy, xin phép ra về.
Từ hôm Út Ly sang nhà thầy Thân học mài mực, chép sớ, gổng đồ, bốn cô con gái nhà thầy tự dưng thay đổi tính tình. Ngẫm ra, thầy có chữ có khác. Thầy đặt tên cho bốn cô con gái, nghe qua chỉ nghĩ chân quê. Nghe thầy giảng giải, ai cũng gật gù. Bốn cô: Mơ, Mận, Hoa, Lê. Thầy nói ngày ấy, nhà thầy trên ngọn nguồn sông Năng. Chị Mơ con cả, cất tiếng khóc chào đời lúc hoa mơ Hồng Thái nở trắng đồi thấp đồi cao. Cái Mận hoa mận. Cái Hoa hoa lê. Mỗi cái Lê đẻ vào lúc vườn lê chín ngọt. Ba cây này đều có hoa trắng ngần, quả thì thơm ngon, chín vào mùa hè. Đặt như thế là thầy mong các con sau này trắng trong, dịu ngọt, có ích cho đời.
Út Ly ngồi mài mực bên tấm ván kê làm bàn chép sớ, lúc lại bị các chị nhìn trộm. Út Lê vô tư, mắt đen láy, thích đi lấy nước cho Út Ly mài mực, để được nghe anh kể chuyện:
- Hôm nay thích chuyện gì nào? Chuyện Thạch Sanh nhá?
- Em thích sự tích loài người cơ!
Út Ly vừa mài mực, vừa kể…
Nghe kể, cái Hoa đến đấm vào lưng chị Mận, bảo:
- Chị thấy không? Người trong làng lấy nhau toàn thấy vợ hơn tuổi chồng. Người ngoài bảo, trong làng lấy vợ là lấy người làm. Hóa ra không phải. Sự tích loài người thế rồi.
Chị Mận kiếm cớ, đi ra đi vào, đi qua tấm phản Út Ly ngồi chép sớ, vừa nhìn trộm, má đã đỏ. Ngồi dệt vải, tai vẫn để nghe chuyện. Bị cái Hoa trêu, chị bảo:
- Mày lắm chuyện. Hôm nọ nhảy như cào cào, hót như chích chòe. Nay đi thì chớ, về là dán đít vào cái loỏng giã gạo hóng hớt.
Chị Hoa lại giải thích cho Út Lê, mắt liếc trộm chị Mận:
- Út Lê nghe chưa? Cả tổng này, cả vũ trụ này đều là chị em đấy.
Mận thì thầm sai Út Lê đến hỏi tuổi Út Ly. Cái Lê hét toáng lên trêu:
- Sao chị không tự đến mà hỏi anh Út Ly!
Mận giật mình, liếc trộm về phía Út Ly, mặt đỏ rần.
Mặt Út Ly cũng đỏ theo, cắm cúi ngồi mài mực.
Út Lê nhớ, hôm Út Ly hỏi tuổi nó. Nó xòe ba bàn tay, thêm một ngón, chỉ vào Út Ly, ra điều nó đoán Út Ly mười sáu tuổi, đúng không?
Út Ly gật đầu, hỏi lại:
- Còn Út Lê?
Con bé xòe ra hai bàn tay. Út Ly lại tò mò hỏi tuổi chị Hoa, Con bé lại gào toáng cả nhà:
- Uờ! Chị Hoa ơi! Anh Út Ly hỏi tuổi chị này.
Cả Hoa, cả Út Ly không ai nhìn ai, mặt nóng bừng.
Út Lê nói thầm vào tai Út Ly:
- Mười lăm rồi đấy.
Thêm cậu học trò, có bữa thêm miệng ăn, chị Mơ như người lớn, không đàn đúm đi hát páo dung bản nọ bản kia nữa. Ngày, theo mẹ lên nương, ăn xong buông bát buông đũa, lại ra nhóm bếp nấu bông, kéo sợi, hôm thì ngồi dệt đến khuya, thêu chăn, thêu áo. Phụ nữ Dao đến tuổi lấy chồng, ai cũng tự may cho mình một bộ áo váy, đôi chăn gối, đem về nhà chồng làm của hồi môn. Bên bản Tày có nơi còn có tục lệ, con dâu về nhà chồng phải lo cho mỗi người con trai bên nhà chồng một bộ chăn gối, làm quà.
Ông Thân không ngờ, trước chỉ nghe, thằng Út Ly khôn quá, già trước tuổi. Người yêu thì nói, thằng bé lam lũ không lớn lên được. Giờ mới thấy, nó chưa học chữ mà chép sớ cũng được. Mấy tháng vừa học, vừa chép sớ, nó tự viết được một bản sớ ngay ngắn, chữ vuông như chữ thầy đồ, đọc cứ tưởng sớ của thầy chính hiệu.
Út Ly lẽo đẽo gổng đồ theo thầy leo đèo, lội suối, đi theo bờ ruộng, bờ rừng. Bóng lúc khuất vào núi, lúc hiện ra trong làng. Thầy Thân rút khăn vai lau mồ hôi, quay lại bảo:
- Ta không tin cậu giờ mới học chữ!
- Bẩm thầy, đúng thế ạ!
- Cậu ngồi chép sớ mấy tháng, mà chữ vuông vắn như chữ thầy đồ.
- Vâng! Con phải cố gắng lắm đấy ạ.
Thầy Thân nảy ý đùa:
- Ta thừa nhận, cậu học chữ nhanh như con nhà nghèo húp cháo, học lỏm nhanh hơn kẻ cắp.
- Bẩm thầy…!
- Không phải thưa bẩm. Ta hỏi cậu, sao hôm đi cúng mát nhà ở Yên Mục, cậu phát hiện ta đọc nhầm sớ nhập trạch?
- Bẩm! Con nghe thầy đọc mãi thì tự nhớ thôi ạ!
- Cậu nhớ bữa đi lễ cầu tài, cầu lộc trên Yên Thổ không? Hôm ấy ta bị lên cơn sốt đùng đùng. May mà cậu dám khoác đồ thay ta làm lễ tiếp, không thì mất phước nhà người ta. Hà hà. Cậu cũng liều thật đấy!
- Bẩm! Nếu không, thầy trò mình cũng mất phước ạ.
- Hôm ấy, thầy trò vừa thu đồ thì con trâu ngoài chuồng đẻ con nghé cái. Nhà nó bảo, cậu mát tay phát lộc lắm.
- Lúc về, chủ nhà gói cho đĩa xôi to, đôi chân giò, còn cả con gà, đưa ra tận cổng thầy ạ.
- Cậu giờ nổi lên như thần đồng, không học mà làm thầy mát tay.
Qua châu lỵ, Út Ly nhìn người đàn ông mũi lõ tóc quăn, bụng nung núc những mỡ ngồi trên xe, phì phèo điếu xì gà, để người con trai gầy trơ xương kéo xe lên dốc, da bụng dính da lưng, thở dốc. Út Ly hỏi thầy:
- Sao cái người béo phệ kia không chịu đi, lại bắt người ta kéo chứ?
- Ông ta là chủ mỏ kẽm. Còn người kéo xe là cu li, con ạ.
- Ông chủ gì mà tai ác!
Lại thấy gã mũi lõ mắt sâu, râu rậm quất roi da đen đét lên lưng, lên vai ông già bản xứ. Mặt Út Ly nổi gân. Ly đặt túi đồ xuống đất, toan chạy lại.
Thầy Thân kịp giữ tay, bảo:
- Rồi cái roi lại quất lên lưng con đấy!
- Nhưng ông ấy già hơn bố con rồi!
- Con phải lớn lên cái đã.
Út Ly bước đi còn ngoảnh lại nhìn ông già, mắt đỏ hoe.
Thầy Thân kể cho Út Ly nghe:
- Nước Pháp ở phương Tây, cách ta mấy chục ngàn dặm, sang chiếm thuộc địa. Họ bỏ tiền ra thuê nhân công rẻ mạt, bắt cu li khai thác, vơ vét tài nguyên của các thuộc địa đem về nước. Vừa đặt chân lên Khánh Thiện họ đã triệu tập tù trưởng người Dao các nơi về cho ăn, cho quà, hứa nước Pháp sẽ bảo hộ cho người Dao không bị người Tày, người Kinh chèn ép. Họ dựng cấp châu có quản trị, tổng có chánh Dao; xã có động trưởng Dao. Xứ Nà có động trưởng Triều Nguyên cam tâm làm việc cho Pháp. Họ lôi kéo người có chức sắc tín ngưỡng, thầy cúng có uy tín bổ vào đứng đầu các cấp, cai quản người Dao.
Út Ly lỡ miệng, chợt hỏi:
- Sao thầy không ra nhận một chức quan?
- Người Dao ít người cam tâm làm cho Tây. Lớn lên, con sẽ hiểu. Giờ con cố mà học lấy một nghề đi đã!
Thầy Thân chợt nhớ, đêm mơ cưới rể! Thầy lại nghĩ đến cái Hoa, thằng Út Ly.
Út Ly nhớ ra điều gì, vội nói:
- Thì ra, giờ con mới hiểu, tại sao cùng là trẻ chăn trâu, mà bên cần Tày không thả trâu cùng bãi, không đánh quay, đánh khăng, chơi pù lá, chơi ô ăn quan với trẻ con Dao. Người Dao, người Tày tranh nhau từng mảnh ruộng. Vạt nương bỏ hoang người Dao vừa phát, kiểm lâm đã biết, dẫn chánh tổng đến bắt phạt phá rừng. Trẻ con hai bản có lần chặt gậy đánh nhau, tranh nhau một bãi chăn trâu.
Thầy Thân kể tiếp:
- Họ còn chia rẽ người Dao với nhau, mua chuộc các thầy cúng làm tay sai cho họ. Người có cái bụng xấu theo Tây, lại đặt ra những chuyện tự chia rẽ người Dao, xúi giục họ Bàn không thông gia với họ Đặng thì đặt ra câu chuyện, ngày xưa, ông Bàn Đại Hộ cùng bà Đặng Thị Hành đi tìm đất đưa người Dao di cư. Khi đi, ông Hộ họ Bàn bảo bà Hành họ Đặng đem theo gạo ăn đường. Bà Hành họ Đặng muốn nhẹ người, đem gạo đi bán, bọc tiền đi theo. Đến khi ăn hết gạo của ông Hộ họ Bàn, tiền của bà Hành họ Đặng không đong được gạo. Bị đói, từ đấy ông Hộ họ Bàn thề: Họ Bàn không được thông gia với họ Đặng nữa. Bao giờ ống nứa đập vỡ mà lành lại được mới cho lấy. Rồi họ Bàn cũng không lấy vợ họ Trịnh, đặt ra chuyện, có ông họ Bàn vợ mất sớm, lấy bà họ Trịnh về làm vợ kế, mong được ấm cửa, ấm nhà. Nhưng bà họ Trịnh về lại ngược đãi con chồng, khiến cửa nhà tan nát. Con cái bỏ đi mỗi đứa mỗi nơi. Sau này, ông họ Bàn thề, không đời nào cho con cháu cưới xin gì với con cái nhà họ Trịnh!
Thầy Thân quay lại, thấy Út Ly ì ạch đổi vai, đùa:
- Trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu, mà có cái chân giò, con gà, gói xôi cậu cũng phải đổi vai à?
- Bẩm thầy! Có cái khăn mặt vắt vai mà con thấy thầy cũng đổi đấy ạ!
Thầy Thân hấp háy mắt cười, nhớ lời ông Thăng:
- Thằng bé lam làm, tham việc nên không lớn lên được!
Thầy lại nhớ, ông chánh tổng bảo:
- Thằng Út Ly nhà lão Thăng khôn không lớn lên được. Cẩn thận coi chừng những đứa khôn!
Thầy Thân lại cặn kẽ kể cho Út Ly nghe:
- Người Dao có nhiều ngành. Mỗi ngành Dao có tập quán, tiếng nói riêng. Dao Áo Dài, Dao Thanh Y, Dao Quần Trắng, con cái muốn lấy nhau phải xem hai nhà có cùng họ, trùng họ, hay trong họ không đã. Hai nhà cùng họ thì cùng thờ một cái ma. Người Dao đến nhà ai, nhìn bộ tranh thờ, thấy cùng thờ bộ tranh nhà mình, thì đấy là anh em, dù không cùng cha, khác mẹ, vẫn như ruột thịt, không thông gia với nhau bao giờ. Hai nhà trong họ có cùng tổ tiên, con anh con em bốn đời không được lấy nhau. Nhưng con chị, con em vẫn gả bán cho nhau được. Còn hai nhà trùng họ, chẳng hạn cùng là họ Bàn, họ Đặng, họ Vi…, nhưng không cùng huyết thống, con cái tự do tìm hiểu.
Thầy Thân về đến cổng, ho đánh tiếng. Út Ly gổng đồ đi sau. Bốn cô con gái đang ngồi thêu dệt, cùng tròn mắt nhìn ra. Út Lê ra, vít túi đồ trên vai Út Ly xuống xem, reo lên:
- Biết ngay mà, có mận Hồng Thái nhá.
Cái Hoa chạy ra đỡ đòn gánh trên vai Ly, đi thẳng xuống bếp. Chị Mận nhấp nhổm muốn bước ra, nhưng lại ngồi xuống, mặt đỏ rần. Út Lê ra ôm cổ Út Ly, đòi kể chuyện ngay.
Út Ly vừa ngồi xuống đã quai miệng ra ngáp, vẫn chiều Út Ly, bảo:
- Ta theo thầy lên tận Hồng Thái về nhá. Nhiều chuyện hay lắm. Ai thích kể chuyện gì nào?
- Chuyện gì cũng nghe - Út Lê giục.
- Vậy thì nghe chuyện sự tích Đèo Gà nhá.
- Đèo Gà, Yên Thái á?
- Ờ! Người Yên Thái phải biết chuyện sự tích Đèo Gà chứ.
Út Ly bắt chước lối kể chuyện của bà nội ngày trước:
- Ngày xửa ngày xưa, khi trái đất chưa nguội như bây giờ, rừng còn rậm rạp, cây cối xanh tươi. Mặt đất là ngôi nhà chung của muôn loài bách tính. Rồi trái đất nguội dần, muôn sinh phát triển. Mỗi loài độc chiếm cho mình một xứ địa. Loài gà lôi chiếm được một vùng rộng lớn. Trước mặt có sông, sau lưng có núi, suối chảy róc rách bốn mùa…
Hóa ra, không chỉ mình Út Lê thích nghe, mà cả bốn chị em càng nghe, lỗ tai càng tròn ra. Chị Mơ thừa nhận, Út Ly kể chuyện có duyên.
- Thôi ứ nghe nữa! - Út Lê ghét chuyện đánh nhau.
- Em không nghe thì bịt tai đi! - Cái Hoa thích cánh gà lôi kiêu căng bị đánh đau, muốn nghe tiếp.
- Cậu kể tiếp đi! - Chị Mận ngồi tết dây bao dao bên loỏng giã gạo, lúc lại liếc trộm Út Ly, lên tiếng.
- Kể tiếp nhé - Út Ly lại kể - Ngày thứ ba, cánh gà lôi hai ngày bị đánh tan tác, lại kéo về đồi gianh, nghe tin cả bè cưỡng trắng bị đánh úp trên sông không con nào kịp trở về, thì hoang mang. Nhưng danh dự, sự kiêu căng bị đụng chạm. Nợ cũ chưa trả, lại bị thua thêm trận tan tác mới thì máu sôi lên, lại hung hăng hô hào một trận sống mái nữa.
Sau mấy ngày mưa, trời hửng nắng. Rút ra bài học hai lần đi đánh trời mưa, lần này, chờ nắng lên, rừng khô, gà lôi mới dám hò nhau lên núi. Những con gà cổ cánh còn băng bó, lông chỗ trắng, chỗ hồng, mấy bữa chia nhau từng quả si già, bụng đói, lại túc túc toác toác hò hét đi trả thù.
Bên phía gà cỏ, sau hai trận thắng tinh thần đang lên. Lều trại được củng cố. Những con trống choai bị thương tích được đưa về phía sau. Các cô mái mơ lên chốt động viên các chú trống gan dạ. Một tuần ăn no, sức khỏe phục hồi, gà cỏ cắt cử nhau lên núi cảnh giới.
Bỗng các chòi quan sát báo về, gà lôi lại tập hợp bầu đàn, đang tràn lên trắng nửa đồi gianh. Những chú gà cỏ lại được lệnh lên chốt. Đồi gianh một lần nữa rung chuyển. Những đôi cánh nửa trắng, nửa hồng chấp chới bay lên. Trên núi, gà cỏ bình tĩnh chờ đợi, chuyền tay nhau viên đá, mài cho cái cựa, cái mỏ sắc hơn.
Chợt nghe ba tiếng gà gáy trên đỉnh núi. Đám mái mơ cắp bên mình những bao lông gà, bay vút lên trên tầm bay những đôi cánh trắng, bất ngờ mở miệng bao. Lông gà mù mịt bay ra, khiến bầy cưỡng trắng mất phương hướng, rơi vào các ổ phục kích. Tiếng gà trên đỉnh núi lại cất lên. Những chú trống choai nấp dưới lá khô đồng loạt nhảy ra, đạp túi bụi vào cổ, vào đầu, vào những chỗ đau chưa liền của đối thủ. Gà lôi chỉ quen giao chiến ở bãi trống, nay bị ra đòn trong rừng, đội hình tan tác. Khi nhảy lên, đụng phải cành cây, lúc rơi xuống, đạp phải lông gà trượt chân ngã xiêu vẹo. Đám trống choai tới tấp tung cước, móc cựa vào chỗ nọ, chỗ kia. Gà lôi rách cổ, rách diều, từ đầu đến chân bê bết những tiết là tiết.
Hai bên ẩu chiến. Bụi bay mù mịt đất trời. Thủ lĩnh gà cỏ từ trên đỉnh núi để ý, thấy cuộc chiến không nên tiếp diễn, liền gáy ba hồi thu quân. Đám cưỡng trắng đói lả, cũng tự tìm đường, dìu nhau xuống núi.
Tuy chiến thắng, nhưng thiệt hại bên gà cỏ cũng không vừa. Thủ lĩnh nhắc chăm sóc các chú trống bị đau, ban phát khẩu phần cho những trống choai, mái tơ quả cảm, cắt thêm đất phần cho đàn gà nào lập nhiều chiến tích, nhắc các nơi tiếp tục đề phòng. Thủ lĩnh đích thân đem ngũ cốc, thuốc men sang thăm hỏi cánh cưỡng trắng bị đánh đau, chia sẻ với đàn có cưỡng trắng mất tích không về.
Hai Ba tháng Chạp năm ấy, Táo Công Kéo Khà lập sớ tấu trời. Ngọc Hoàng nổi giận, sai Thiên Lôi về điều tra. Khi rõ ngọn ngành, nhà trời hạ chỉ, thu hết đất phần của gà lôi. Gà lôi từ đấy xấu hổ, kéo nhau lên núi tìm hang lánh mặt. Thổ thần hai xứ cũng lập sớ tấu lên Ngọc Hoàng, xin đổi tên đèo Kéo Khà (đèo Gianh), nơi xảy ra ẩu chiến giữa hai loài gà, thành Đèo Gà, nhắc nhở từ nay, không được tranh chấp đất phần gây ra ẩu chiến. Ngọc Hoàng đã cho chuẩn tấu!
Út Ly kể hết câu chuyện đứng lên, mấy chị em mới giật mình, từ nãy cứ tròn tai ra nghe, không ai thêu được mũi nào. Cái Lê còn muốn nghe nữa, chạy ra giữ tay Út Ly, dùng dằng muốn anh ở lại kể nốt câu chuyện sự tích núi Cô Tiên, Chú Khách. Út Ly nhìn mặt trời, vội nói:
- Ta phải về rồi - Út Ly ngáp một cái thật dài, vươn vai đứng dậy, nói tiếp - Đi bộ mất gần chục ngày, mỏi chân phết đấy.
- Đi bộ suốt á? - Cái Hoa lè lưỡi, trợn tròn mắt lên nhìn Út Ly.
Chị Mơ giờ mới lên tiếng:
- Đợi ta tý. Để ta đi hái lá. Tối nay bố với cậu ngâm chân.
Chị Mận cũng đứng dậy, nói:
- Cho em đi với!
Vừa ra đến cổng, khuất sau bụi cây, Út Ly giật mình. Chị Mận đã đứng ở đó từ lúc nào, dúi vào tay Út Ly sợi dây thêu, vụt chạy theo chị Mơ. Út Ly ngơ ngác, chưa hiểu chuyện gì, thì một người trùm khăn, bịt mặt ập đến, giật sợi dây thêu trên tay Ly, giọng ồm ồm đe dọa:
- Từ nay, tao cấm thằng nhãi ranh đến gần cô Mận! Sợi dây này không phải cho mày, nhớ chưa!
- Ông là ai?
- Là ai, mày không phải hỏi. Biến!
Út Ly nhìn lên, thấy một người cao to, trùm khăn đen, hở hai con mắt giống ông thần mắt đỏ trong truyện cổ tích, đành lủi thủi đi về.
Một chiều ở trên nương, Út Ly nhìn nương ngô cây nào cũng cho hai cái bắp to. Út Ly ra sửa lại cái áo tơi, đội lại cái nón rách trên đầu ông bù nhìn, buộc lại cái mõ trên tay ông cho gió lay kêu lốc cốc. Bỗng nghe dưới suối có tiếng ho. Út Ly nấp vào bụi cây, lẩm bẩm một mình:
- Ai vào đây giờ này? Sao đường cái nó không đi, lại đi theo con suối?
Người lạ tìm lối lên nương.
Út Ly đặt tay vào bao dao, ngồi sau gốc cây, lẩm bẩm một mình:
- Nó mặc quần áo người Dao. Cái cúc áo kia không phải người Dao châu Khánh Thiện. Mình chưa gặp nó bao giờ.
Người lạ nhìn quanh như thể tìm ai. Út Ly lại lẩm bẩm:
- Nó không phải kiểm lâm. Kiểm lâm mình biết hết mà.
Người lạ bắc tay làm loa gọi tên Út Ly. Út Ly càng ngồi im trong bụi rậm. Người lạ lại lên tiếng:
- Ta biết Út Ly đang ở trên nương mà!
Út Ly thận trọng nhìn xung quanh, rồi lên tiếng:
- Ta không biết người mà!
Người lạ cởi mở, cười bắt chuyện:
- Trước lạ sau quen mà. Ta lại biết cậu rồi đấy. Cậu là Út Ly, nhóm trưởng chăn trâu động Loong Coong, đúng không.
Út Ly cười theo, bụng còn thắc mắc, hỏi:
- Nhưng anh là ai?
- Cậu cứ gọi ta là người núi đi. Ta muốn tìm cậu để gặp con trai, con gái tổng Yên Thái đây!
- Nhưng sao lại tìm tôi? - Cái bụng Út Ly thắc mắc.
- Có người giới thiệu cho ta rồi mà.
Hai người nói chuyện rất lâu. Người lạ nhìn mặt trời, rồi bắt tay Út Ly, lại ngược con suối đi lên núi.
Rồi những lần hẹn hò và những lần gặp nhau về sau tin tưởng, Út Ly nghe anh giới thiệu, tên anh là Hùng Sơn, phái viên của phái bộ Việt Minh, thực hiện chủ trương của Mặt trận Việt Nam Cách mạng đồng minh đã đi vận động dân ta đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật, chống bắt phu, bắt lính, vận động trai tráng tham gia đội vũ trang Việt Minh. Anh nói thật dễ nghe, dễ hiểu, dễ tin. Nghe những chuyện anh kể, cái tai, cái mắt Út Ly hết tròn ra, lại sáng lên.
Ngày trước, Út Ly chỉ biết căm ghét bọn cường hào ác bá thu sưu cao, thuế nặng. Người dân không có tiền, không có thóc nộp, bị nó đánh roi da. Nó bắt đền nhà chánh tổng làm cỏ không công. Giờ thì Út Ly đã hiểu, bọn địa chủ, cường hào ác bá chỉ là cái đinh đóng vào cây gỗ, đục khoét dân ta. Cái đinh phải có cái búa mới đóng được. Cái búa chính là bọn thực dân Pháp. Người dân nô lệ bị áp bức một cổ hai tròng: một là bọn thực dân, hai là địa chủ cường hào phong kiến. Bọn phong kiến tay sai lại nặn ra những hủ tục mê tín dị đoan, ma chay, cúng giỗ, thách cưới linh đình khiến cho dân ta cả đời lam lũ, nộp sưu cao, thuế nặng. Một đời đầu tắt mặt tối làm không đủ ăn, còn phải gồng lưng trả nợ, nào là nợ thuế, nợ cưới, nợ làm ma, làm chay, nợ đủ thứ trên đời. Nợ đời ông chưa trả chồng lên nợ đời cha. Nợ đời cha chồng tiếp lên nợ đời con, đời cháu.
Sau cách mạng tư sản Pháp, thực dân Pháp áp dụng chính sách cải lương hương chính, dùng người thuộc địa cai trị người thuộc địa. Đứng đầu hàng tỉnh là quan tổng đốc, quan tuần phủ, phụ tá tổng đốc, phụ tá tuần phủ là người Pháp. Đứng đầu các châu, huyện là tri phủ, tri huyện, tri châu; cấp xã có lý trưởng, xã trưởng là người bản xứ, bổ nhiệm từ những tên địa chủ cường hào giàu có. Pháp can thiệp trực tiếp vào tổ chức bộ máy cấp xã, nhằm xóa bỏ sự tự trị và dân chủ kéo dài hàng ngàn năm của cộng đồng làng xã nước ta. Thay thế lớp nho sĩ đỗ đạt thời phong kiến, được dân chúng bầu chọn nhờ có đạo đức, học vấn, bằng tầng lớp địa chủ cường hào mới có thế lực, địa vị nhờ bóc lột mà giàu có làm quan lại cấp xã. Nhờ cải cách hệ thống chính quyền cấp xã, người Pháp kiểm soát dân chúng thuộc địa chặt chẽ hơn, ngăn chặn được các cuộc chống đối thường do các nho sĩ đứng ra tổ chức. Dựa vào tầng lớp địa chủ dốt nát, tham lam, tàn bạo, người Pháp tạo ra tầng lớp cai trị mới ở cơ sở dễ sai bảo.
Bên cạnh các chức chánh tổng, lý trưởng, xã trưởng, vùng nông thôn có các tổ chức hội đồng kỳ mục, hội đồng tộc biểu, hội đồng đại kỳ mục và các ủy viên hội đồng. Hỗ trợ quyền lực cho các chánh tổng, lý trưởng là đội quân lính dõng dốt nát chỉ biết trung thành với chủ, ôm chân đế quốc thực dân. Những cải cách của người Pháp đã truyền bá vào nước ta tệ tham nhũng, mua quan bán chức. Địa chủ cường hào ác bá phát triển. Ở nông thôn, bọn địa chủ cường hào tranh nhau vơ vét, bóc lột người dân, tìm cách kiếm thật nhiều tiền để đút lót mua quan, tạo ra thời kỳ xã hội tan rã, hỗn loạn.
Để vơ vét đem về chính quốc, người Pháp đặt ra nhiều thứ thuế vô lý, nào là thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện. Họ độc quyền thu mua muối của người dân biển, lại độc quyền phân phối đi các nơi, với giá đắt lên hàng chục lần. Họ khuyến khích dân ta trồng cây thuốc phiện, lại độc quyền thu mua. Thả tự do cho người dân nghiện hút để bán thuốc thu lời. Cấm người bản xứ nấu rượu. Người nghiện phải mua rượu của thương lái Pháp. Người Pháp sử dụng muối như một phương tiện cai trị dân các nước thuộc địa. Làng nào, ở đâu dám đấu tranh chống lại chính sách cai trị, chúng ra lệnh cắt muối. Vùng nông thôn, miền núi, chúng nặn ra thuế thân, đánh vào đàn ông từ mười tám đến sáu mươi tuổi, rồi thuế điền thổ, thuế ruộng, thuế nương, thuế lao dịch, thuế chợ, có loại thuế chưa từng thấy ở đời.
Khi nghe anh Hùng Sơn kể, những người dân không có tiền, có thóc nộp thuế, đành phải bỏ nhà trốn đi. Chúng bắt được thì đánh đập dã man. Út Ly lại nhớ đến cái roi da trên tay người Tây vụt xuống lưng ông già trên châu Khánh Thiện. Nghe kể người lao dịch bị phạt lao động khổ sai, hình ảnh người đàn ông còng lưng kéo xe chở tên ngoại quốc béo phệ, vắt vẻo ngồi trên xe, phì phèo điếu xì gà lại hiện lên.
Út Ly tập hợp các bạn nghe anh Hùng Sơn đọc lời kêu gọi của Việt Minh, kêu gọi người Việt Nam đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp. Anh Hùng Sơn nói, ngày càng có nhiều trai tráng khắp nơi trốn đi lính cho Pháp, vào rừng tham gia lực lượng vũ trang Việt Minh, hoạt động bí mật trong bóng tối. Anh kể kinh nghiệm của bà con bên Cao Bằng giấu thóc, giấu ngô trên núi, giấu mọi thứ trong hang, trốn nộp thuế. Về nhà, chàng trai chưa đầy mười tám, thấp bé nhẹ cân nhiều đêm không ngủ, muốn trốn đi theo Việt Minh, hoạt động bóng tối, nhưng lại thương bố ốm đau. Mẹ đã mất, bố còn gánh nợ dân làng, nợ thầy cúng nào là lợn, là gạo… một mình bố ở nhà, chắc cả đời bố không trả hết nợ mất!
Cả tuần theo thầy Thân đi cúng Bàn Vương trên sông Năng về, nương rẫy ở nhà cỏ mọc um tùm. Út Ly tranh thủ giúp anh chị mấy buổi cỏ. Hôm nay lại sang nhà thầy chép sớ. Vừa đến cổng, Út Ly giật mình, thấy cành nêu cắm trước ngõ. Sao nhà thầy có chuyện gì, mà không nói với học trò chứ? Chưa kịp nghĩ, nên vào hay nên về, thì Út Lê từ trong nhà chạy ra, cười khanh khách, bảo:
- Anh vào đê! Mấy hôm, chị Mận bắt em đặt cành nêu, không cho anh Nghĩa vào thôi. Chị Mận buồn, ngồi lỳ trong nhà mấy hôm rồi. Tại anh đấy. Ghét anh thế không biết! - Út Lê nói không kịp thở, tay bùm bụp đấm vào lưng Út Ly như áp giải một tên tù binh.
- Sao chị Mận lại buồn? Ai làm chị ấy buồn? Tại anh Nghĩa à? Để bữa nào ta cho anh Nghĩa một trận! - Út Ly chưa hiểu chuyện gì, cố đùa.
- Đồ ngốc! - Cái Lê bịt miệng, hi hí cười, hai mắt nhắm tít.
Vừa thấy Út Ly đi vào, Mận luôn tay bẻ những cành củi ném vào bếp. Ngọn lửa bùng lên. Trên bếp không có cái nồi nào. Út Ly đi vào. Mặt Mận tự dưng sưng lên như bị ong đốt, không nói không rằng, không thèm để ý đến ai, đi thẳng ra đầu nhà, ngồi một mình. Út Ly ngạc nhiên lại gần, hỏi:
- Chị làm sao thế?
- Ta không sao! Cậu quan tâm đến ta làm gì. Ta ghét những người cái miệng ra vẻ quan tâm, nhưng cái bụng lại nghĩ đến người khác!
- Thằng Nghĩa nói xấu chị chuyện gì à?
Mận không trả lời, lập tức bỏ lên nhà, mặt càng nặng ra hơn. Út Lê chạy ra, không nói không rằng, đẩy sau lưng Út Ly vào theo. Út Ly mặc kệ, lẳng lặng vào sửa soạn bút nghiên, ngồi mài mực. Mặt cái Lê xị ra. Mận đi tìm ấm, bắc bếp đun nước. Út Ly thấy mặt chị Mận đã bớt căng thẳng, mới hỏi:
- Thầy Thân đi lễ à?
- Đi hộ đám cưới!
- Thế chị Mơ, cái Hoa…?
- Đi cùng mẹ lên nương rồi!
- Chị giận em à? - Út Ly đổi giọng thân mật.
- Ta có trong mắt người ta đâu mà giận! - Mận nhìn bao dao của Út Ly thắt sợi dây rừng, khó chịu hỏi - Sợi dây ta tết cho đâu rồi? - Là Mận cứ hỏi, thực tình Mận đã thấy nó thắt vào bao dao của ai rồi. Mận nhận ra sợi dây thêu hai con chim do chính tay Mận vẽ.
- Ừ nhỉ, em quên mất!
- Không quên đâu. Người ta tặng người khác rồi!
- Em quên thật mà, để mai…!
- Để mai ta tết cho cái dây khác thì có! - Giọng Mận đầy trách móc.
Biết không thể quanh co, Út Ly kể câu chuyện bị người bịt mặt giật mất sợi dây như thế nào. Mận càng tự ái, bảo:
- Đồ hèn! Cậu nghĩ, ta tin cậu được à?
- Chị không tin, em đành chịu thôi. Hôm ấy, chị vừa đặt vào tay em cái gì, em còn chưa biết mà. Vừa lúc, người bịt mặt giật mất mà.
- Vậy mà, người ta bảo, có cô gái nhờ cậu tặng cho người ta đấy!
Mận không ngờ, tình cảm từ trong bụng mình thêu dệt vào sợi dây thắt bao dao tặng cho chàng trai mình nhớ thầm, lại bị người ta tặng cho người khác, người mà cả tổng chả đứa con gái nào thích nó đến gần.
Út Ly không nghĩ, chuyện có thể phức tạp như thế. Giờ, ân hận cho sự vô tâm, nhút nhát thì đã muộn. Giá hôm ấy, Út Ly không đi xa về mệt, lại thấy người ấy to cao, bịt mặt như tên cướp, sừng sững đứng trước mặt, khiến Ly sợ mất hồn. Út Ly không hiểu, sợi dây thắt bao dao đối với Mận lại quan trọng đến thế. Út Ly thật tình chưa nghĩ tới những gì người con gái hơn Út Ly hai mùa nương rẫy đã nghĩ. Lúc này, Út Ly chỉ biết im lặng, mải miết mài mực. Cũng may, vừa lúc đám bạn nhảy dây, đánh quẽ nghe nói Mận bị mệt, kéo đến chơi. Út Lê tíu tít chạy ra mở cổng.
Chuyện giữa lúc ồn ào vui vẻ, Hà Triêu Nghĩa đến. Thấy cành nêu cắm trước cổng, mà Út Ly lại huyên thuyên nói chuyện trong nhà, máu ghen nổi lên. Nghĩa nấp sau góc rào, nghe trộm, xem Út Ly với bọn nó bàn tán chuyện gì? Mấy ngày không thấy Út Ly đi chăn trâu, đứa nào cũng hỏi, làm như nhớ nhau lắm. Út Ly kể, theo thầy Thân lên đầu sông làm lễ, chuyện gặp người Tây, gặp người đàn ông từ căn cứ về. Đứa nào nghe cũng im thin thít. Nghĩa nghe trộm, mặt trắng dần, về mách bố, thằng Út Ly vào núi gặp người lạ.
Ông đội Quản đang nằm bên bàn đèn nhả khói. Nghĩa hộc tốc chạy về, vừa thở vừa nói. Ngực bố hồi hộp theo. Vừa nghe, mặt bố biến sắc. Nghe xong, mặt bố đỏ đến tận tai. Có bao nhiêu máu dồn cả lên mặt. Bố nhổm dậy, chau mày bảo:
- Mày thích con cái Mận nhà thầy Thân chứ dề? Thì mày phải chơi với bọn thằng Út Ly - Tay ông đấm mạnh xuống bàn. Bàn đèn bắn tung lên. Ông giảng giải - Hai thằng con trai thích một đứa con gái, đừng thằng nào ngu mà đi đánh ghen, ghét nhau. Thằng nào tự tách mình ra sẽ bị lấm lưng, trắng bụng, con ạ.
Nghe nói, thằng Út Ly liên lạc với người trên núi, bụng đội Quản như có lửa đốt. Làm thế nào đối phó với bố con nhà ấy bây giờ? Nó lên núi liên lạc với bọn phiến loạn có thể khiến lão kỳ này vỡ mộng chạy chức chánh tổng. Nhưng biết đâu, chợt mắt lão mở to, bố con lão lại có thời cơ hót túi bạc từ tay người Pháp, nếu hai bố con lão tìm ra cái tổ chức bí mật mà thằng Nghĩa cho là đang hoạt động bóng tối ở Yên Thái. Lão đành cài cắm thằng quý tử theo thằng Út Ly. Môi lão lại bập vào cần bàn đèn, kéo một hơi dài khoan khoái.
Hà Triêu Nghĩa nghe bố nói, mặt nó nghệt ra. Nghĩa bái phục âm mưu của bố xử lý cuộc tình tay ba. Càng nghe bố nói, thằng Nghĩa càng bái phục mưu mô tính toán, lưu manh, lừa lọc, luồn lọt kiếm chác của bố thật cao thủ.
Nhưng mỗi lần nghĩ đến chuyện, bốn chị em cái Mận, cả bọn trẻ chăn trâu ở cái tổng này lúc nào cũng coi mình như con hủi, Nghĩa lại thấy khó chịu. Mình đến nhà không đứa nào tiếp. Nước không đứa nào mời. Nói không đứa nào nghe. Được một lúc, bọn nó kiếm cớ, lừa mình ngồi lại một mình, kéo nhau đi chỗ khác. Cả cái tổng Yên Thái cùng một giuộc, không ai nhìn mặt hai bố con nó, chỉ vì bố nó là ông đội kiểm lâm. Cả cái tổng Yên Thái có mình nó có tiền đi học. Danh giá thế vẫn không ai để ý. Bố nó làm ông đội kiểm lâm thì sai à. Bố có tiền, có quyền, ra đường ai cũng cúi đầu chào. Con cái được học hành, ăn trắng mặc trơn. Con nhà nghèo mơ cả đời không có! Vậy mà, bọn con cái nhà nghèo dám khinh thường. Nghĩ đến đây, Nghĩa chợt nhớ lời ông Tây dạy bố: “Muốn bắt cọp, phải vào hang cọp!”. Hôm sau, Nghĩa nghe bố, đi tìm đám trẻ chăn trâu trên động lân la kết bạn.
Mấy buổi, Út Ly hì hục đập nứa, định đan tấm liếp thay tấm phên vách, đề phòng tháng sau trời rét, sương muối lùa vào. Loay hoay định đan nong đôi, cho tấm phên cứng cáp, mà không biết bắt đầu thế nào, đành đan nong mốt. Một mình xoay xở dựng tấm phên lên, buộc được góc này, góc kia lại xộc xệch. Bỗng vô tình, Hà Triêu Nghĩa đi qua, húm vào buộc đỡ một tay. Tấm phên được dựng lên ngay ngắn. Hai đứa đứng ngắm, Út Ly nửa đùa nửa thật, bảo:
- Sao hôm nay rồng lại đến nhà tôm? Thì ra, hai thằng ngốc cũng thành một tay thợ! - Hai đứa nhìn tấm phên ngay ngắn đã được buộc lên, hả hê cười.
- Tại sao lúc nào các cậu cũng thích chọc tớ? - Nghĩa giả vờ chạnh lòng, thực ra mũi nó đang phổng lên, vì Út Ly bảo nó là rồng.
- Thì…, ai cũng chỉ đùa thôi mà!
- Thôi bỏ đi. Tớ định nhờ cậu một việc đây! - Thằng Nghĩa còn lâu mới học được cách nói vòng vo, rào đón của bố nó.
- Tớ thì giúp được cậu việc gì? Chăn trâu à? Nhà cậu làm gì có trâu? - Út Ly cảnh giác, chưa biết thằng Nghĩa đang nghĩ gì.
- Đừng đùa nữa. Tớ nhờ cậu giới thiệu tớ vào đoàn thể!
- Đoàn thể nào? - Út Ly giật mình. Không hiểu, đây là ý của thằng Nghĩa, vì sợ mọi người bỏ rơi, hay ý ông đội Quản bảo nó đi đánh hơi?
- Ta không hiểu cậu nói gì. Ta chả biết đoàn thể nào - Út Ly đổi giọng thân mật để thăm dò, nửa cũng muốn nhân cơ hội, tuyên truyền.
- Cậu đừng giấu tớ nữa. Tớ thấy thằng Tâm rủ cái Hòa đi sinh hoạt rồi. Hôm nào tớ được đi sinh hoạt, tớ đãi cả nhóm một bữa! - Nghĩa nói theo lời bố dặn: “Thả con săn sắt, bắt con cá sộp!”. Có thế bố con lão mới nắm được cả cái tổ chức bí mật của thằng Út Ly.
- À! Cậu nhầm rồi - Út Ly giật mình, thì ra có lúc đã mất cảnh giác - Có khi bọn nó thấy ta đi cúng ở Hồng Thái về, kéo đến nói chuyện thôi!
- Thật thế sao? Cậu đừng đùa tớ đấy. Nếu có tổ chức, cậu ghi tên tớ đi sinh hoạt với. Nằm nhà buồn chết đi được! - Nhìn mặt thằng Nghĩa có vẻ nó nói thật.
Chợt Út Ly phát hiện Nghĩa có sợi dây thắt bao dao mới, vờ hỏi thử:
- Ai tết cho cậu dây bao dao đẹp thế? Nhưng cậu thắt ngược rồi - Nghĩa có bao giờ đi đâu phải dùng đến dao, thành thử thắt ngược nó cũng không biết.
- Cậu biết sợi dây này không? - Mặt thằng Nghĩa tự nhiên ngắn lại.
- Làm sao tớ biết được!
- Là cái dây…! - Thằng Nghĩa ấp úng, mặt đã đỏ vì xấu hổ.
Út Ly chợt nhớ người bịt mặt hôm ấy cũng dáng to cao. Mỗi cái giọng ồm ồm. Vậy mà, thằng Nghĩa dám nói với chị Mận, cô gái nào nhờ ai tặng nó. Thật ghê tởm. Đã thế, Út Ly quyết định, để thằng Nghĩa về mách lẻo bố nó một thể:
- Cậu biết không? Hôm ta lên ngược, đâu cũng nghe người ta truyền nhau câu sấm trạng: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh!”.
- Là nghĩa thế nào? - Thằng Nghĩa không hiểu.
- Ý nói ấy à, ông trạng phán. Khi ngọn núi Đụn bị xẻ làm đôi, khe Bò Đái cạn nước, không còn tiếng nước chảy, nước sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ có người phát thánh - Út Ly nhắc lại chuyện của anh Hùng Sơn - Xứ Nghệ có ông cụ Nguyễn Ái Quốc, người Nam Đàn, là đại biểu Quốc tế cộng sản, được cử về nước lãnh đạo dân ta làm cách mạng. Ông cụ kêu gọi, bất kể ai là người Việt Nam phải đoàn kết đánh đổ thực dân Pháp, phát xít Nhật, giành độc lập cho dân mình. Hiện giờ, từ miền xuôi đến miền ngược, từ Nam ra Bắc, ai ai cũng đoàn kết một lòng chống bắt phu, bắt lính, gia nhập Việt Minh. Nhiều vùng trên ngược, bà con tự kéo nhau đi giải phóng lật đổ chính quyền tay sai bán nước, xây dựng căn cứ đánh Pháp, đuổi Nhật. Những kẻ giờ ôm chân Pháp, xỏ giày Nhật, bọn cường hào ác bá chả còn bao lâu sẽ đem nộp súng ống, triện đồng, ấn loát cho cách mạng cả thôi.
Út Ly nói một thôi một hồi cho bõ tức. Cứ nghĩ đến chuyện, thằng Nghĩa cậy có bố làm đội kiểm lâm đang tìm cách ép chị Mận lấy nó, lại thấy ức nghẹn lên cổ.
Ông Thăng đi nương về, ra ngắm đôi lợn, mặt hả hê, vào bảo các con:
- Chiều nay, mấy đứa nhớ về sớm đấy!
Ông ở nhà thổi cơm, thắp hương cho bà. Bữa cơm, ông bàn với các con:
- Ta đã báo cho mẹ rồi. Tết đoạn, ta đón thầy về làm lễ cấp sắc cho Út Ly.
Vừa lúc, ngoài sân có tiếng giày đinh lộp cộp. Cả nhà ngơ ngác nhìn ra. Ông đội Quản xỏ giày Tây, cắp gậy hèo. Trời chưa tối đã có lính dõng đi trước soi đèn, đứng chọc gậy ngoài sân đánh tiếng.
Ông Thăng buông bát buông đũa, hấp tấp đi ra, bắc tay trước trán nhìn cho rõ, vội phủi quần áo, khom lưng chắp tay lạy:
- Lạy ông đội! Hôm nay ông đến thăm thường dân. Mời ông vào uống với cha con tôi chén rượu!
Đội Quản nhìn ngôi nhà không ra nhà, lán chả ra lán. Soi mói nhìn qua tấm vách không thấy người lạ, hạ giọng bảo:
- Ta tưởng nhà ông hôm nay có khách, bố con mới mua rượu uống chứ?
Ông Thăng khúm núm, thật thà thưa:
- Bẩm ông! Dân đen nghèo túng làm gì ra có khách ạ!
- Nghèo, bữa nào cũng có rượu uống thế này, ai chả muốn nghèo!
- Bẩm ông đội…! - Lưỡi ông Thăng không mềm ra được nữa.
Út Ly từ trong bước ra, định đỡ lời cho bố:
- Bẩm ông đội…!
Ông Thăng kéo tay con, bắt đi vào, nói:
- Chuyện người lớn, trẻ con không được hỗn!
Đội Quản lại đảo mắt quanh nhà. Con lợn nghe tiếng giày đinh lộp cộp, bắc chân lên giõng, khịt mũi nhìn. Đội Quản vô tình khịt mũi theo, chọc gậy lên tiếng:
- Sáng mai, bố con ông đem tiền lên nộp phạt. Người ta báo, bố con ông phá rừng trái phép, nghe chưa!
- Bẩm…! Đấy là cái nương bạc mầu. Nhà ông Hạ bỏ hoang, cỏ mọc mấy năm nay. Bố con tôi chỉ phát lại thôi mà!
- Người ta đã để lại nuôi rừng. Bố con ông còn gì cãi nữa không?
Biết không cãi nổi, ông Thăng dắt các con ra xếp hàng, khấu đầu van lạy. Sẵn cây gậy hèo, đội Quản móc vào cổ Út Ly giật giật mấy cái, bảo:
- Ta không nói nhiều. Lần này ta tha cho bố con cậu nộp phạt. Mà bố cậu ốm thế kia cũng không chịu nổi năm mươi roi đâu. Sáng mai, bố con cậu khiêng con lợn kia lên thả vào chuồng cho ta. Coi như ta vay bố con cậu, cuối năm ta dạm vợ cho thằng Nghĩa. Cậu với thằng Nghĩa là bạn, đúng không? Chỗ bạn với thằng Nghĩa, ta nhắc cậu, đừng rủ rê bọn con trai con gái Yên Thái lên núi làm giặc nữa, khiến ta phải khó xử đấy!
Bố con ông Thăng lại khấu đầu lạy.
Cây đèn trên tay tên lính dõng soi đường cho đội Quản ra cổng. Út Ly nắm hai nắm đấm, đập vô hồi xuống sân. Tay rớm máu.