Từ hôm bố con Út Ly khiêng con lợn thả vào chuồng nhà đội Quản về, mấy ngày không ai bước chân ra cổng. Miệng đắng như cắn phải bồ hòn. Một hôm, thấy dân làng đi ngắt lúa về qua nhà, bố con giật mình, giục nhau vào thăm nương.
Trời! Ông Thăng đứng ở cuối nương nhìn lên, đang mùa đông mà mồ hôi mồ kê vã ra. Người nổi gai ốc. “Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả!”. Vừa đầu trăng thôi, cây lúa làm đòng xanh mướt, mà hôm nay đã ra nông nỗi này! Những thân cây vàng rụi, héo quay, bông héo hắt, lưa thưa gục đầu vào nhau như nhà có đám. Đàn chim ríu rít đậu xuống lùm cây, nhìn ngó mấy bông thóc lép, lại vù vù bay lên. Nương ngô còn tệ hại hơn. Cái bắp chưa kịp vào chắc đã khô. Thân cây gầy rạc, địu cõng cái bắp lép trên lưng. Ông trời sao nhắm mắt, để cho kẻ ăn không hết, kẻ lần không ra! Ở đời, cứ để thằng còng nuôi thằng ngay. Nhà con có điều gì không phải để trời bắt vạ? Đường về, ông không khóc, mà nước mắt mờ cả lối đi. Ông lại nhớ đến bà. Sao bà nỡ bỏ ông vào lúc này? Ông chắp tay khấn hỏi gia tiên, bố con ông có làm điều gì thất lễ, mà cha mẹ, ông bà bỏ rơi, ngoảnh mặt không về phù hộ độ trì? Nghĩ thương thằng Út Ly. Thằng bé theo thầy học chữ bấy lâu, giờ hóa ra công toi. Không có đôi xâu thịt vai, hai đùi lợn ngon giả lễ cho thầy, mười xâu thịt làm quà cho người lĩnh xướng đến hát kinh ca; lại còn một con lợn nái tạ ơn Tam miếu thánh vương, rồi vài mâm đãi dân làng, thì bằng sắc cũng chỉ là tờ giấy không hồn. Sao cái số thằng Út Ly, nó lành hiền, chịu khó mà vất vả!
Tối hôm ấy, ông Thăng chưa kịp đi nằm thì người đã rét run. Cái rét cứ thế kéo lên. Ông kéo tấm phên ra nằm cạnh đống lửa, hò con vác thêm mấy gốc củi chất vào bếp. Chưa hết rét, cái nóng đã kéo về. Người ông nóng như hòn than, mà cái bụng cứ thế run lên từng chập, run từ trong ruột run ra. Ba chị em Út Ly ngồi quanh manh chiếu đắp trên người bố, không ai nghĩ đến chuyện dọn cơm ra ăn. Út Ly chợt nhớ, hôm hai thầy trò đi lễ bên châu Yên Mục, thầy Thân cũng lên cơn sốt thế này, may có mấy bà biết đánh cảm, thầy mới về được đến nhà.
- Đánh gió! Phải đánh đậu lào cho bố thôi!
Út Ly hớt hải chạy vào làng, hái nắm lá trầu không, lấy dầu tây bảo chị Giao đánh dọc sống lưng, rồi trước ngực cho bố, lại soi đèn, nhể mấy nốt, nặn bỏ máu đen. Bố ngủ lịm đi một lúc thì hết sốt, tỉnh dần, nhưng miệng đắng ngăn ngắt. Chị Giao cố bón cho bố mấy thìa cháo hoa. Út Ly nói, còn may, bố bị đậu lào, nếu dính nước mưa bị cảm thương hàn, tính mạng bố không nói trước được.
Mấy ngày không sang nhà thầy chép sớ, Út Ly sợ bỏ lâu, thầy mắng, vội quên hết việc nhà, sang xin thầy cho học tiếp. Đến nơi, lại thấy cành nêu trước cổng. Út Ly đánh tiếng, vẫy hỏi Út Lê. Cái Lê ra đứng đầu nhà xua tay. Thì ra, cành nêu hôm nay không chỉ dành cho thằng Nghĩa, mà cho cả Út Ly. Chưa quên chuyện nhà, giờ thêm cây nêu cấm cửa, Út Ly buồn muốn khóc. Không biết chị Mận vẫn giận mình, hay nhà thầy đã xảy ra chuyện gì? Đang ngẩn ngơ nên ở hay về, Út Lê thấy bóng bố thấp thoáng từ xa, vội ra nhấc bỏ cành nêu. Út Ly chào thầy. Thầy Thân im lặng cứ thế bước qua. Chợt nhớ ra điều gì, thầy không quay lại, vừa đi vừa nói:
- Cậu vào đi! Ta có việc muốn hỏi!
- Dạ! Thưa thầy…! - Út Ly sợ hãi, không hiểu chuyện gì!
Thầy Thân tự rót nước, uống một mình. Út Ly chụm mấy đầu củi, thổi cho ngọn lửa bùng lên. Thầy lại hút liền hai điếu thuốc lào, im lìm như cây sồi già. Út Ly lo lắng hỏi:
- Thưa…! Thầy dạy con điều gì ạ?
- Bố con cậu gả cái Mận nhà ta cho thằng Nghĩa nhà đội Quản từ bao giờ thế? - Thầy rít thêm điếu thuốc, mắt lờ đờ, nhả khói.
- Bẩm, thầy nói gì ạ? - Út Ly tròn mắt, chột dạ.
- Ta bảo, bố con cậu… - Thầy nhắc lại.
- Thầy nói gì lạ thế ạ, thưa thầy?
- Cậu ra bản mà hỏi. Người ta đồn ầm lên rồi. Bố con cậu đã khiêng con lợn sang đỡ cho bố con đội Quản dạm hỏi cái Mận. Đúng không?
- Bố con…, thưa thầy…! - Út Ly ấp úng không biết nói thế nào để thầy hiểu.
- Từ mai, cậu không cần sang chép sớ nữa! - Thầy kéo liền mấy điếu thuốc lào, mắt lờ đờ nhìn vào bếp than đang lụi dần.
Út Ly bưng mặt khóc to. Chưa biết thanh minh thế nào, đã nghe thầy giục:
- Cậu về được rồi!
Nhìn mắt thầy, Út Ly biết, thầy đang tức giận thế nào. Út Ly cắn chặt môi, không dám thưa thêm điều gì, khấu đầu chào:
- Con lạy thầy! Con về! - Út Ly bước ra cửa, khóc như đứa trẻ.
Con đường đá xóc vào bàn chân, xóc lên đỉnh đầu. Út Ly không dám giận thầy, chỉ ân hận những gì mình vô tình làm tổn thương chị Mận. Hôm nọ, nghe cái Lê kể, Út Ly mới biết, trong mắt chị Mận có mình. Thực ra Út Ly chưa nghĩ đến điều này. Trong mắt Út Ly cũng đã có người khác. Hôm Út Ly bị giật sợi dây thắt bao dao, thằng Nghĩa đi kể, cô Mận nhờ thằng Út Ly tặng nó. Lần này, lại thêm chuyện con lợn. Sao bố con ông đội Quản dám dựng những chuyện tầy đình thế chứ? Rõ ràng hôm ấy, ông ta nói, chỉ vay con lợn dạm vợ cho thằng Nghĩa. Có nói dạm hỏi chị Mận bao giờ? Nếu ông đội Quản nói rõ ra, chuyện có khi đã khác. Chả nhẽ, bố con ông ta ghen với Út Ly nhà nghèo không có cái khố nào lành, lại có trong mắt bao nhiêu đứa con gái. Còn thằng Hà Triêu Nghĩa nhà ông, học hành tử tế, chữ nghĩa đàng hoàng, mà đến đâu cũng bị đám con gái, con trai tránh xa như tránh một con hủi. Rồi bố con đội Quản đặt chuyện, vu cho bố con Út Ly phá rừng trái phép, kiếm cớ phạt tội phá rừng, ăn cướp con lợn cấp sắc, còn tung chuyện dạm hỏi chị Mận. Chẳng qua, bố con ông ta chia rẽ hai nhà, chia rẽ chị Mận với Út Ly cũng nên. Nghĩ đến đây, Út Ly nắm hai nắm đấm, nghiến răng kèn kẹt. Nhưng trời cao, đất dày, bố con Út Ly có định bắc thang lên hỏi ông trời, cũng phải có cái gì lót theo đơn, gửi lên mấy ông hội đồng hàng tổng, hàng huyện mới xong!
Chị Mơ ngồi bên khung dệt, nghe hết câu chuyện của bố với Út Ly, lại thấy Út Ly không thanh minh gì, ấm ức bỏ về, chạy vào hỏi bố:
- Bố! Bố nghe chuyện ấy ở đâu?
- Tao nghe ở đâu à? Cái ấy còn gì quan trọng nữa không? Sự thực là, con lợn nhà nó đã thả vào chuồng nhà đội Quản rồi kia kìa. Mày ra mà nghe, đội Quản rêu rao khắp tổng kia kìa. Tao phải nghe ai à…! - Như lửa bị đổ thêm dầu, mặt bố tím đến tận tai. Ông kéo liền mấy điếu thuốc, lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại chuyện con lợn - Từ mai, mày biết không? Cái Mận là con trâu đã có cọc. Còn ai thèm nhòm ngó đến nó nữa? Tao đã nói với thằng Út Ly. Về bảo cho bố nó biết, từ mai, nó đừng mất công sang đây làm gì! - Ông Thân luôn tay vê thuốc, mắt càng lờ đờ thêm.
Nghe bố to tiếng với chị Mơ, cái Hoa trong nhà đi ra, vừa đi vừa chùi nước mắt, túm vạt áo bố, lại giục chị Mơ:
- Chị bảo thầy đi! Thầy không nghe chị cứ nói. Để thầy nghe ông đội Quản, hai nhà ghét nhau cho mà xem.
Út Lê chưa bao giờ thấy bố giận dữ thế, đứng khóc, càng ghét bố con ông đội Quản, lại thương anh Út Ly. Chị Mơ vừa định nói điều gì, ông Thân đã gầm lên như con hổ bị mất con:
- Từ mai, tao cấm cái thằng vong ơn bội nghĩa bước chân vào cái nhà này!
Các cụ nói, mồng một đầu tháng có mưa, mưa cả tháng. Ông giời cho mưa vào cái tháng củ mật cuối năm, làm khổ đám trẻ trâu lẫn người lớn. Rét mướt thế, cửa rừng không mấy bữa không thấy nốt chân beo, mà đường lên núi vẫn không ngày nào hết bóng người. Tết nhất đến nơi. Người vào rừng tìm lâm thổ sản, ra chợ đổi ống mắm, ống muối, chai dầu thắp, mua ống mật ăn tết. Người bán lấy tiền may quần áo cho con. Người vào khuân củi đốt sưởi mấy ngày tết. Vẫn có người đi đào củ mài, bẻ măng về ăn độn.
Mấy hôm nay, tờ mờ sáng đã nghe tiếng lợn kêu. Tết về đến đầu bản rồi. Người vào rừng thưa dần. Họa còn mấy nhà không có trâu, phải mướn trâu cày bừa, cấy muộn, giờ mới tranh thủ lên núi hái lá dong về gói bánh. Gần tháng mưa phùn không nhìn thấy mặt trời. Đường cái lầy lội, không ai muốn ra khỏi nhà. Gió bấc thổi, làm cho cái rét càng lạnh buốt chân tay. Ông Thăng nhìn các con thắt bao dao lên núi, cựa người thấy lưng đau như rần, nhắc: “Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm”, thời tiết này độc lắm. Đi nương nhớ mang lửa đi!”. Út Ly ra khỏi nhà đã gặp Lý Thị Hòa đón đường sang nhà Thái Tâm. Giữa đường, gặp thầy Thân đeo túi, xách đồ đi lễ. Hai đứa cúi đầu chào thầy. Thầy Thân nhìn Út Ly, lại nhìn cái Hòa, hai mắt mở to, cắm cổ đi một mạch, bụng nghĩ, thì ra là thế!
Nghe tiếng đằng hắng ngoài cổng, chị Giao nhìn ra. Hà Triêu Nghĩa thập thò đứng đó, khăn khu loa trùm kín đầu, kín cổ. Chiếc áo măng tô của bố dài quá gối. Chân xỏ ủng kiểm lâm. Xem ra, cái rét không lọt vào đâu được. Nghĩa thập thò ngoài gốc duối gọi:
- Chị à! Út Ly có nhà không? Em muốn hỏi cậu ấy một chuyện…!
- Út Ly theo cậu Tâm, cô Hòa vào núi từ sớm!
- Thế à…?
Nghe đoạn, Nghĩa lập tức bỏ đi, khiến chị Giao chột dạ. Chắc ba đứa đang ở trên núi thật. Chị áy náy, mình nhỡ miệng. Đáng lẽ phải bảo bọn nó đi thả trâu, hay đi đâu đấy. Tự nhiên lại vẽ đường cho hươu vào núi. Động Loong Coong còn ai lạ gì bố con đội Quản? Ruột chị mỗi lúc một nóng lên. Chợt nghĩ ra, chị thắt bao dao, chạy một mạch vào núi.
Chạy! Phải chạy thôi, không thì không kịp mất! Chị vừa chạy vừa nghĩ, sao cả cái tổng này, ai cũng sợ bố con nhà đội Quản như con hủi thế chứ! Chị hớt hải chạy gằn. Chỉ tại cái miệng nhỡ mồm, cái chân phải chạy. Chị dám chắc, bố con đội Quản thể nào cũng đi tìm bọn thằng Út Ly, thằng Tâm, cái Hòa cho mà xem. Bố con nhà ấy nhòm ngó từ lâu lắm rồi. Mà hồi này, chả riêng bố con nó, không hiểu chuyện gì, mấy ông chánh tổng, lý trưởng, hương hào cũng đốc lính đi tuần cả đêm.
Vừa nhắc đến ông ta, nghe tiếng rì rầm dưới suối, giật mình quay lại, thì là hai bố con đội Quản. Ông bố nai nịt bộ đồ kiểm lâm, đeo lủng lẳng khẩu súng Tây. Thằng Nghĩa đóng y nguyên bộ quần áo sáng nay đứng trước cổng. Hai bố con bàn nhau, phải bắt quả tang bọn thằng Út Ly đang bàn bạc chuyện gì! Bọn nó có những ai? Phải làm thế nào để bọn nó chịu cứng lưỡi, không cãi vào đâu được, quan Tây mới chịu mở hầu bao, cho tiền.
Chị cắm cổ chạy tắt lên núi. Vừa kịp gặp Út Ly, đã thấy bố con đội Quản mò dưới suối lên. Bỗng nghe tiếng “roạt” từ bụi cây bên đường. Bố con đội Quản giật mình, mặt xanh như tàu lá, hét không ra tiếng, òng ọc rống lên như con bò bị chọc tiết. Bố con lão nhìn rõ mồn một, con báo vừa nhảy từ trên cành cây trước mặt vào bụi rậm. Đội Quản không kịp nghĩ đến khẩu súng đang lủng lẳng bên hông, kéo thằng Nghĩa chạy một mạch xuống núi, ngã xiêu ngã vẹo. Mặt mũi chân tay lấm như ma vùi. Mặt chị Giao cũng không còn tý máu. Lúc sau, Bàn Thái Tâm ôm con báo từ trong bụi rậm chui ra, mặt lọ lem như người rừng. Bốn chị em nhìn con báo nhồi rơm cười sắp vỡ bụng. Ba đứa quay vào lán. Anh Thể đã đợi từ bao giờ. Chị Giao quay ra vừa khuân củi, vừa để mắt người lạ.
Út Ly thông báo, anh Hùng Sơn, phái bộ Việt Minh cho biết, Hội nghị Trung ương, tháng 5 vừa rồi họp ở căn cứ địa đã ra nghị quyết thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy tên “Việt Nam độc lập đồng minh”, tên gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, tập hợp, đoàn kết người Việt Nam yêu nước, đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật, giành độc lập dân tộc. Hội nghị yêu cầu các nơi mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ, xây dựng lực lượng vũ trang chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị cũng đề ra: “Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong thời gian tới”. Ai nấy nghe, tinh thần phấn chấn hẳn lên.
Út Ly cũng thông báo, đề nghị của nhóm hoạt động bí mật tổng Yên Thái về việc lập đội đặc biệt, hoạt động công khai tập dượt đoàn kết, thực hiện chủ trương, chính sách của Việt Minh đã được anh Hùng Sơn không chỉ đồng tình, mà còn hoan nghênh. Việc này, có thể sẽ được nhân ra các tổng. Nhóm này sẽ do Bàn Văn Thể bí mật chỉ đạo. Lý Thị Hòa, Hà Triêu Nghĩa phụ trách. Nhiệm vụ bước đầu là: Vận động nhân dân làm vệ sinh diệt trừ ruồi muỗi, đề phòng dịch bệnh. Tổ chức học hát, học múa giữ gìn bản sắc văn hóa. Vận động làm mương phai đưa nước về đồng, biến ruộng một vụ thành hai vụ. Đêm tuần tra, phòng gian bảo mật. Tổ chức dạy chữ tiếng Việt. Bàn Thái Tâm chú ý lắng nghe từ đầu đến cuối, băn khoăn, hỏi:
- Nhiệm vụ này của Việt Minh, sao có thể giao cho Hà Triêu Nghĩa, con ông đội Quản được chứ? Ai chả thấy bố con ông ta vừa lúc nãy?
Út Ly giải thích:
- Anh Hùng Sơn nói, lúc này, ta chưa có chính quyền, chưa thể đưa đội viên bóng tối ra hoạt động công khai. Ta phải vận dụng sáng tạo, làm sao tập hợp được càng đông càng tốt mọi người đoàn kết đi theo Việt Minh! - Có một điều Út Ly không nói mà chỉ âm thầm để trong bụng, mong có ngày thằng Nghĩa lọt vào mắt chị Mận. Út Ly thấy nhiều đôi thế rồi. Lúc đầu ghét nhau như chó với mèo, nhưng ghét của nào, trời trao của ấy!
- Đúng thế - Lý Thị Hòa họa theo - Lúc này mà đưa lực lượng bóng tối xuất đầu lộ diện, khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Bọn mật thám, chó săn ôm chân thực dân Pháp, phát xít Nhật sẽ bắt bỏ tù hết thôi. Mà theo tôi, học chữ lúc này là cần nhất. Không biết chữ, đến ta còn không hiểu truyền đơn Việt Minh nói gì, thì sao tuyên truyền được cho người khác!
- Bởi thế, đội đặc biệt ở đây sẽ toàn những người đặc biệt. Đội này sẽ tuyên truyền vận động những người như Hà Triêu Nghĩa, biết chữ rồi, nó dạy cho người khác. Cậu Nghĩa theo tôi, nếu giác ngộ nó theo mình, ông đội Quản sẽ không dám báo quan Tây bắt con trai đâu! - Anh Thể tham gia thêm.
Hai cặp mắt Lý Thị Hòa, Bàn Thái Tâm mở to, sáng lên, nhìn anh Thể, lại nhìn Út Ly nghĩ, chiêu này khá độc.
- Nghĩa sẽ rủ rê con cái các ông hội đồng, hương sắc, kể cả thằng Hàn con chánh tổng theo Việt Minh. Biết đâu sau này, họ trở thành cốt cán cũng nên. Nhưng Lý Thị Hòa nhớ, tuyệt đối không đưa đội viên bóng tối tham gia nhóm đặc biệt, lộ bí mật người của tổ chức. Hà Triêu Nghĩa chỉ được liên lạc với Lý Thị Hòa! - Út Ly nhắc đi nhắc lại.
- Đúng thế! - Thái Tâm gật đầu - Cậu Nghĩa thích lấy vợ rồi đấy. Cô Hòa xem có xỏ mũi cậu ta được không? Đẹp trai, con nhà giàu! - Không biết Thái Tâm nói đùa, hay có ý gì?
- Ai thèm chứ - Hòa đỏ mặt vì tức - Nhưng ai đi tuyên truyền, giác ngộ cho Hà Triêu Nghĩa bây giờ? - Lý Thị Hòa băn khoăn.
- Cậu ấy đã đến gặp tôi rồi, nói muốn xin vào tổ chức. Thực tình hôm ấy, chắc cậu ta có ý thăm dò ta có tổ chức bóng tối không thôi, để về mách ông đội Quản. Tôi về nằm nghĩ, ức chuyện bố con nó vu cho nhà mình phá rừng trái phép, vào ăn chặn con lợn. Tôi tự nhiên nghĩ ra, “tương kế tựu kế”, “gậy ông đập lưng ông”. Ta sẽ giác ngộ cậu Nghĩa tham gia hoạt động, cho cậu ấy phụ trách đội văn hóa, coi như ta cảm hóa được một con chó săn non. Như thế, thằng Nghĩa sẽ đối địch với bố nó. Ông đội Quản sẽ không dám mạnh tay. Biết đâu, rồi đây cậu Nghĩa trở thành người tốt! - Út Ly nhớ lại những chuyện bố con đội Quản đã làm với nhà mình, nhưng không thể vì những chuyện ấy mà mình trở nên nhỏ nhen, ích kỷ, hận thù, có hại cho cách mạng. Càng nghèo khó, cuộc đời dù lầm than, bị người ta coi thường, Út Ly càng mong sẽ làm được điều gì đó cho cuộc đời sau này tốt đẹp hơn.
Bốn anh em xuống núi. Chị Giao đã bó cho mỗi người một vác củi vác về. Hòa nhìn chị Giao, hỏi:
- Bác Thăng hôm nay hết ốm chưa chị?
- Ông ấy hết sốt rồi, nhưng còn đau đầu em ạ!
- Vừa bị đậu lào, sốt mấy ngày, lại bị đội Quản ức hiếp... giậu đổ bìm leo, người già thường nghĩ ngợi mà! - Anh Thể góp chuyện.
Từ hôm gặp Út Ly đi với Lý Thị Hòa, ông Thân càng lộn ruột thêm. Lại gặp thằng Nghĩa thậm thụt đi tìm Út Ly, quan hệ mờ ám. Ông ghét cái đồ con dao hai lưỡi, người ăn ở hai lòng. Những kẻ ăn ở đòn xóc nhọn hai đầu, không có ai tử tế. Vừa về đến nhà, rửa vội cái chân bùn lấm láp, ném túi đồ vào giường, ông gọi cái Hoa, cái Lê vào bảo:
- Từ nay, tao cấm bọn bay chơi với thằng Út Ly!
- Bố nói gì hả? - Cái Hoa giật mình.
- Hồi nọ bố chả nói, bố thích anh ấy đấy thôi! - Út Lê cãi lại.
- Thích… thích cái đồ phải gió. Người ăn ở hai lòng. Giờ nó đi lại với thằng Nghĩa, con nhà không tử tế - Thấy hai đứa con yêu quý bênh Út Ly, ruột ông muốn lộn lên - Tao gặp nó đi với cái Hòa. Hai đứa ra vẻ thân thiết nhau lắm.
- Hí hí … hí! - Cái Lê bịt hàm răng sứt cười, khiến bố vừa tức giận, lại ngơ ngác - Bố mình ghen rồi! Chứng tỏ bố mình vẫn thích anh Út Ly thật đấy.
- Thích cái phải gió. Tao thèm thích cái đứa ăn ở hai lòng! - Ông Thân bị Út Lê làm cho bất ngờ, lúng túng cãi lại.
Út Lê đến nói thầm vào tai bố. Mặt bố ngơ ngác hơn, nhưng mặt bố lại đỏ lên. Bố nói như đóng cái đinh vào cột:
- Tao có thừa con gái cũng không gả cho đứa ăn ở hai lòng!
Út Lê lại thì thầm vào tai bố, anh Út Ly đã chép bài thơ tặng chị Hoa. Út Lê thuộc bài thơ trước cả chị Hoa, cố tình đọc vào tai bố:
Mó tản khoa gỏi sái dùn gậy
Sỉu sỉu gỏi éng sặt gây tai
Sủng sấu áo khoả già nhin sỉn
Thỏi sấu hùi tài nhỉn súi ghiâu!
(Hoa dâm bụt nở giữa vườn
Sớm sớm tan sương hương sắc toả
Đưa tay ngắt hoa sợ người thấy
Rút tay về bỗng lệ buồn rơi!)
- Cái Lê nhá, mày… mày! - Chị Hoa đỏ hai má, đỏ ra mang tai, đuổi đánh Út Lê. Út Lê chạy quanh bố, càng chạy, càng đọc to hơn:
“Em là điểm đỏ giữa muôn xanh
Là trang mỹ hiệp của lòng anh
Bâng khuâng bỗng nhớ con đò nhỏ
Nặng lòng khó quên cơn sóng xô”.
Ông Thân nhìn hai đứa đuổi nhau, lắc đầu nghĩ, thì ra cái gai nó nhọn, nhọn từ bé. Con gái út, đứa nào cũng ranh ma!
Từ hôm đuổi thằng Út Ly không cho theo học, thầy Thân lúc nào cũng thấy áy náy, tự hỏi, không biết mình làm thế, đúng hay sai? Người lớn còn chưa nói gì với nhau, sao mình đã vội đuổi nó. Hôm nọ, lại gặp nó đi với cái Hòa. Cái Hòa với mấy đứa nhà ông thì hơn nhau gì chứ? Bốn đứa con ông, nết na không kể, nhưng về đằng khác, hơn đứt lũ con gái tổng này. Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần! Nhà ông không giàu bằng các hương hào chức sắc, nhưng nghề của ông thu chả kém ai. Dù gì, nhà ông vẫn là tầng lớp phong lưu. Vậy mà, cái Mận, cái Hoa nhà ông vẫn bị thằng Út Ly để ngoài tầm mắt, để đi với con bé Hòa. Cứ nghĩ đến đây, ruột ông lại muốn lộn lên. Ông cố bước dài chân, nhảng qua một vũng bùn. Sống lưng kêu khục, mình đau ê ẩm. Ông lại nhớ những lần có thằng Út Ly theo gổng đồ. Có nó, vừa đi vừa nói chuyện, con đường như ngắn lại. Những hôm ngồi mài mực, chép sớ, mắt mờ, lưng gập xuống đau, tưởng không đứng lên được, ông lại nhớ đến nó. Ông sực nhớ, hôm sang nhà đội Quản ăn cỗ. Nhà đội Quản bày chuyện cúng mát nhà, mổ mấy con lợn, dựng rạp ăn hai ba ngày. Khách toàn người có máu mặt trong tổng, ngoài tổng, có cả mấy người Tây biết ăn đũa. Thì ra, ông ta mượn chuyện cúng mát nhà để gây thanh thế. Phen này định chạy chức chánh tổng. Ít ra cũng cố kiếm chân hội đồng, chứ cái chức đội quèn, dù gì vẫn là kẻ đầu sai. Nghĩ đến đây, ông ngã người. Thì ra, con lợn đội Quản ăn chặn của bố con ông Thăng là để chạy chức, chứ đâu phải chuyện thằng Nghĩa, như lão rêu rao!
Tối, cả nhà ngồi ăn cơm, ông Thân mới đem chuyện Út Ly đi với cái Hòa ra kể, cả chuyện mờ ám nó đi với thằng Nghĩa. Chị Mận bỏ bát đứng lên, làm cho cả nhà ngơ ngác. Cái Hoa nhìn chị Mận, lại nhìn chị Mơ, giục:
- Chị Mơ kể cho bố nghe chuyện gì đi chứ!
Chị Mơ kể hết những gì tai nghe, mắt thấy từ hồi nhà ông Thăng bị bố con đội Quản ăn chặn con lợn cấp sắc của Út Ly. Đến lượt mắt ông Thân ngơ ngác. Ông buông bát, ra kéo liền mấy điếu thuốc lào, đầu nghĩ đến những gì bố con đội Quản đặt điều lâu nay, rêu rao khắp làng trên, xóm dưới.
Cái Hoa chạy ra châm đóm cho bố hút thuốc. Nhà bốn chị em, bố quý cái Hoa nhất. Con bé dịu dàng, thùy mị, khéo léo. Nó cười, miệng rõ xinh. Nó khóc, nhìn miệng con bé mếu ai cũng động lòng. Ông Thân dành cho nó tình cảm đặc biệt, kể cả chuyện cưới rể về kế tế, ông cũng nghĩ đến nó trước. Được con bé châm đóm, bố ngồi nghe hết chuyện của chị Mơ. Tay liên tục vê thuốc lào, bụng bố nghĩ, ngày mai, bố sẽ đi thăm ông Thăng, xem ông ấy hồi này ốm đau thế nào. Nhân thể, xem thằng Út Ly có muốn theo học nữa không! Mắt ông lim dim nhìn bếp lửa, bảo:
- Ta mệt rồi. Mai kia, đứa nào bảo thằng Út Ly, sang ta nhờ nó tý việc!
- Hoan hô bố! - Út Lê vỗ tay, vui ra mặt - Bố không ghét anh Út Ly nữa rồi nhá. Con yêu bố! - Con bé ra ôm chặt lấy cổ bố.
Út Ly bấy lâu không đến nhà thầy, theo thầy đi lễ, cũng chả khi nào được thong thả. Hôm thì lên dọn cái nương tra bắp, khi về, tranh thủ nhổ mấy gốc sắn băm, phơi độn cơm. Hôm cùng Bàn Thái Tâm, Lý Thị Hòa giúp bà con bí mật giấu ngô, giấu lúa vào hang. Nghĩa hồi này cũng bận rộn, nhưng cậu ta có vẻ rất vui, suốt ngày tìm chị Mận đi tập văn nghệ. Khi lên động Loong Coong hát páo dung, hôm xuống bản Tày hát then, hát cọi, học đánh đàn tính. Các bản đua nhau tập múa, học hát chuẩn bị cho Lễ hội lồng tồng1; lễ cúng Bàn vương, đón tết Nhâm Ngọ, tối lại kéo nhau đi học chữ.
Về đến nhà, nhìn bố nằm đắp chiếu bên đống lửa, lúc lại rúc lên cơn ho, ruột gan Út Ly muốn nẫu ra. Thương bố, muốn khóc mà không khóc được. Nhìn bố nằm đấy, lại nhớ mà ức đến tận cổ chuyện đội Quản vu cho bố con phá rừng, bắt vạ con lợn. Hình ảnh ông già cu ly đẩy xe cho người Tây mũi lõ trên châu lỵ, cái roi da vun vút vụt xuống lưng ông già trên Khánh Thiện lại hiện về. Út Ly xem ấm thuốc sắc, nhắc bố uống đúng giờ, nhắc chị Giao nhớ ép bố ăn. Tự nhiên, Út Ly hăm hở vác búa ra hùng hục bổ mấy gốc củi to, như muốn đổ hết mọi tức giận, tủi nhục lên mấy cái gốc củi khô. Chợt nhớ ra việc gì, lại thắt bao dao đi tìm Lý Thị Hòa, Bàn Thái Tâm tìm anh Thể.
Ông Thăng nằm co trên chiếc phên nứa bên đống lửa giữa nhà, lúc lại xoay xở, quay lưng vào bếp cho lưng khỏi lạnh. Từ hôm ông được đánh gió, khêu đậu lào, người hết sốt, nhưng lại đau nhức hết các khớp xương. Cứ nghĩ đến chuyện, bố con đội Quản ra điều giả nhân giả nghĩa, lại thấy cái tức nghẹn lên cổ. Ngồi ăn bát cơm còn vã mồ hôi. Cái số ông lận đận, long đong. Ông lại gieo cái khổ cho ba đứa con. Con lợn nuôi lo việc lớn, thương chủ, nó ăn đến đâu, lớn đến đấy, tết nhất đến nơi lại bị đội Quản cướp trắng tay. Cái bắp, hạt lúa nương đang đẹp như tranh vẽ, mấy ngày không thăm, chuột bọ, khô hạn đã khiến cho ngô không còn một hạt, lúa không ngắt được một bông. Thằng Út Ly cho theo thầy học chữ, trồng cây sắp đến ngày ăn quả, bố con ông lại bị đặt điều, vu oan khiến ông Thân hiểu nhầm. Giờ đâm ra xôi hỏng, bỏng không. Sao hôm nay ông lại nhớ bà Mía. Lúc lấy nhau, vợ chồng thề với trời đất, hứa với tổ tiên, giao bái với nhau, sống bên nhau cho đến đầu bạc răng long, bách niên giai lão mà. Giờ thì…, mắt ông tự dưng nhòa đi. Vai rung lên từng chập. Ông nhắm mắt, cố quên mọi nỗi niềm. Cái lạnh lại thấm vào ngực. Ông xoay người, đưa cái bụng về phía bếp lửa. Chợt nhìn ra sân, giật mình thấy bóng đen lừng lững đi vào:
- Bà về thăm tôi đấy à? - Ông lẩm bẩm, kéo manh chiếu trùm lên kín đầu, lại nhắm mắt, mong giữ lại hình ảnh của bà, bỗng giật mình nghe tiếng người gọi:
- Ông Thăng có nhà không?
- Ai đấy… À... - Ông kéo manh chiếu hở đầu, giật mình nhìn thầy Thân.
Chả nhẽ ông Thân sang trách ông chuyện con lợn, hay mượn cớ đến đòi nợ? Giá ông chưa nhìn thấy mặt, mà người ông cũng không đau nhức hết các khớp, ông đã lỉnh ra sau vườn. Chuyện rồi sau đến đâu thì đến.
- Là tôi đây!… Ông đã đỡ chưa? Cứ nằm nghỉ đi! - Thấy ông Thăng loay hoay ngồi dậy, ông Thân vội ngăn.
- Thầy thông cảm. Bọn trẻ đi vắng cả. Tôi…!
- Không sao! Nghe ông bị đau, tôi sang thăm, xem thuốc men thế nào thôi.
- Vâng! Tôi cám ơn thầy! - Chưa biết bụng thầy Thân nghĩ gì, nhưng nghe giọng thân mật, chủ nhà trút được gánh nặng, cố gượng dậy. Mỗi lần ngóc cổ lên, cái đầu lại quay như chong chóng. Khách đỡ ông nằm xuống.
Câu chuyện với ông Thăng khiến ông Thân hối hận. Nghe chuyện chưa đâu vào đâu đã giận quá mất khôn. Để mất tình cảm của bọn trẻ đã đành, còn đặt điều suy nghĩ cho người ốm. Trước khi ra về, ông nói như hứa với mình:
- Sau tết Chẩu đàng, tôi đón thầy cả về làm lễ cấp sắc cho thằng Út Ly đấy!
- Ông! Ông…! - Ông Thăng nấc lên, không biết phải nói thế nào, bật khóc.
- Ông không phải suy nghĩ. Thằng Út Ly là con ông, là học trò của tôi, nó cũng như con tôi. Tôi cũng có trách nhiệm mà.
Được bà con thăm hỏi, nhất là ông Thân đến chia sẻ, bực bội trong lòng ông Thăng vợi đi ít nhiều. Thương các con mồ côi lam lũ, từ sớm tinh mơ, đến tối nhọ mặt người bán mặt cho núi, bán lưng cho trời, còn phải trông nom bố đau ốm. Ông Thăng cố gượng dậy từng ngày, uống thuốc đúng bữa, tự bưng bát cơm lên ăn. Miệng đắng thì nhắm mắt lại nuốt. Miệng khô thì đổ nước chè vào chan. Tết nhất đến nơi, ông cũng phải dậy lo cho con cái tết. Ông không thể để các con: “Vắng cha ăn cơm cá, vắng mẹ liếm lá ngoài đường!”. Nghĩ đến câu các cụ ngày xưa, ruột ông thắt lại! Từ ngày bà Mía bỏ bố con ông mà đi, ông chỉ mong trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng. Thằng Út Ly đến cái tuổi bẻ gãy sừng trâu, vẫn chưa được cấp sắc, nói gì chuyện vợ, chuyện chồng. Ba đứa nhà ông nói, nhà không có của có tiền, ra đường không dám để mắt đến con cái nhà ai. Thương con, nhớ bà, nước mắt ông lại thấm xuống cái bọc gối đầu.
Mấy hôm cứ thấy rau cỏ dưới xuôi kìn kìn gánh lên. Chợ tổng chiều tối vẫn có người. Ông Thăng giật mình, bảo con:
- Tết đến rồi. Nhà cũng phải có nồi bánh chưng, bánh pháo đón giao thừa. Mai bố đưa thằng Út Ly đi chơi chợ tết một năm nhá!
Chợ tết có lều ngủ qua đêm. Su hào, bắp cải, rau xanh hành tươi, chum vại, nồi đất kìn kìn thuê người gánh lên từ mấy hôm trước. Dãy hàng xén dựng lều lợp lá che phên. Hàng hóa la liệt hai bên đường cái, dài từ đầu xã đến cuối thôn. Ông Thăng nghe tiếng gà gáy, gọi Út Ly. Hai bố con ra cổng từ lúc tờ mờ sáng.
Chợ tết đông như hội, chật như nêm. Nam nữ thanh niên phô ra những bộ trang phục đẹp nhất. Người mua, kẻ bán đã đông, trẻ con, người lớn đi xem chợ còn đông hơn. Chợ trên là trời, dưới là hàng hóa, không thiếu thứ gì. Ông Thăng nắm chặt tay Út Ly dắt đi, lúc lại nhắc:
- Nắm lấy tay bố, kẻo lạc.
Đầu chợ, ông Lục phở luôn tay đơm phở, miệng hô:
- Tầu phớ! … Tầu phớ đi!
Nước phở bốc hơi nghi ngút đánh vào cánh mũi, làm cái bụng sôi èo èo. Mấy người hàng xóm chen vào, bảo nhau:
- Đói khát cả năm. Tết cũng phải đả bát phở cái đã!
Bụng ông Thăng sôi lên từng cơn. Út Ly nhìn bát phở không chớp mắt, lẩm bẩm: Giá bố được ăn bát phở, có khi bố hết ốm. Ông Thăng nhìn hàng phở, đưa tay nắn cái bọc giắt trong cạp quần, bụng nghĩ: Thằng Út Ly từ bé chưa biết mùi phở thế nào. Nhưng ông lại nắm chặt tay con kéo thằng bé đi sang lối khác. Qua hàng nồi đất, ông nắm tay con chặt hơn, bảo:
- Cẩn thận, ngã vào đấy là chết cả nút.
Hai bố con đứng nhìn cái ấm đất, đầu cùng hiện ra cái ấm sứt tai vần ở cạnh bếp. Mỗi khi chắt nước cứ phải tìm cái lót tay. Ông lại nắn vào cái bọc ở thắt lưng, lại kéo con đi, nói một mình:
- Chè tươi phải hãm nước đun bằng ống nứa non mới ngon!
Hai bố con không để mắt vào đâu nữa, đi thẳng đến dãy hàng thịt. Hàng chục phản thịt, gần trưa thấy còn mấy mảnh xương sườn, vài ba cái chân giò. Ông chen vào tìm, xách ra một xâu thịt thấu xương, nhắm mắt xách thêm xâu lòng.
Út Ly tần ngần đứng trước dãy quần áo, lại nhìn miếng vá trên vai bố, đau đáu nhìn những chiếc vòng bạc, vòng tay, dây xà tích, thắt bao dao, chùm răng hổ, vuốt gấu, nanh lợn rừng la liệt trên mẹt lại đưa tay nắn túi, rồi ra mua mấy con chỉ ngũ sắc, đầu nghĩ đến cái Hoa, cái Lê đang ngồi thêu khăn.
Ông Thăng mua thêm chai rượu, ống nước mắm, ống muối, chai dầu thắp, không quên ống mật mía ăn tết. Út Ly quay lại chợ tìm mua nắm pháo rời đón giao thừa. Cái sọt trên lưng bố chuyển sang lưng Út Ly lỉnh kỉnh những ống nứa to nhỏ. Đường về, cái bụng không còn gì để sôi, hai khuôn mặt vã mồ hôi vẫn hân hoan.
Ngẫm ra, ông Thăng cũng thấy tự hào. Văn hóa của người Dao Tiền không thua dân tộc nào. Có nét còn đậm đà bản sắc. Người miền xuôi tin có chúa, đức chúa trời gánh tội cho con chiên, người tin đức Phật từ bi, răn con người làm điều tử tế, dắt con người đến bình đẳng, bác ái, chân thiện mỹ..., thì người Dao tin các vị thần linh. Người miền xuôi có các làn điệu dân ca. Dân tộc Cao Lan, Sán Dìu hát sình ca, soọng cô, sách hát mười hai ngày đêm của bà Lưu Tam. Người Tày có các làn điệu hát then làm giàu cho đời sống văn hóa của dân tộc mình, người Dao có hát páo dung, có múa sa siếu, có múa púng liáng. Có điều khác nhau, các làn điệu dân ca của các dân tộc anh em chỉ để giao lưu văn hóa, tinh thần giữa con người với nhau, khi ở trong cung đình, khi trên đồng ruộng, bản làng. Riêng điệu hát páo dung, các điệu múa dân gian truyền thống của người Dao Tiền còn là ngôn ngữ đặc biệt để giao tiếp với thánh thần. Đặc sắc hơn cả, người Dao có tục lệ lễ cấp sắc.
Người Mông, người Tày, người Sán Dìu, Cao Lan cũng có tục lệ cấp sắc, cũng có bậc sắc ba đèn, bảy đèn, mười hai đèn. Nhưng họ cấp sắc cho ai hành nghề thầy cúng. Còn người Dao, tục lệ cấp sắc không nhớ có từ bao giờ. Chỉ biết, bao nhiêu đời nay du cư, người Dao vẫn giữ nghi thức truyền thống của tục lệ cấp sắc. Bộ sách cúng, những bộ tranh hành sư sử dụng trong lễ cấp sắc được xem như một bộ giáo trình, giáo án truyền từ đời này qua đời khác, giữ nguyên giá trị tâm linh.
Cấp sắc của người Dao không chỉ cấp cho các thầy cúng hành nghề, mà còn coi như một khóa giáo dục làm người cho các nam tử Dao. Trong nhà, con trai Dao giữ phép tắc với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột thịt. Ra đường, biết kính trên, nhường dưới. Đối với con người, với muôn loài sinh linh, phải thân thiện yêu thương. Biết bảo vệ môi trường, thiên nhiên, vạn vật. Đối với tâm linh, thành tâm tin tưởng tôn kính thánh thần.
Cùng với nghi thức cấp sắc, người Dao có quy ước, chế tài khắt khe. Nam tử Dao ở đời không thụ lễ cấp sắc, hoặc chưa thụ lễ cấp sắc, sẽ không đứng trước bàn thờ thờ cúng gia tiên. Khi chết, cái ma không có tên phật để gọi. Hồn không được ở lại thiên đàng. Người đàn bà đi lấy chồng, mà chồng chưa thụ lễ cấp sắc, khi về với tổ tiên, cái ma phải gọi bằng thị.
Có câu chuyện huyền thoại về điệu hát páo dung của người Dao xứ sở hoa lê. Chuyện kể, có hai làng Dao cách nhau một con sông. Dòng sông mùa nào nước cũng sôi ngùn ngụt. Một bên là làng Dao Tiền, bên kia gọi làng Dao yêu quái. Một lần, Tam miếu thánh vương làng Dao Tiền nghe con gái làng Dao yêu quái hát màng páo dung chía đáo, giọng hát mượt mà, lời ca rung động. Tam miếu thánh vương làng Dao Tiền về bảo con gái làng mình sang làng Dao yêu quái để học. Nhưng mấy năm, các cô gái xinh đẹp làng Dao Tiền sang học hát bên làng Dao yêu quái đều bị mất tích, không ai trở về.
Rồi một năm, cô gái mồ côi làng Dao Tiền được thánh vương đưa sang học hát, đến ở nhà một mụ già. Nhà mụ cũng có một cô con gái rất xinh, hát màng páo dung chía đáo rất hay. Cô gái mồ côi làm lụng chăm chỉ. Giọng hát cũng được mụ già rất khen. Rồi một đêm, học hết bài hát cuối cùng, ngày mai cô sẽ trở về. Đêm ấy, cô gái mồ côi thấy mụ già đưa cho con gái một chiếc vòng bạc, đeo vào cổ. Cô vô tình hỏi bạn, cho mượn vòng bạc đeo một canh giờ để kỷ niệm, ngày mai chia tay. Nửa đêm, hai cô vừa trao vòng bạc cho nhau, thì mụ già tắt đèn đi vào, lập tức hút máu cô gái không có vòng bạc đeo ở cổ cho đến khi quả tim khô đi. Mụ đem vứt xác xuống sông. Cô gái mồ côi sợ hãi, nhảy xuống dòng sông nước sôi ngùn ngụt bơi về. Cô bơi đến đâu, nước sông lại nguội đi đến đấy. Cô đã đem được giọng hát màng páo dung chía đáo về cho con trai, con gái làng Dao Tiền.
Ít lâu sau, khi cô gái đã đưa được giọng hát màng páo dung chía đáo về cho làng mình, cô trở lại nhà mụ già thú nhận, xin được tạ tội, vì vô tình mượn chiếc vòng bạc để đeo. Mụ phù thủy đã nhiều đêm ân hận, nhưng không bắt tội cô gái mồ côi, còn nói, đó là số phận của mụ, vì mụ đã truyền cho con gái làng khác giọng màng páo dung chía đáo nên bị báo ứng. Cô gái mồ côi tình nguyện ở lại xin làm con. Từ đó, trai gái hai làng thường giao lưu hát màng páo dung chía đáo. Giọng hát páo dung khiến hai làng không còn hận thù.
Suốt phiên chợ trước ngày định lễ, nhà ông Thăng tấp nập người ra vào. Mà không riêng nhà ông Thăng, cả động Loong Coong. Cấp sắc là nghi lễ quan trọng trong đời một chàng trai Dao. Bởi thế, ai được gia chủ nhờ gì, đều lo lắng, sốt sắng.
Ngày tiến hành lễ thỉnh được sai sít miến2 xem xét cẩn thận, phải là ngày hoàng đạo. Giờ khai lễ cũng chọn giờ tốt. Ngày đó hợp với tuổi sắc tử Bàn Văn Ly. Trước đó, giờ hoàng đạo, thầy Thân kính cẩn sắp hai bộ tranh thờ ra bàn.
Út Ly không nghĩ, bộ tranh hành sư lại được tổ tiên tôn kính, giữ cho bộ tranh thêm linh thiêng, huyền bí. Ba ngày ba đêm, trước khi đưa bộ tranh thờ ra, thầy chỉ được nghĩ và làm điều trong sáng, giữ mình chay tịnh, không đụng đến phụ nữ, không ăn uống những thứ kỵ với thần linh. Ngày đưa ống son từ trên bàn thờ ra, thầy phải tắm rửa sạch sẽ. Rồi khi thu tranh, cất vào ống son, trả về nơi cũ, thầy cũng phải tuân thủ mọi điều như thế.
Trước giờ làm lễ cấp sắc, thầy cả dẫn hai thầy phụ tá một lần nữa đi kiểm tra ban thờ Ngọc Hoàng, ban thờ Bàn vương, thứ tự treo bộ tranh các vị Tam Thanh, cho đến ban thờ gia tiên. Thầy nhận nước thánh phù phép tẩy sạch môi trường, trừ tà ma nơi tiếp đón tiếp các vị thánh thần, rồi lên thỉnh trống khai đàn, tuyên bố lý do, khấn mời thánh thần cùng gia tiên tiền tổ về dự lễ, mừng cho gia chủ, kêu cầu các vị thần núi, thần sông, thổ địa bốn phương tạo điều kiện cho tiến chủ gia tiên vượt đèo cao suối sâu, thác ghềnh nước lũ an toàn, thuận lợi, kịp về vui cùng bản làng, vui cùng con cháu, phù hộ cho thầy cả tiến hành lễ cấp sắc cho sắc tử Bàn Văn Ly được mọi sự tốt lành, phù hộ cho con cháu trong họ được hưởng phúc lộc từ hồng phúc ông cha. Sau lễ thỉnh, đón Ngọc Hoàng, đón các thánh thần, tiên tổ gia tiên, thầy cả dẫn hai thầy phụ tá cùng sắc tử Bàn Văn Ly ra ca múa chào mừng.
Sau đó là nghi thức ca múa chào mừng các vị thánh thần và gia tiên tiền tổ có dân bản lĩnh xướng tham gia, có người chắp cái. Kết thúc lễ thỉnh, khách khứa cùng con cháu thụ hưởng lộc của thánh thần, dự bữa cơm cùng gia đình, tiến chủ. Thầy cả nhắc Bàn Văn Ly rắc rượu lộc, gạo muối quanh nhà, cho các âm hồn bốn phương biết tin, tìm về thăm hỏi.
Tiếp đến là lễ thụ đèn cấp sắc.
Chiều ngày thứ nhất, thầy cả tiến hành lễ thụ đèn. Gia chủ chuẩn bị hai mâm lễ. Mâm chay có hoa quả, củ, rượu cung tiến thần linh. Lễ cúng gia tiên có bánh chưng, cơm nếp, vừng đen. Hai thầy soạn bộ tranh Tam Thanh đặt lên bàn. Sau bữa cơm, sai cả treo bộ tranh thờ, ra thổi tù và, nổi chiêng trống báo các vị thần linh đã đến giờ đăng đàn hành lễ.
Thầy cả, thầy hai vận mũ quan, áo cà sa dẫn sắc tử Út Ly đến trước ban thờ dâng hương thánh nội, có Thượng thanh binh tướng, Hạ đán binh mã, Bàn vương thánh đế, Ngũ long tổ minh, Bàn tổ gia tiên, Chi trạch long thần. Thánh ngoại gồm: Hành sư quân tướng, Bản vương thổ địa, Âm dương binh mã sư phụ hai thầy đem theo, Thần kim chay sư bà. Rồi ra, thầy cả dùng nước thánh, kiếm thần tẩy uế, trừ ma, lại dùng phép thần thông khoanh cho sắc tử Bàn Văn Ly một chỗ ngồi, lại thôi miên cho sắc tử tàng hình trong khi thụ lễ.
Suốt cả tuần, thầy cả nhắc nhở Út Ly giữ mình chay tịnh. Không nghĩ, không làm bất cứ điều gì xấu xa, không được đi lại với phụ nữ, không dùng những thứ ăn kiêng. Ăn mặc phải gọn gàng sạch sẽ.
Nửa đêm, giờ chính Tý, sắc tử ra ngồi trước bàn thờ, giữ giá treo đèn, nhìn lên bộ tranh Tam Thanh đại đường. Trước mắt Út Ly hiện ra các vị thánh thần, gồm: Nguyên thủy thiên tôn - Thần Ngọc thanh, cai quản trên trời, Linh bảo thiên tôn - Thượng thanh, thần cai quản trần gian, Đạo đức thiên tôn - Thái thanh, thần cai quản âm phủ. Bộ Tứ đại nguyên súy có các vị thần cai quản vũ trụ, gồm thần mưa, thần gió, thần sấm, thần chớp.
Dáng oai phong lẫm liệt, nét mặt đại từ, đại bi của các vị Tam Thanh tạo không gian linh thiêng, khiến những ai có ý định làm việc xấu, điều ác, khi nhìn lên các vị thần, tự thấy mình phải từ bỏ ý nghĩ, việc làm xấu xa. Ai tự nghĩ mình là người ích kỷ, hèn nhát, hẹp hòi, nhìn lên các vị Tam Thanh sẽ được thần khí các quan ban cho dũng khí vượt qua mọi thấp hèn, yếu đuối, thành người chí khí.
Út Ly ngồi vào ghế tàng hình bị thôi miên, thấy mình lâng lâng. Hồn bay lên trên cao gột hết bụi trần.
Giờ chính Tý, thầy cả đặt ngọn đèn thứ nhất lên đầu giá treo đèn, tượng trưng lên đầu sắc tử. Tiếp đến, thầy Thân đặt ngọn đèn lên vai phải. Cha đẻ đặt ngọn đèn lên vai trái.
Ba thầy ra đọc kinh ca, nguyện cho ngọn đèn sáng mãi, soi sáng đời con. Từ nay, sắc tử chỉ được làm điều thiện, điều tốt giúp ích cho đời.
Sau nghi thức treo đèn, ba thầy dắt nhau đi sáu vòng thuận, ngược quanh sắc tử, đọc kinh ca tẩy hết mọi điều xấu xa, u buồn, điều ác, ma tà; mọi điều nghịch nhĩ trong đầu. Tâm hồn sắc tử trở thành trang giấy trắng. Từ nay, sắc tử tĩnh tâm tích đức, chỉ làm điều thiện để được thánh thần chấp thuận, ban cho điều tốt lành.
Sắc tử được thầy cả giáo huấn mọi điều chép trong bộ sách, ứng xử ở đời: mười điều cấm kỵ, mười điều tự giác. Giọng thầy cả ngân nga trầm bổng, lời răn được chắp thành thơ, cuốn theo điệu hát páo dung, hòa với tiếng trống, tiếng mõ, tiếng chiêng, thanh la, tạo nên âm thanh linh thiêng, thấm vào tâm trí. Răn rằng, đối với Ngọc Hoàng, Bàn Vương, thánh thần, phải thành tâm tôn thờ; đối với nước, với vua, giữ trọn chữ trung. Đối với cha mẹ, gia tiên, giữ tròn chữ hiếu. Đối với anh em bạn bè, trọn nghĩa vẹn tình. Đối với muôn loài sinh linh, biết yêu thương, thân thiện. Làm người, không được làm điều ác. Nam tử Dao phải can trường, không hèn nhát trước quân thù, kẻ ác, không bỏ mặc người khác trước tai họa hiểm nguy, không bị tiền tài, địa vị, dục vọng cám dỗ biến mình thành tội phạm…!
Qua nửa đêm, tiến hành lễ đặt phạt bua3.
Thầy cả xin phép thần linh, đặt cho sắc tử tên phạt (tên pháp danh). Sắc tử chỉ dùng tên này giao dịch việc tâm linh, như thờ cúng tổ tiên. Mặt thầy cả rạng rỡ vui mừng, khi thầy tung đồng xèng xin âm dương đặt phạt bua cho Út Ly, lần đầu đã đậu, được thánh thần chấp thuận. Ba lần tung, ba lần đồng xèng đều nổi. Đã có lần xảy ra, thầy cả kể, thầy tung đồng xèng hỏi đến cái tên thứ tư, thánh thần mới cho.
Phạt bua được thầy chép vào hai tờ sớ, một tờ thầy cho hỏa thiêu, trình lên thánh nội, thánh ngoại, thiên thánh, địa thánh, các quan Nam tào, Bắc đẩu ở mường trời. Một sớ đưa cho sắc tử Bàn Văn Ly giữ. Sau này, sắc tử “về với tổ tiên”, con cháu đặt tờ sớ vào tay, hoặc cài vào túi áo. Quan trên trời kiểm tra, đối chiếu với tờ sớ đã báo lên có khớp, hương hồn mới được chấp thuận ở lại thiên đàng. Rồi sắc tử ra lấy vạt áo hứng những hạt gạo từ tay thầy cả, cha đẻ tung ra, theo các thầy ra múa các điệu truyền thống của nghi lễ cấp sắc.
Lễ truyền binh mã, cấp binh khí:
Sau khi nhận tên phạt bua, sắc tử được thầy cả xin thần linh ủy thác, cấp cho ba mươi sáu binh mã âm binh (cho sắc ba đèn), lại ban cho mũ quan, áo cà sa, ống son giữ bộ tranh hành sư và các lễ đồ, binh khí, gồm: Gậy thần thông, kiếm, mã pin trừ ma tà phòng thân hộ vệ, giữ cho cuộc sống từ nay an lành, lại lĩnh chuông đồng, chiêng, trống, thanh la, tù và để mai ngày hành lễ.
Cao trào phần hội diễn ra lúc qua nửa đêm. Chiêng, trống, thanh la khua vang. Thầy thứ dẫn sắc tử vận mũ quan, áo cà sa, cầm binh khí lần lượt đi trình diện, bái tạ mười lăm vị thánh thần, Bàn vương, cùng gia tiên tiền tổ, bái tạ lão niên dân bản. Khi hành lễ, sắc tử múa điệu bái lạy, khua binh khí. Tiếng chiêng trống, lời ca theo điệu páo dung. Lời ca vang lên khi rộn rã, thúc giục, réo rắt, lúc trầm bổng, du dương. Đêm tĩnh mịch, những âm thanh âm vang vọng vào vách núi thêm sâu lắng linh thiêng.
Lễ tạ ơn Tam miếu thánh vương.
Mâm lễ đặt một con lợn nái, có bát tiết tươi.
Các vị tam miếu gồm có: Liên châu thượng miếu, Đường vương thánh đế, Bát trung hành sư thánh, Phục tinh thánh đế, Phục sơn Bàn vương thánh đế, cùng các vị Ngũ kỳ binh mã, Bàn tổ gia tiên, Âm dương binh mã của hai thầy.
Kết thúc phần lễ, phần hội tâm linh nối tiếp bằng chương trình ca múa. Khách khứa ai nấy diện bộ đồ truyền thống đẹp nhất, cùng hát kinh ca. Thầy cả thỉnh tam miếu thánh vương về kiểm lễ, nghe hai mươi bốn khúc kinh ca, bảy khúc báo giới do ba thầy cùng ba lão giới trong bản thực hiện.
Tiếp đến là ba cô tân nữ, ba chàng tân nam một lần nữa lại vừa múa vừa ca hai mươi bốn khúc kinh ca, bảy khúc báo giới, chúc Ngọc Hoàng, Bàn vương cùng các vị Tam miếu thánh vương đã về vui cùng dân bản, mừng cho sắc tử từ nay có tên phạt bua, trở thành nam tử Dao, người đàn ông Dao thực thụ của bản. Những làn điệu múa, hát páo dung lưu luyến chia tay các vị Tam miếu thánh vương, cung chúc các vị thượng lộ bình an; cầu xin các vị ban cho dân bản tài lộc, an khang, mùa màng tươi tốt; mong ngày Tam miếu thánh vương lại về vui cùng dân bản. Những khuôn mặt hân hoan, rạng ngời, càng về sáng múa hát càng say. Ai nấy vừa hát vừa múa, nâng rượu chúc mừng thầy cả cùng hai thầy phụ tá, chúc gia đình Út Ly. Cuộc vui đến quá trưa, tàn rượu mới tan.
Chiều muộn, mặt ai nấy phờ phạc, cảm động đến nắm tay hai thầy thở phào. Lễ cấp sắc như vậy đã thuận buồm, xuôi gió. Thầy cả tung đồng xèng hỏi ý thần linh, một lần đã nổi, khiến ai nấy càng phấn khởi, mừng vui.
Lễ tiễn thần linh.
Thầy cả cùng các thầy phụ tá dâng rượu, dâng lễ vật, múa ba vòng ngoài sân tạ ơn Ngọc Hoàng, Bàn vương cùng các vị thánh thần. Lại vào trong nhà, tạ ơn tiền tổ gia tiên đã về phù hộ cho thầy cả, cùng thầy phụ tá tiến hành lễ cấp sắc thành công tốt đẹp. Những sai sót dù nhỏ, xin thánh thần, tiền tổ gia tiên lượng thứ!
Tiễn các thầy ra về, thầy Thân cầm tay ông Thăng căn dặn:
- Tết Nguyên đán này, nhớ cho sắc tử Út Ly mang đồ lễ: Giấy cúng, xâu thịt lợn vai, đôi gà sang bái sư thầy cả!
Ông Thăng nhìn thầy Thân, mắt nhòa dần, như muốn tạc vào trong tim, thầy Thân là chỗ thằng Út Ly nhà ông phải sống tết, chết giỗ.
1. Lễ xuống đồng.
2. Thầy cúng.
3. Lễ đặt tên phật.