Mùa đông đã qua. Dư âm của các lễ hội mùa xuân cũng đã quên vào vụ chiêm. Chiều chiều, nhìn cây nước đầu nguồn, bà con hò nhau đi bẻ ngô, gặt vội những khu đồng thấp. “Xanh nhà hơn già đồng!”. Nước Đoan Ngọ, nước mùng 5 tháng 5 là nước đầu mùa sông Gâm, bất ngờ tràn vào Ngòi Cái, ngập các soi bãi, ngập cả cánh đồng. Nhiều nhà không kịp trở tay, đã bị mất trắng.
Bận rộn, khẩn trương, nhưng đi đâu, dư âm của cái tết Nhâm Ngọ còn được bà con ca tụng. Một cái tết vui nhất từ ngày có bản. Thịt ít, rượu ít, vẫn vui. Khắp tổng dựng cây còn, dọn sân chơi. Các xã trai gái tung còn, đánh đu, trẻ con đánh đáo, đánh quay, đẩy gậy, đánh bàm, đánh yến, chơi trò bịt mắt bắt dê, đập đầu bù nhìn. Từ lễ hội xuống đồng, lễ cầu mát, cầu may, cầu thần linh ban cho mưa thuận gió hòa, đến lễ cấp sắc đều có trai gái tập trung hát páo dung, múa púng hiáng, múa sa siếu, bản Tày hát then, hát cọi. Người chuyền tay chép những bài hát mới. Nam nữ các bản tụ tập hát hò, không mấy ai phân biệt người Dao hay người Tày, người Kinh, người Hoa nữa. Từ lâu, bà con đã quen ngày đi làm đồng, tối rủ nhau đi học chữ. Hà Triêu Nghĩa kéo bạn về mở lớp học chữ ban đêm. Người lớn cũng theo học. Thằng Nghĩa đi đâu cũng khoe, đã làm được một cái cọn nước đầu tiên, bắc nước tưới lên đồng cao. Thửa ruộng ngày xưa vụ được, vụ mất, giờ có nước cấy hai vụ lúa. Nghĩa thầm cám ơn Lý Thị Hòa. Từ dạo Hòa giới thiệu, cử Nghĩa làm nhóm trưởng nhóm văn hóa, Nghĩa có thêm bao nhiêu bạn. Nhiều người đã quên cái tên Nghĩa hủi.
Một hôm, lớp học bình dân đang tập chép những bài ca dao tục ngữ. Lớp mở ngay trên nhà sàn. Bảng viết là tấm phản dựng lên. Than bếp cời ra làm phấn. Vở viết là bất cứ thứ gì học viên có được: Người lấy mặt ghế, người cắt mảnh ván làm bảng. Đĩa đèn dầu dọc leo lét soi những khuôn mặt có già, có trẻ cặm cụi, nhễ nhại mồ hôi. Chợt có tiếng giày đinh lộp cộp dưới sân. Mấy tên lính dõng đem theo dùi cui, súng Tây lủng lẳng, theo ông chánh tổng đi vào. Ông đội Quản hùng hổ cầm súng ra tay. Mọi người đưa mắt nhìn nhau.
Mặt ông chánh tổng rỗ loang lổ, đỏ như bát tiết canh thúc lính leo lên cầu thang, hò hét mọi người giải tán. Cả lớp im lặng ngồi viết. Đội Quản nhìn thằng Nghĩa đứng trên bục làm thầy giáo, vội lỉnh ra cầu thang, mặt thất sắc. Ông chánh tổng cũng đứng như trời trồng, khi thấy cậu quý tử nhà ông đang cầm tay, nắn chữ cho mọi người, mặt tím dần, dằn giọng lên tiếng:
- Đêm hôm, ai cho các người tụ tập…, định đi theo Việt Minh phải không?
- Bẩm ông chánh, chúng tôi nhờ các cậu ấm dạy cho cái chữ để khỏi mù thôi! - Anh Thể biết ông chánh tổng chưa biết đọc biết viết chữ ta, cố tình trêu.
- Các người học chữ, định theo Việt Minh phải không? Không giải tán, ta báo quan Tây đến bắt bỏ tù cả lũ cho mà xem!
- Ông chánh nói gì to tát thế? - Anh Thể nghe thấy trái tai, lại lên tiếng - Cả đời ông làm chánh tổng, hỏi tổng này, ông đã cho ai được chữ nào chưa? Giờ thằng Hàn nhà ông, thằng Nghĩa con đội Quản, bọn nó có phải Việt Minh không thì ông biết mà. Chúng nó dạy cho dân cái chữ thì bà con đi học thôi!
- Các người chép cái gì? Chép truyền đơn của Việt Minh phải không!
- Ông đọc đi! - Anh Thể lại được thể - Không lại bảo hai cậu ấm cho dân bản chép truyền đơn! - Rồi anh đọc to cho ông nghe:
“Liăng dộp hử hlá/ Linh siếp lùa hlá/ Kiu doàng dộp biao/ Biao doàng chuống kiu.
(Nương tra tháng sáu/ Ruộng cấy tháng sáu/ Kiệu vàng reo lúa/ Lúa vàng trồng kiệu).
Miền luội, piáo suôt gan/ Miền chiền, lảng chuốt piăng
(Người lười, nhà mọc cỏ tranh/ Người chăm, làng mọc hoa)
Hô chiền, hô pua hiáng/ Hô luội, hô pua dom!
(Học chăm, học ba năm/ Học lười, học ba buổi)”.
Mấy tên lính dõng không ai biết đọc, trân trân nhìn mọi người vẫn cặm cụi chép bài. Mặt ông chánh tím như quả bồ quân khi thấy con trai vẫn im lặng đi sửa từng nét chữ cho bà con, đành im thin thít, lẳng lặng xuống cầu thang, trước những cặp mắt cả lớp nhìn nhau mỉm cười. Đám lính dõng lục tục cắp súng chạy theo. Ra đến cổng, giải tán đám tùy tùng, ông chánh tổng gườm gườm nhìn thẳng vào mắt đội Quản, dằn giọng bảo:
- Về nẹt thằng Nghĩa quý tử nhà anh đi. Nó rủ rê thằng Hàn nhà này đấy. Bọn nó ăn phải bả Việt Minh lúc nào không biết là chết cả nút!
- Bẩm…! Tôi biết rồi! - Mặt đội Quản nhợt ra.
Tối về, thằng Nghĩa thấy bố thắp ngọn đèn ba dây. Ngọn đèn chỉ khi nào nhà có việc đại sự bố mới cho thắp. Bên cạnh là vò rượu, cái chén. Mặt bố lầm lỳ, ngủ gà ngủ gật. Cạnh vò rượu là cái búa kiểm lâm, mài sắc như nước. Nghĩa không dám vào nhà, nấp sau cánh cửa, lúc lại vờ ho. Ông đội Quản luôn tay rót rượu, ngửa cổ đổ vào miệng. Nửa đêm, không thấy thằng Nghĩa đi vào, bố lên tiếng:
- Quần áo mày tao thu rồi kia kìa. Ngày mai đi đâu thì đi. Tao không có cơm nuôi cái đồ phản trắc!
- Dạy học chữ, học hát cũng là phản trắc à bố? - Nghĩa vẫn nép ngoài cửa.
- Nhà tao mất phúc. Mày dẫm phải cứt bọn Việt Minh rồi!
- Hồi bố bắt con đi học trên Yên Mục, thì bố dẫm phải cái gì? - Nghĩa từ bé lêu lổng, quen cãi lại.
- Sao những đứa con nhà tử tế mày không chơi, lại đi theo thằng Út Ly, cái con cái Hòa, toàn bọn khố rách áo ôm. Chúng nhồi nhét luận điệu của bọn phiến loạn trên núi. Con ơi!... Nhà tao từ nay mất phúc thật rồi!
- Bố nói nhà ai mất phúc? Bọn con toàn con nhà tử tế, cả thằng Hàn nhà ông chánh tổng đấy, cũng mất phúc à?
- Cả lũ ngu, bị bọn khố rách áo ôm xâu tai, xỏ mũi thật rồi! - Đội Quản vung mạnh cái búa, ném ra sân, bất lực, vẫn chỉ sợ ném phải thằng con quý tử, lẩm bẩm một câu, khiến thằng Nghĩa giật mình, tròn mắt ngơ ngác:
- Phá hết! Tao phá hết cho mày biết mặt. Mày có vào đi ngủ đi không?
Việc học chữ, tập hát, ôn lại những điệu múa truyền thống, ai ngờ không chỉ đám trẻ thích. Nhiều ông bà già không biết hát biết múa cũng đến xem. Phong trào cứ thế lan ra. Giờ thì đám cưới, ngày lễ hay nhà ai có việc là bọn trẻ kéo đến hát hò. Mà cái trò hát hò cũng lạ, giờ hát páo dung, hát then, hát cọi không còn của riêng dân tộc nào. Ai biết hát là hát, hát càng hay, càng có bạn. Người Dao, người Tày, người Hoa có nhà đã làm thông gia. Chị Mơ, chị Mận, Lý Thị Hòa, Hà Triêu Nghĩa giờ như hình với bóng. Mận không ngờ, chị Mơ nhà mình hát páo dung, hát then nổi tiếng mấy tổng. Nghĩa khen giọng hát của Mận mượt mà, ấm áp. Giờ thì Mận với Nghĩa thường hát cặp. Hai đứa hát đôi, trai gái mấy bản ít ai bì được. Không chỉ có giọng hát hay, hai đứa vừa hát vừa đối đáp, ứng khẩu rất tài. Đang hát páo dung lại chuyển hát then, hát cò nhậy. Cái Hoa không thích chị Mận cặp đôi với Nghĩa. Con bé chưa quên bố con ông đội Quản đã đặt điều làm khó cho chị Mận.
Một hôm, mọi người đang ngồi chép bài hát, chuẩn bị lễ hội tháng 5, Lý Thị Hòa tất tưởi, quần ống thấp ống cao, bê bết bùn chạy về vừa thở vừa nói:
- Cái cọn trên đồng cao…, bị phá tan tành rồi!
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Cái cọn của làng mà. Nó lấy nước cho bao nhiêu ruộng chứ ít đâu. Hồi xưa, tát nước còng lưng mới được nước cấy. Có nhà tát ba bốn đõ nước mới lên. Từ dạo có cái cọn, ruộng lúc nào cũng có nước, cỏ không mọc được, đỡ bao nhiêu công. Cây lúa có nước bông cũng dài hơn, cơm dẻo hơn. Nghe tin bất ngờ, mọi người hò nhau đi báo ông chánh tổng. Nghĩa nghe nói đến ông chánh tổng, giật mình như đứa mất hồn, lẳng lặng bỏ đi đằng khác.
Ông chánh tổng nhìn cái cọn bị phá, nghĩ ngay đến những tên phiến loạn đang ẩn nấp trên núi về gây khó cho ông nay mai thu thuế nộp cho Tây. Vụ trước, có tổng nộp thuế không đủ, ông chánh tổng bị người Pháp bắt nằm sấp trước sân đình, phạt đánh năm mươi gậy trước mặt dân đen, đã đau, còn bị mất mặt.
Lại nói, khi người Pháp thất trận ở châu Âu, nước Pháp lập tức đầu hàng phát xít Nhật. Nhờ thế, Đông Dương là thuộc địa có một không hai được người Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị. Nhân viên bộ máy của Pháp không bị dồn vào các trại lao động khổ sai. Đổi lại, bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương phục vụ vô điều kiện lợi ích nước Nhật. Từ căn cứ quân sự, đến phương tiện chiến tranh, binh lính dưới quyền Pháp đều bị người Nhật huy động vào cuộc xâm lăng xuống Đông Nam Á. Nguồn lực thóc gạo, tiền của, người Pháp vơ vét từ các thuộc địa, cung cấp nuôi quân Nhật. Chính quyền tay sai của người Pháp ở đâu cũng chịu hai tầng áp bức: sưu cao, thuế nặng cho người Pháp, còn vơ vét cống nạp nuôi quân Nhật. Thu không đủ, có chánh tổng, lý trưởng bị tri phủ, tri châu đánh đập, chửi bới, cho ăn đủ thứ người ta không ai ăn được. Người dân còng lưng chịu ba tầng bóc lột: Thực dân Pháp, phát xít Nhật, cường hào ác bá tay sai. Trước bối cảnh đó, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi, người Việt Nam đoàn kết đánh đổ thực dân Pháp, phát xít Nhật được mọi tầng lớp dân ta, có cả địa chủ cường hào, phong kiến hưởng ứng.
Một cái cọn nước bị phá để mấy khu đồng bị mất mùa, khiến ông chánh tổng ra tận ruộng, hò hét tìm cho ra đứa nào phá hoại. Út Ly gọi Hà Triêu Nghĩa sang một bên, rỉ tai cho nó biết, những nốt chân đi lại quanh cái cọn đều là dấu giày kiểm lâm, đúng chưa? Vết chặt vào cây cột cũng không phải vết dao, đều có hình lưỡi búa kiểm lâm. Chuyện này mà đến tai tri châu, đến tai quan Tây, liệu ông đội Quản có được yên không? Út Ly nói đến đâu, mặt Hà Triêu Nghĩa thất sắc đến đấy. Người thằng Nghĩa run lên, hỏi:
- Cậu bảo, làm thế nào bây giờ?
Út Ly nhìn thằng Nghĩa, bực mình, nhưng lại nói:
- Cậu yên tâm, ta không nói chuyện này với ông chánh tổng đâu. Nhưng cậu phải về bảo bố cậu, từ nay đừng chọc gậy vào bánh xe bọn mình nữa, không thì ta không để yên đâu. Sớm mai, ta sẽ nhờ thầy Thân sang nói với ông chánh tổng cho dân công ra sửa lại cái cọn!
Thằng Nghĩa nghe mà xúc động, cứ như thể nó là người mắc lỗi, vội bảo:
- Tôi sẽ nói với bố, không bao giờ đụng đến nhà cậu nữa đâu!
Khác với những lần ôm túi đi theo thầy Thân, hay lên núi làm nương, bàn chân Út Ly hôm nay lúc hăng hái, lúc ngập ngừng, bước thấp bước cao. Sau lưng Út Ly hôm nay, chập chờn hình ảnh người cha ốm yếu, ngôi nhà cả đời bố chui ra chui vào rách nát, gió lùa đằng trước ra đằng sau. Trên vai bố, gánh nợ dân làng chắc đời bố không bao giờ trả được! Trên vai Út Ly, vai chàng trai thời loạn nợ đồng bào, nợ những thân phận một nắng hai sương dán mặt xuống núi, cõng cuộc đời con cháu trên lưng, lam lũ đời này qua đời khác mà làm không đủ ăn, nộp tức, nộp tô, sưu cao, thuế nặng nuôi cuộc chiến tranh, tranh giành thuộc địa. Lại thêm bọn địa chủ, cường hào ngóc đầu dậy vơ vét, bóc lột cho đầy túi tham, chạy quan, chạy chức. Dân nghèo có nhà không có tiền mua nổi một cái ấm đất. Cả đời đun nước bằng ống nứa. Những thân gầy đêm đông lạnh giá co ro bên bếp lửa, nhường nhau đắp tấm vỏ sui. Nợ thân phận nghèo hèn con lợn, con gà năm hết tết đến còn bị bọn ác bá húm vào ăn chặn. Nợ những tấm lưng gầy lằn lên những nốt roi da từ tay ông chủ người Tây, những tấm lưng ông già cu li gồng lên kéo chiếc xe chở ông chủ béo mập. Nợ cả đám trẻ con một lớp học i tờ. Nợ người già một bát canh ngọt lúc đau ốm. Những gánh nợ chồng chất đặt lên vai chàng trai biết cảm nhận, đồng cảm nỗi thống khổ của người dân nô lệ bị mất nước, mất độc lập tự do, giục giã bước chân Bàn Văn Ly gia nhập Việt Minh.
Út Ly đặt chân lên đỉnh đèo Bụt, nghe gà gáy sang canh. Làm sao đây! Phải vượt qua đồn Tây trước lúc trời sáng, còn phải bí mật vượt sông, mấy chục cây số mới sang căn cứ. Những suy tư vẫn theo bám từng bước. Gánh nặng công việc đoàn thể ở nhà, một đầu là nhóm hoạt động bóng tối, giờ còn ba bốn đội viên, tuyên truyền giác ngộ dân bản về chủ trương, đường lối của Việt Minh, vận động mọi người trốn bắt phu, bắt lính, giấu gạo thóc lên núi, không nộp thuế, không bán thóc cho thực dân, phát xít. Một đầu là nhóm hoạt động công khai của Lý Thị Hòa, Hà Triêu Nghĩa nhằm tập dượt đoàn kết xóa bỏ hận thù, chia rẽ dân tộc theo luận điệu của đế quốc thực dân, phong kiến, chờ ngày cách mạng khởi nghĩa, xuống đường lật đổ chính quyền, giờ đặt lên vai anh Thể, đặt lên vai Bàn Thái Tâm, Lý Thị Hòa. Mình ra đi, liệu họ ở nhà có phát triển thêm được lực lượng? Ngại nhất là nhóm của Hà Triêu Nghĩa, cánh con nhà khá giả quen ăn sung mặc sướng. Theo Việt Minh, được thì chưa biết họ được cái gì, còn như mất, thì bọn nó mất tất cả, nên tư tưởng bấp bênh, chả biết Lý Thị Hòa có làm nổi công tác tư tưởng? Ước gì, mình gia nhập Việt Minh, thỉnh thoảng vẫn được về qua nhà xem họ xoay xở.
Vừa đi vừa nghĩ miên man, gần xuống chân đèo, Út Ly thấy mùi gì thoang thoảng, như có lần gặp ở đâu? Đúng rồi! Mùi thối hơi thở con hổ. Út Ly rùng mình, gai ốc khắp người nổi lên, tóc gáy dựng ngược. Vừa lúc, con hổ cắp con lợn lững thững đi lên dốc vừa đi vừa thở, phả ra mùi thối thật khó chịu. Út Ly nắm chặt chuôi con dao. Chợt nhận ra ông Bụt đá bên đường, Út Ly nhảng ba bước đến nấp sau ông Bụt để khỏi nhìn thấy con hổ, nín thở. Con hổ như đã đánh hơi thấy hơi người, đứng lại khịt mũi, nhìn quanh. Út Ly bo miệng khóc hờ gọi mẹ.
Đống lửa nhà ông Thăng gần sáng đã tàn. Ông đang ngủ, bỗng thấy bà Mía về, đứng ngoài gốc duối gọi:
- Thằng Út Ly bị beo về vồ kìa!
Ông Thăng giật mình thức giấc, thì ra ngủ mơ. Lại thấy mảnh chăn sui của Út Ly đắp trên người mình, không thấy nó nằm cạnh đống lửa, ông hô hoán:
- Thằng Út Ly đêm qua đi họp về chưa?
- Nó về ngủ từ tối rồi mà - Anh Định lên tiếng.
Ông Thăng nhìn ra gốc cây duối, bảo:
- Hai đứa soi đèn ra gốc duối xem, có nốt chân beo về không?
Chị Giao linh tính chạy vào lục hòm, bảo:
- Cậu Út Ly đem cả quần áo lẫn sách cúng ma đi đâu rồi.
Người ông Thăng run lên, chợt nhớ đến ông Thân, vội bảo:
- Sáng mai, đứa nào sang hỏi ông Thân, nó có theo thầy đi lễ ở đâu không? Bố lo lắm. Thằng này có đi thế này bao giờ!
Chị Giao ra chụm mấy đầu củi vào bếp, lại vào đi nằm.
Ông Thăng kéo manh chiếu đắp, nhìn cái gác bếp trống rỗng không một cum lúa, không một bắp ngô, đắp đầy bồ hóng, ho từng cơn, thao thức đến sáng.
Hôm sau, không thấy Út Ly về, ông Thăng ra ngồi đầu hè, trân trân nhìn ra gốc duối. Thằng Út Ly ngày nào cũng ra buộc trâu ở đó. Ông ôm mặt khóc nấc lên. Thằng bé nó đi đâu được chứ? Từ bé nó có dám hại ai bao giờ, mà để người ta ghét, dọa cho nó phải bỏ đi. Mấy ngày, bố giục chị Giao, anh Định nhờ người lên núi, xuống khe, tìm không thấy. Nó đem cả quần áo đi thật rồi. Nó đem cả sách cúng ma thầy Thân cho nó. Chợt ông nhớ, thằng bé nó quý thầy Thân như cha. Liệu nó có sang nói với thầy là nó đi đâu?
Chuyện đến tai bố con ông Thân, hôm sau lan ra cả động Loong Coong, rồi cả tổng. Người thì đoán, khả năng thằng bé đi tìm nơi khác làm ăn. Cái đất Yên Thái, nương ót bạc mầu, chiêm khô mùa lụt, nhà nó mấy đời nghèo đói. Người lại nghĩ, thằng này dám lên núi theo Việt Minh lắm. Nhưng chả nhẽ thế, nó lại đi một mình? Không ai nghi ngờ chuyện, khôn ngoan như thằng này lại bị hổ ăn thịt, hay bị ai bắt đi mất tích. Chị Giao bí mật đi tìm Bàn Thái Tâm, Lý Thị Hòa để hỏi, cả hai đều ngỡ ngàng, giật mình lo lắng.
Hai người không chỉ lo cho Út Ly, mà lo cho phong trào. Phong trào ở động Loong Coong không có Út Ly, từ nay như rắn mất đầu! Anh Hùng Sơn, người của phái bộ Việt Minh lâu cũng không thấy về.
Ông Thân vừa nghe nói, Út Ly bỏ nhà đi, mang theo cả sách cúng ma, lại không nói với ông nửa lời, khiến ông vừa giận, lại thương. Thằng bé nhà nghèo, nhưng khí khái. Ông cũng chẳng tính toán cái chuyện, cưới nó về làm rể đời. Ông quý thằng bé thì cho nó cái chữ, dạy cho nó cái nghề. Biết đâu sau này, bố con nó may ra có cơ hội đổi đời. Hay chả nhẽ, ông Thân chợt nghĩ, tại chuyện con Mận, mà thằng bé phải bỏ làng ra đi. Ông lại bực mình mấy đứa con gái, lúc vui thì thật là vui. Nhiều lúc cần đến bọn nó thật, nhưng cứ lóe chóe cả ngày. Các cụ bảo, sinh con gái bất như dưỡng chư, sinh con trai bất như dưỡng thảo! Nhưng dưỡng gì thì dưỡng, con trai mà vớ phải thằng nghiện thuốc phiện thì…, tiền núi cũng không đủ cho nó phá. Cái Hoa cũng nghĩ như bố. Nghe tin anh Út Ly bỏ nhà đi, nó dỗi, chả thèm nhìn mặt chị Mận. Cái Lê cũng buồn ra mặt, không khóc, nhưng cả ngày chả nói một câu. Từ giờ, chả còn ai kể chuyện cho nó nghe nữa. Mận bị cả nhà lạnh lùng, buồn thầm, sang gặp chị Giao thanh minh, không phải Út Ly không thích em mà bỏ đi đâu. Mận càng thanh minh, chị Giao càng tin chuyện có thật. Nếu là chị, chị cũng không thể yêu một người, lấy một người ở cùng một nhà.
Lại kể, Út Ly nấp sau ông Bụt đá, rên rỉ sắp khóc thành tiếng, vừa lúc trong bản, có người xách súng, đốt đuốc, gõ mõ huẩy chó đuổi theo con hổ, hy vọng bắt lại con lợn. Con hổ thấy đuốc sáng, bị chó đuổi đến gần, lập tức cắp cả con lợn nhảy vào bụi rậm. Út Ly cắm cổ chạy về phía những bó đuốc, không còn hồn vía. Út Ly kể cho mọi người nghe, đã kịp nấp sau ông Bụt như thế nào. Chân tay vẫn lạnh toát, run từ lồng ngực run ra. Có người nhận ra Út Ly, hỏi:
- Thầy Thân đâu mà hôm nay cậu đi một mình?
Út Ly giật mình, nhận ra người đàn ông, vội lảng đi chuyện khác:
- Cháu sang nhờ anh Thế đi tậu con trâu. Bác thấy anh Thế có nhà không?
- Ta không để ý. Nhưng chiều hôm qua thì có đấy!
- Cháu cám ơn! Cháu phải đi đây! - Nói đoạn, Út Ly cắm cổ đi vào bản.
Vừa thập thò trước ngõ, anh Thế đứng sau bụi cây thì thầm:
- Muộn thế? Giờ này có lính đi tuần rồi. Chưa lên thị trấn, trời đã sáng mất!
- Em…, em…! - Út Ly ngập ngừng, thảng thốt, kể chuyện đã gặp con hổ bắt con lợn ở đèo ông Bụt mà tóc gáy lại một lần nữa dựng lên.
- Cậu phúc to đấy! Thôi, đi nhanh lên. Cậu liên lạc sang căn cứ chưa?
- Em chưa. Lâu lắm rồi, không thấy anh Hùng Sơn về!
- Không sao. Khắc đi khắc đến! Cậu mang theo những gì nhiều thế?
- Thì mình giả vờ đi làm gì đó mà! - Út Ly không muốn kể, có đem theo sách cúng ma thầy Thân cho, cốt khỏi nhớ nhà.
- Cậu cũng lắm trò hơn ta tưởng đấy!
Anh Thế hơn Út Ly mấy tuổi, nhà tổng Tân Thái, khỏe như con gấu, khôn như con nai rừng. Út Ly biết anh, mấy lần gặp anh sang rủ chị Mơ đi hát. Anh hát then, hát páo dung cũng mượt mà, ấm áp, giọng trong như giọng con gái, còn biết đánh đàn tính, đàn môi nên khắp bản Tày, bản Dao, ở đâu cũng có mặt. Cuối năm ngoái, anh đến Yên Thái, tình cờ gặp Út Ly đang giúp bà con giấu thóc, giấu ngô lên núi, chống nộp thuế cho Tây, chống nộp tô cho địa chủ. Về nhà, anh vận động bà con Tân Thái làm theo, không may bị bọn chó săn phát hiện, gọi bố con anh lên đồn phạt tiền, bắt giam. May mà, bọn chó săn không phát hiện, anh có liên hệ với Việt Minh, nên lại tha về. Nhưng từ đấy, bố con anh làm gì, đi đâu cũng phải lên đồn xin phép. Bị o ép, anh bí mật đi tìm Út Ly, nhờ giới thiệu tham gia Việt Minh. Ý tưởng của anh khiến Út Ly nảy ý định, cùng anh lên núi cùng gia nhập Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng bản làng.
Cả ngày lặn lội trong rừng, lần theo con suối, tranh thủ vừa đi vừa bẻ cơm nắm ra ăn. Khát, lại chặt cây nứa non lấy nước. Cuối cùng, hai anh em đã lần ra đến bờ sông. Chân tay bị vắt cắn, chảy không biết bao nhiêu máu. Hai người đẵn nứa, cốn mảng, tìm chỗ an toàn vượt sông. Nước sông mùa đông trong xanh. Hơi nước bay lên thành những dải mây trắng. Gió hun hút thổi, khiến mặt mũi chân tay lạnh cóng. Mảng nứa chòng chành, có lúc bị cuốn vào dòng nước chảy xiết, va phải đá ngầm, có lần sắp bị lật chìm. Tim Út Ly muốn ngừng đập. Nhờ anh Thế khỏe như con gấu, mấy lần mảng bị hút vào vụng xoáy, anh đều xoay xở, kịp đẩy thoát ra.
Mặt trời lấp ló trên đỉnh núi Hùng, hai anh em kịp sang sông, vượt đèo Mã Quýnh, đèo Bó Nàng, sang đất An Phú, nơi nghe nói, có tổ chức bí mật của Việt Minh. Đêm ấy ở An Phú, một đêm có bao nhiêu chuyện mà mãi sau này, anh Thế còn kể đi, kể lại.
Vừa đặt chân đến đất An Phú, cái chân tự nhiên thấy hết mỏi, cái bụng thấy hết đói, cái đầu thấy lâng lâng, cứ tưởng mình về đến nhà mình. Nhưng rồi, trời tối dần, mưa phùn làm cho cái rét thêm tê tái, phất lên mặt, cắt vào chân tay lạnh buốt. Cái đói khiến chân mỏi rã rời, đau nhức. Hai anh em lê chân đến cổng nhà ai, định vào hỏi thăm, khi định xin ăn, xin nước uống, xin vào ngủ nhờ đều bị người nhà ra đóng cổng, hỏi không nói, gọi không thưa, đành dắt nhau ra gốc đa cuối làng đốt lửa ngồi qua đêm. Lần đầu tiên Út Ly thấy một người to như con gấu không khóc, mà luôn tay gạt nước mắt. Đêm ấy, Út Ly nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ chị Giao, anh Định nhiều thế. Không biết, anh Thế có ân hận việc nghe Út Ly trốn đi theo Việt Minh, để giờ ra nông nỗi đói rét thế này!
Nửa đêm, có hai người mặc quần áo lính, súng ống nai nịt từ đầu đến chân. Giá như, hai cái chân không mỏi như chân mượn của người khác, Út Ly đã kéo anh Thế chạy vào rừng. Người đeo súng đòi kiểm tra giấy tờ, bảo hai anh em là Việt Minh, đòi bắt nộp cho Tây đoan. Không biết vì đói, vì rét, hay vì ân hận, sợ hãi, mà hai anh em ngồi run như cầy sấy. Anh Thế có cái khôn, anh chả đem theo một thứ giấy tờ, nên một mực nói, anh bị lạc trong rừng. Út Ly bị lục đồ, lôi ra mấy quyển sách cúng ma, ngồi im từ đầu đến cuối. Hai người đeo súng đưa mắt nhìn nhau, yêu cầu hai anh em đi theo.
Họ dẫn hai anh em về ngôi đình, lấy nước cho uống, lại cho mỗi người một bắp ngô luộc. Út Ly gặm mấy miếng đã hết, cảm thấy bắp ngô ngon hơn bất cứ bữa cỗ nào ở nhà. Nhìn sang anh Thế, anh còn ăn nhanh hơn. Ăn đoạn, người đàn ông râu rậm, to cao, đi đôi ủng Tây từ trong nhà đi ra, lên tiếng nạt nộ:
- Các anh từ đâu đến đây? Định đi tìm Việt Minh, đúng không?
- Tôi đã bảo, tôi bị lạc đường! - Anh Thế lên tiếng. Út Ly vẫn giữ im lặng.
- Các anh không nói, mai lên đồn, người ta sẽ có cách cậy răng các anh ra thôi. Nói đi, trước khi còn chưa muộn!
Người đàn ông xem qua mấy quyển sách của Út Ly, lại nhìn cậu từ đầu đến chân, hô trói hai tên Việt Minh vào cột, ngày mai báo người trên đồn về giải quyết. Hai người đeo súng làm theo. Lúc sau, Út Ly thấy ba người thầm thì chuyện gì, rồi cho người ôm cho mỗi anh em một mảnh chăn.
Sáng hôm sau, hai anh em chưa được cởi trói, nhưng được đem mỗi người một mẩu sắn luộc. Gần trưa, người đàn ông râu rậm đi cùng chàng trai trẻ mặc quần áo Tày, đến hỏi bằng tiếng Dao:
- Các người là ai?
Cả hai giữ im lặng. Đêm qua, Út Ly đã kịp dặn anh Thế, dứt khoát đừng nói gì nữa. Chúng không làm gì được đâu. Càng nói càng dại, nhỡ bọn chúng xỏ giầy Tây thật, hóa ra ta lạy ông tôi ở bụi này.
- Nếu các người không chịu nói, buộc ta phải giải lên đồn. Các người sẽ được toại nguyện, suốt đời im lặng!
Sau nhiều lần gặng hỏi, quát nạt, không ai chịu nói gì, mặt chàng trai tím dần. Người đàn ông râu rậm bảo mấy người đeo súng:
- Người anh em! Hai tên Việt Minh muốn lên đồn Tây ăn kẹo đồng thật rồi. Nhưng thôi, tha cho họ. Cho bịt mắt, đuổi ra khỏi làng, cấm quay trở lại!
Hai người đeo súng lập tức làm theo.
Hai anh em được cởi trói, bịt mắt, dắt ra khỏi làng, hối hận, hẫng hụt, định quay về. Chợt nghe trong bản có tiếng la hét, gào thét thất thanh.
Hai người đến nơi, nghe dân bản nói, cô con út nhà bà Hái bị sốt cả tuần nay. Con bé kêu đau đầu, đau lưng, miệng đắng như cắn mật gấu. Hễ ngửi mùi cơm là buồn nôn. Có người cho củ khoai nướng, con bé cắn mấy miếng đã hết. Bà hàng xóm nghe thì bảo, con bé bị đậu lào, đánh lá trầu, nhể mấy nốt, nặn máu ra là hết. Nhưng con bé sợ máu, nhất định không chịu cho khêu. Để sốt mấy hôm, hóa đậu rắn rồi. Không gặp thầy gặp thuốc, vô phương cứu chữa!
Bà Hái bước đi xiêu vẹo, chới với, la hét:
- Cứu con tôi với! Hỡi dân làng…! Ông giời ơi!
Mấy người vào xem, ra cổng thì thầm:
- Con bé bị cấm khẩu rồi!
Út Ly tò mò chạy vào. Da cô gái xám như chì. Sờ vào đâu cũng lộp xộp như đụng vào xác con rắn, thở thoi thóp, lưỡi thụt, cấm khẩu từ bao giờ? Bà Hái gào không ra hơi, khóc không ra tiếng. Út Ly im lặng nghĩ, bình tĩnh hỏi:
- Ai thấy có cái xác rắn lột nào ở đâu không ạ?
Vừa hỏi, cậu để mắt lên mái nhà, mắt sáng lên, thấy trên cây đón nóc có một cái xác rắn lột từ bao giờ, mừng rỡ bảo:
- Đây rồi! Ai lên lấy hộ tôi đi. Còn ai tìm đẽo cho nắm vỏ cây núc nác. Nhanh lên, cứu bệnh như cứu hỏa. Tim cô ấy sắp lịm đến nơi rồi!
Mọi người ngơ ngác. Nhưng nhìn con bé đang thoi thóp thì hò nhau làm theo. Út Ly nói vội không kịp thở, bảo:
- Ai chọc cho quả bưởi, hái cho mấy bông hoa. Cho tôi mượn cái mâm, xin chén rượu, chén nước, rải chiếu ra sân.
Quay ra, bảo anh Thế:
- Anh đốt cái xác rắn thành than. Rồi bảo ai băm nhỏ, giã nát nắm vỏ núc nác này, cho hai thứ vào nồi, đổ ba bát nước đun cạn lấy một bát hộ em. Nhanh lên!
Út Ly ra mở sách, châm đèn, ngồi giữa sân đọc, lại quay ra giục:
- Thuốc sôi lâu rồi. Cho tôi xin quả trứng gà!
Út Ly đập quả trứng vào nồi, đánh đều, vớt bã bọc vào mảnh vải, lại bảo:
- Đợi lúc nữa ấm tay, nhờ các bà đánh gió cho cô ấy từ trán xuống chân. Lại từ sau gáy đến lòng bàn chân hộ cháu.
Nửa canh giờ, Út Ly lại cho bã thuốc vào nồi, hâm nóng, bảo đánh lần nữa. Mấy bà vừa đánh đến ngực, đến bụng, ngạc nhiên bảo nhau:
- Thuốc đánh lại đến đâu, da con bé hồng lên đến đấy.
Vừa đánh đến gan bàn chân, con bé ú ớ, cựa mình.
Người nhà nhìn con bé, lại ra nhìn Út Ly, bà Hái cười rơi nước mắt.
Ông già từ đầu ôm cái điếu ngồi như bụt đá. Nghe con bé tỉnh lại, kéo liền mấy điếu thuốc lào, nhả khói, hỏi:
- Anh con nhà ai?
- Thưa …! - Út Ly do dự - Cháu ở tổng khác ạ!
- Anh còn trẻ mà đã có tài…!
- Thưa ông! Cháu không có tài đâu. Cháu đi đây đi đó gặp thì được bà con mách cho. Bài thuốc này chữa “đậu rắn” ạ. Ông cháu chữa khỏi nhiều người rồi ạ.
- Ông cháu ta trả tiền, hay cậu lấy bạc trắng đây?
- Dạ! Ông nội cháu dặn, gặp họa phải làm phúc. Làm phúc thì không được lấy tiền. Mà hôm nay, bà con ở đây tự lấy thuốc chữa cho cô ấy đấy ạ!
Ông già chớp mắt liền mấy cái, lại châm thuốc hút.
Út Ly nhìn bóng nắng đã tròn, đưa mắt nhìn anh Thế, ý nói đi thôi. Ngoài ngõ, người đàn ông rậm râu cùng chàng trai nói tiếng Dao đi vào. Út Ly giật mình, vội xách hành lý, kéo anh Thế định thoát ra lối cửa sau. Người đàn ông râu rậm kịp đến giữ tay không cho đi. Dân làng ngơ ngác. Chàng trai lại nói bằng tiếng Dao:
- Các cậu chưa đi được đâu!
Mặt anh Thế tái dần, ấp úng định phản đối:
- Tôi... Chúng tôi…!
Ông già tay cầm điếu, nhìn người đàn ông râu rậm, can thiệp:
- Hai cậu này vừa chữa cho con bé Hạnh thoát chết đấy!
- Tôi nghe bà con kể rồi!
Người đàn ông râu rậm lần lượt nhìn vào mắt hai chàng trai, im lặng. Ngực Út Ly nghe rõ tiếng đập của tim. Lúc sau, người đàn ông mỉm cười bảo:
- Các cậu ở lại ăn cơm với gia đình một bữa hãy đi!
- Đúng đấy! Ta chưa kịp nói mà. Bà Hái đâu, bảo mấy đứa đưa cơm lên đi!
Ông già kéo tay hai người mới đến cùng ngồi vào mâm. Út Ly từ đầu vẫn giữ im lặng. Ông già thấy anh Thế xét nét nhìn trộm hai người mới đến, liền hỏi:
- Chốc nữa các cậu định đi đâu?
Út Ly thật thà thưa:
- Dạ! Chúng cháu về Yên Thái ạ!
Chàng trai nói tiếng Dao nhìn Út Ly từ đầu đến chân, hỏi:
- Cậu người Yên Thái?
- Dạ, vâng! Anh có quen ai bên ấy không? Hôm nào anh sang chơi.
- Ta không có, nhưng ta có biết tên mấy người. Cậu tên gì?
- Dạ! Bàn Văn Ly!
- Ly động trưởng chăn trâu động Loong Coong, phải không?
- Dạ, phải ạ!
Hai người nhìn vào mắt nhau. Chàng trai hỏi tình hình động Loong Coong, về nhóm hoạt động của Lý Thị Hòa, cốt để kiểm tra lời Út Ly, rồi bảo:
- Sao giờ cậu mới nói! Hai cậu sang đây có việc gì?
- Dạ…! - Út Ly đưa mắt nhìn ông già.
Chàng trai vội nói:
- Không sao. Người nhà ta cả!
Anh Thế hết xét nét, lên tiếng:
- Chúng tôi xin gia nhập Việt Minh!
Cuối bữa cơm, ông râu rậm nói với anh Thế:
- Vậy chốc nữa, các cậu về đình nghỉ. Chiều nay ta cho đăng ký ghi tên. Cơ quan sẽ bố trí cho các cậu ở tạm nhà dân!
Ông già lên tiếng:
- Để hai cậu ở đây được mà! Ta nhờ cậu này theo dõi cho con bé đang ốm!
Chàng trai lại nói tiếng Dao:
- Vâng! Để cháu bố trí nhân sự đã, rồi xem ở đâu cho tiện. Hai cậu thông cảm cho chuyện sáng nay nhé. Hồi này, bọn chó săn lùng sục dữ lắm!
Lại nói, ông đội Quản nghe tin thằng Út Ly đã bỏ nhà đi, thấy nhẹ người, bớt được một cái gai trong mắt, về bảo thằng Nghĩa:
- Thằng Út Ly bỏ cuộc rồi. Bỏ nhà đi rồi. Từ giờ, mày cũng đừng đàn đúm với bọn con trai con gái trên động nữa, mà có ngày hối chả kịp đâu, con ạ!
- Bố nói gì lạ thế? Bọn con rủ nhau vệ sinh cho sạch làng, tốt lúa, mọi người vui vẻ đoàn kết với nhau đấy thôi!
- Thằng này, mày nói toàn cái giọng Việt Minh từ bao giờ thế?
- Đúng là, “người khôn không nói vẫn khôn, thằng dại càng nói càng dại!”.
- A! Tổ sư thằng này! Mày bảo ai là thằng dại?
- Con có nói bố đâu! - Thằng Nghĩa cãi lại.
- Mày… mày!
- Đấy là câu của các cụ nói chứ. Mà, bố cũng bớt cái miệng đi cho con nhờ. Cái dấu giày của bố ở chỗ cái cọn nước, rồi dấu búa của bố chặt cái cọn còn đấy, chưa ai đụng đến đâu!
- A thằng này! Giờ mày đe cả bố mày! Thằng Út Ly nó nhồi nhét cho mày thế đấy!
- Nói phải thì củ cải cũng nghe mà bố!
- Thằng Út Ly còn phải bỏ làng mà đi, mày là cái thá gì mà dám cãi tao. Con cái nhà... đồ… bất hiếu!
- Bố đợi đấy. Chả lâu nữa đâu, Việt Minh sẽ làm chủ tổng Yên Thái, còn làm chủ cả nước Việt Nam cho bố xem. Rồi xem bố còn có giày Tây để đi nữa không.
Thằng Nghĩa hồi này học ở đâu, về cãi bố nhem nhẻm. Nói thế thôi. Nhưng nó biết, từ hôm anh Thể vận động mấy ông xã trưởng ghi tên tham gia Việt Minh, có đêm nó để ý, thấy bố nằm cựa mình liên tục.
Văn phòng phái bộ Việt Minh là cơ quan lưu động, phụ trách liên khu núi Hùng, đóng trên đất Khánh Thiện, đặt trong một ngôi đình. Thỉnh thoảng, anh Hùng Sơn từ Cao Bằng qua lại trực tiếp chỉ đạo. Cơ quan đóng tại khu rừng Nà Khoảng, nằm gọn trong thôn An Vinh, bao bọc bởi cánh rừng đại ngàn từ chân núi Hùng kéo sang. Phía bắc, con đường bám bờ sông về châu lỵ, đi bộ khoảng nửa ngày. Cửa rừng nhìn ra con sông trong xanh, tựa lưng vào dãy núi Hùng, nối với cánh rừng nguyên sinh từ Ba Bể, Cao Bằng. Dòng suối Cổ Linh chảy từ chân núi Hùng đổ ra sông như có dòng khí thiêng tụ hội, bốn mùa ăm ắp nước.
Lại nhớ, đầu năm Tân Tỵ, có ông cụ người Nam Đàn, xứ Nghệ được Quốc tế cộng sản cử về Đông Dương lãnh đạo cách mạng, chọn Cao Bằng làm căn cứ địa. Dãy núi Hùng trở thành nơi che giấu, huấn luyện nghĩa quân, nuôi dưỡng, đào tạo cán bộ hoạt động bóng tối. Lòng dân sắt son ví như rừng thiêng bao la che chở cho cách mạng, tạo thế thiên la địa võng che mắt thực dân Pháp, phát xít Nhật. Chỉ huy lực lượng Việt Minh, lãnh đạo văn phòng phái bộ là người đàn ông râu rậm. Bà con quen gọi bác Thế Khang. Thư ký văn phòng, đồng thời đảm đương huấn luyện quân sự là anh Thủy Lê, từ Cao Bằng cử về.
Út Ly cùng anh Thế đến nơi, đã thấy trên bàn có bó hoa tươi cắm trong ống nứa được cắt gọt khéo tay. Bên cạnh là cuốn sổ cỡ lớn, bìa cứng vuông vức thơm mùi giấy. Người đàn ông râu rậm ngồi sau chiếc bàn mặc bộ quần áo mới nguyên nếp gấp. Bên cạnh là chàng trai áo Tày, đã gặp sáng nay. Người đàn ông đứng lên, trịnh trọng giới thiệu:
- Tôi tên là Thế Khang, phụ trách Tổng hội Việt Minh khu vực, còn đây là đồng chí Thủy Lê, Chánh thư ký, phụ trách tổ chức kiêm huấn luyện Đội Cứu quốc quân! - Bốn cái đầu cùng cúi chào nhau. Đồng chí Thủy Lê hướng dẫn cho hai anh em khai rõ họ tên, ghi các bí danh để liên lạc bí mật, rồi hướng dẫn hai người làm lễ tuyên thệ dưới lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh. Đầu tiên là Bàn Văn Ly, rồi đến anh Thế.
Út Ly đứng nghiêm, cúi chào lá cờ, đặt bàn tay trên cuốn sổ truyền thống của Mặt trận Việt Minh, giọng run run, nhưng trịnh trọng, tuyên thệ:
- Tôi, Bàn Văn Ly, bí danh Bàn Tiến, thường gọi Út Ly, quê quán động Loong Coong, tổng Yên Thái, xin thề: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương, hết lòng hết sức tuyên truyền, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Mặt trận Việt Minh, quyết tâm chiến đấu đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn, giành chính quyền về tay nhân dân. Xin thề!
Đến lượt anh Đặng Văn Thế. Anh vừa đọc, vừa khóc, nói chẳng thành câu. Lời thề của anh hiện lên ký ức của ông cha, có hình ảnh những đòn roi của bọn địa chủ gian ác quất lên mặt, lên lưng ông nội, có bát cơm bố chan nước mắt, bị đòn roi khi bố cùng bà con đi đấu tranh chống nộp sưu cao, thuế nặng, chống địa chủ phát canh, thu tô.
Lần đầu tiên, hai anh em được gọi bằng hai chữ “đồng chí”, Út Ly, lẫn anh Thế thấy mình lớn lên. Ngực như có dòng điện ấm áp chạy qua. Út Ly đặt tay lên ngực, thấy tim đập rộn ràng. Tự nhiên, Út Ly nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ chị Giao, anh Định. Út Ly thấy mình đã là người của Việt Minh, người của cách mạng hoạt động bóng tối. Từ hôm nay, cuộc đời hai anh em sẽ sang một trang mới, có thể gian khổ hy sinh, nhưng rất tự hào, vẻ vang.
Anh Thế được biên chế vào Đội cứu quốc, ngày đêm luyện tập quân sự. Út Ly với bí danh Bàn Tiến, với kinh nghiệm tổ chức hoạt động ở động Loong Coong, được phân công giúp anh Thủy Lê tuyên truyền phát triển tổ chức và hội viên, giác ngộ chủ trương, chính sách của mặt trận, vận động thanh niên chống đi phu, đi lính, tuyên truyền, phát triển lực lượng Cứu quốc quân.
Một chiều, ông Bưởng đang ngồi đan sọt bên đống lửa. Hạnh lúi húi nhặt rau dưới bếp. Út Ly đến cổng, đằng hắng đánh tiếng. Ông Bưởng vui ra mặt, cho gọi Hạnh lên, đùa bảo:
- Ân nhân cứu mạng của mày đến này. Ta thì ta bảo mẹ mày gả béng cho người ta. Mẹ con mày khỏi phải mắc nợ!
Bốn con mắt bẽn lẽn tự nhiên không dám nhìn vào mắt nhau. Má Hạnh vừa đỏ lên đã tím dần, chạy vội ra vườn sau. Út Ly nhìn theo, cô gái tuổi dậy thì, nước da xanh vừa ốm dậy, lại thấy bóng Hoa hiện ra, người con gái đầu tiên Út Ly chép thơ gửi tặng. Hình ảnh thầy Thân cũng hiện về. Út Ly sực nhớ, đến giờ phải về, thưa:
- Cháu xin phép, sắp đến giờ điểm danh ạ!
Ông Bưởng nhìn theo Út Ly đi ra cổng, mắt ẩn ý, nói:
- Thi thoảng cậu phải ra theo dõi bệnh cho con bé đấy.
Ngoài cổng, một chàng trai đầu bóng mượt nấp nhìn Út Ly từ đầu đến chân. Ông Bưởng liếc thấy, đánh tiếng ra cổng:
- Cái Hạnh, mày vừa ốm dậy. Đi vào nhà đi!
Ông Bưởng kéo điếu thuốc lào, nhả khói, lẩm bẩm một mình:
- Lúc con bé ốm, cả bản đến hỏi thăm thì chả thấy mặt. Giờ vừa dậy được, lại đầu bồng đít vịt đến tán tỉnh.
Mặt trời lặn xuống núi Hùng. Hoàng hôn nhuộm hồng cây lá. Gió nồm kéo về. Ông Bưởng nhìn trời, lẩm bẩm: Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm, trời không đem dịch bệnh, thì thiên tai sẽ về cho mà xem.
Sau một thời gian thử thách, một ngày cuối thu, bác Thế Khang cho gọi Bàn Tiến lên văn phòng, có mặt đồng chí Thủy Lê. Hai người thân mật nhìn chàng trai động Loong Coong từ đầu đến chân. Bác Khang tự nhiên nghiêm nghị, bảo:
- Tình hình cách mạng giờ đòi hỏi khẩn trương hơn bao giờ hết. Mỗi đội viên phải làm việc bằng hai, bằng ba. Sắp tới, tổ chức cử một số anh em đi xây dựng cơ sở, thành lập tổ chức ở các nơi, không chỉ ở các thôn bản miền núi, mà còn về các vùng nông thôn miền xuôi, vùng đô thị, vận động thanh niên gia nhập đội Cứu quốc quân, chuẩn bị cho ngày phát động khởi nghĩa cướp chính quyền. Tổ chức đã xem xét, quyết định giao cho đồng chí Bàn Tiến, tức Út Ly, trọng trách mới, làm Phó chánh thư ký Việt Minh căn cứ núi Hùng. Cậu cần phải nỗ lực…!
- Úi!… Bác ơi! Anh Thủy Lê à! Em không làm nổi đâu! - Út Ly giật mình, run hết chân tay, lưỡi líu lại.
- Cậu nhất định phải làm bằng được. Ta sẽ giúp! - Bác Thế Khang động viên - Ta đã để ý rồi. Cậu linh hoạt, tận tụy, cũng sáng tạo nữa. Có điều, cậu luôn phải nhớ, nghề làm tổ chức, cẩn thận bao nhiêu cũng thiếu, cẩu thả một lần đã thừa, biết chưa? Nếu cậu kết nạp nhầm một tên mật thám, hay một tên Việt gian, cậu sẽ mất cả một tổ chức. Kết nạp nhầm một kẻ cơ hội, ích kỷ, hẹp hòi, cá nhân chủ nghĩa lại làm cho tổ chức yếu đi. Việt Minh lúc này đang rất cần cán bộ có năng lực tổ chức vận động, gây dựng phong trào. Nhưng cậu hãy nhớ, dù sao, công tác nhân sự lúc nào cũng phải đảm bảo tuyệt đối an toàn cho tổ chức!
- Cháu hiểu ạ! Thật mà nói, cháu chỉ sợ, cháu ít chữ quá, bác ạ!
- Cậu còn may mắn được thầy cúng dạy chữ cho, lại biết đọc biết viết chữ Việt Nam mới. Các anh em khác thiệt thòi hơn cậu nhiều. Nhưng cậu cũng cần phải học thêm văn hóa nữa. Từ mai, nếu cậu ở nhà, tổ chức sẽ dành cho cậu hai tiếng buổi chiều tự học văn hóa, được không?
- Vâng! Nếu được đoàn thể đồng ý, cháu sẽ mở lớp văn hóa buổi tối cho cả bên quân sự. Hồi ở Yên Thái, chúng cháu làm thử rồi ạ. Bà con biết chữ, biết đọc truyền đơn, ai cũng thích, bác ạ!
- Cậu có ý tưởng hay đấy. Ta sẽ bàn việc này với Thủy Lê, nhưng nhất định phải mở một lớp văn hóa thật. Người biết dạy cho người chưa biết chữ - Bác Thế Khang nhìn anh Thủy Lê nói. Lại quay ra bảo Út Ly:
- Ngày mai, cậu cùng cậu Thế võ trang xây dựng kế hoạch phát triển tổ chức về phía tây nam châu Khánh Thiện, bắt rễ chắc vào đồng bào Dao và Tày ở bên đó. Ta cần phát triển cơ sở nối liền lên phía Bắc châu Yên Mục, rồi phía đông nam cổng trời Quản Bạ. Các cậu chuẩn bị kế hoạch đi. Tuần sau lên đường!
Một chiều, Út Ly vác bó củi xuống núi, gặp cô Hạnh đeo sọt rau từ nương về. Tình cờ gặp con trăn bò ngang lối đi. Thấy Hạnh, nó ngóc cổ, lưỡi thè dài liên tục liếm mép. Hạnh co rúm người, không bước đi được nữa. Con trăn trân trân nhìn Hạnh, không chịu bò đi. Út Ly phát hiện, chạy đi bứt đoạn dây sắn rừng đem về. Hạnh không còn hồn vía, ngã đổ vào vòng tay, ôm chặt lấy cổ Út Ly. Con trăn nheo nheo bên mắt, lẳng lặng bỏ đi. Hai khuôn mặt, hai gò má vô tình chạm phải nhau, đỏ dần, nóng ran. Hai người lẳng lặng ra về, không ai nói gì.
Cái cảm giác dìu dịu ngã vào vòng tay chàng trai, hai gò má vô tình chạm vào nhau, cứ tối đi nằm nó lại hiện về, khiến Hạnh lại có cảm giác, mặt mình nóng ran. Chàng trai ít nói, ít cười, hơi tý mặt đã đỏ, có lần cầm tay Hạnh dắt đi, lại là thầy thuốc, ân nhân cứu mạng. Mỗi lần cảm giác ấy về, Hạnh lại mong gặp lại khuôn mặt, ánh mắt ấy một lần.
Lại nói anh chàng bảnh trai. Suốt những ngày cô Hạnh bị ốm, không thấy chàng tiểu đội phó to cao đến nhà, ông Bưởng không có người đến nói chuyện, cũng nhớ. Nhưng từ bữa, cả làng lo lắng, hò nhau tìm thuốc chữa cho con bé, không thấy mặt mũi cậu ta, mấy phiên chợ mới đến thập thò ngoài cổng. Ông Bưởng vô cớ khó chịu, đánh tiếng không mời vào, khiến chàng thắc mắc, khó chịu bỏ về.
Việc chàng trai từ động Loong Coong vừa xuất hiện ở căn cứ đã chiếm được cảm tình của nhiều người, nhiều lời khen ngợi. Bác Thế Khang, cả anh Thủy Lê coi cậu ta như người thân, còn giao cho trọng trách, khiến anh chàng tiểu đội phó lúc nào cũng tò mò để mắt. Lại thấy Út Ly thường ra vào nhà ông Bưởng, anh ta càng khó chịu hơn. Mất bao nhiêu công sức, bao nhiêu lần đi lại, chàng mới bắt chuyện, làm quen được ông Bưởng. Cây cầu nối sang cô con gái nuôi của ông vẫn còn xa lắc, lạnh giá. Mà chàng phải đứa không biết cách ăn diện đã đành. Mỗi lần đến, là một lần thay kiểu hớt tóc, đổi mốt chải đầu, mỗi lần một kiểu quần áo, mà chưa lọt được vào mắt cô Hạnh. Vậy mà, cái cậu nhà quê một cục suốt mùa đông không có cái áo khoác nào tử tế mà thay, lại được con bé tiễn ra tận cổng. Mà ông Bưởng hôm ấy cũng đáng ghét, không thèm mời ta lấy một câu, vào nhà uống nước. Hôm nọ lại nghe, anh chàng được cử làm phó chánh thư ký, phụ trách hai địa bàn, khiến máu chàng tiểu đội phó có lúc như muốn sôi lên. Rồi, anh chàng la cà tìm đến cơ quan văn phòng dò la.
Chả mấy lại đến một mùa thu. Một năm không được gặp bố, không được ngồi ăn cơm cùng anh Định, chị Giao. Mỗi lần bưng bát cơm, bữa nào cũng có thức ăn tử tế, canh anh nuôi khéo nấu, thì bát cơm sắn, canh củ mài không mắm, không muối, nấu nước than lọc đã chát, còn khê cổ trên tay bố lại hiện ra. Bát cơm trên tay Út Ly lại chan thêm nước mắt. Cái tết năm ngoái, cái tết đầu tiên xa nhà, ở trên căn cứ, Út Ly còn có công việc bộn bề, lo xây dựng cơ sở ở bản này, vận động thanh niên bản kia trốn bắt phu, bắt lính, lên núi tham gia nghĩa quân, không còn thời gian nghĩ đến tết. Ông Thân ở nhà, tết nhìn đồng bánh chưng lại lo thằng Út Ly bé bỏng không biết giờ này no đói thế nào? Ăn tết ở đâu? Bố khóc nhiều lắm! Út Ly lại nhớ anh Định, chị Giao, không biết năm nay họ đã để mắt đến ai? Nhà nghèo, việc lấy vợ lấy chồng cũng đành chịu hèn! Ngày mai, Út Ly sẽ cùng anh Thế đi xây dựng cơ sở bên Tĩnh Trường. Ít ra giáp tết mới về. Biết gia đình ông Bưởng di cư từ Tĩnh Trường sang, Út Ly mượn cớ hỏi đường, sang gặp cô Hạnh một lần, đi cho khỏi nhớ.
Ông Bưởng ngồi ôm chiếc điếu cày, bên ấm trà. Út Ly lưỡng lự trước cổng, không dám lên tiếng. Con mực chạy ra, chạy vào, vẫy đuôi kêu ư ử. Ông Bưởng nhìn ra, lên tiếng:
- Cái Hạnh! Mày ra xem con chó cắn ai ngoài cổng!
Vừa thấy Út Ly, hai má Hạnh đã đỏ, đứng trong sân gọi ra:
- Bác Bưởng bảo… vào!
Ông Bưởng lẳng lặng vào lấy bao dao, vừa đi vừa thắt, bảo:
- Ta đi nương. Cậu cứ ở chơi, cái Hạnh nó ở nhà.
Út Ly tròn mắt nhìn theo ông Bưởng, hai tai đỏ dần.
Hạnh bẽn lẽn kê đòn ngồi dựa cột ngoài hiên, nhìn đàn gà con ríu rít chạy theo mẹ. Cái cảm giác dìu dịu lúc sợ hãi con trăn, Hạnh chới với ôm cổ Út Ly, hai má vô tình chạm phải nhau tự dưng hiện về, khiến mặt Hạnh nóng ran.
Mặt Út Ly hết tím, lại đỏ, ngập ngừng nói:
- Ngày mai,… đây… đi vắng ít ngày!
- Đằng ấy đi,… liên quan gì đến đằng này?
- …!
Hạnh chợt nhìn cái quai túi dết của Út Ly, bảo:
- Cái quai túi tuột chỉ rồi. Để đây khâu lại cho. Sáng mai ra mà lấy!
- Ừ! Đây định gửi cái túi ở nhà, toàn sách thôi mà. Đeo đi nặng chả bõ.
- Ừ! Phải mà. Mai ra… đây mượn cái thắt lưng bao của mẹ đựng gạo cho.
Ngoài cổng lại có tiếng người ho.
Chàng trai đầu đít vịt đi thẳng vào sân.
Út Ly nhận ra anh ta, đưa túi cho Hạnh, gật đầu về phía chàng trai, chào:
- Đồng chí ở lại…, về sau!
Hạnh vụt đứng lên, cầm rổ, mượn cớ đi hái rau. Khách nhanh miệng hỏi:
- Bác Bưởng đi vắng à cô?
- Ông ấy lên nương. Anh hỏi gì ông ấy?
- Tôi,… mình đến chơi thôi!
- Thế thì, anh chờ ông ấy sắp về rồi. Tôi phải đi hái rau.
Khách hất hàm về phía Út Ly, hỏi:
- Cậu ta là ai?
- Thầy hôm nọ chữa bệnh, cúng giải hạn cho tôi!
Khách tò mò lại hỏi:
- Sáng mai, thầy đi đâu à?
- Họ nói đi Tĩnh Trường!
- Vậy, ông Bưởng không có nhà, tôi về đây!
Chàng trai hấp tấp bước ra cổng, đi thẳng.
Hạnh linh tính giật mình, nhớ lại thái độ của anh ta lúc bỏ về, vội kể cho ông Bưởng nghe. Ông Bưởng trách, bảo:
- Ta dặn con rồi, biết không được nói, hỏi không trả lời, không tò mò nghe chuyện của người khác mà. Biết người biết mặt, biết tâm địa người ta thế nào, con ơi! Ta phải đi nói chuyện này cho chú Khang!
Hạnh nhìn vào mắt ông Bưởng, khoanh tay xin lỗi.
Tối hôm ấy, Út Ly đến chào bác Thế Khang để mai lên đường làm nhiệm vụ. Bác ôm Út Ly trong vòng tay như hai bố con ôm nhau, bảo:
- Cậu được lắm. Mới bấy nhiêu ngày lên cứ, đã phát triển được gần chục cơ sở, ở hai địa bàn, lại còn lôi kéo được chục thanh niên tham gia lực lượng vũ trang, tuyên truyền phát triển nhiều hội viên mới. Cấp trên đánh giá cao sáng kiến của cậu ở tổng Yên Thái đấy. Lập được một nhóm bí mật và một nhóm công khai, vừa bí mật bảo vệ được lực lượng, lại thu hút nhiều tầng lớp tham gia. Có nơi đã học tập, kết nạp cả người ở tầng lớp trên tiến bộ, miễn là họ nói có người nghe. Ở đâu cũng làm được như chỗ các cậu, chả mấy chốc, ta có chính quyền. Lần này hai cậu đi, năm hết, tết đến, ta lo có nhiều bất trắc đấy. Nhưng chiến sự đang ngày càng nóng lên rồi. Người Nhật, người Pháp bắn nhau đến nơi rồi. Thời cơ không lặp lại hai lần đâu. Dạo này, mật thám Pháp, phát xít Nhật lùng sục khắp nơi. Ta phải nói thật, chuyến này các cậu đi lành ít, dữ nhiều đấy. Các cậu phải hứa với ta, tuyệt đối đảm bảo an toàn trở về đấy.
- Vâng ạ! - Út Ly cảm động nuốt từng lời, tưởng đó là lời của cha, lời quan tâm của thượng cấp.
- Báo cáo bác! Ngày mai, anh Thế sẽ rẽ qua Kéo Khà, chuyển tài liệu cho Tân Thái, rồi theo đường cái lớn. Cháu đi tắt Khuổi Cốm, Khuổi Lắc, hẹn gặp nhau ở Tĩnh Trường ạ!
- Tổ chức đặt niềm tin vào nỗ lực của các cậu. Chúc thượng lộ bình an!
Bác Thế Khang ngoảnh mặt, chấm giọt nước từ khóe mắt lăn ra. Đầu bác nghĩ, tuổi hai đứa, tết nhất đến nơi, con người ta đi tìm bạn hát then, hát cọi, còn hai đứa sắp dấn thân vào hang hùm, miệng sói, tai họa bất kỳ! Ông yêu các chiến sĩ của mình như yêu con cháu trong nhà. Vì độc lập tự do, đời này chưa giành được, đời sau còn phải hy sinh. Lúc này, Nhật - Pháp bắn nhau đến nơi rồi. Thời cơ không đến hai lần bao giờ!
Gió bấc thổi cái rét đầu mùa, khỏa khí lạnh lên mặt. Út Ly từ nhà ông Bưởng đi ra, khoác bao gạo trên vai, thắt bao dao bên hông.
Hạnh chạy theo, chụp cái mũ lên đầu, bảo:
- Bác Bưởng bảo, anh đội cái mũ đi cho khỏi lạnh.
Hạnh lại buộc vào cổ tay Út Ly sợi chỉ đỏ, một cái khăn thêu, bảo:
- Anh không được bỏ cái này ra đâu. Bùa hộ mệnh đấy!
Út Ly nhìn ông Bưởng, mắt rưng rưng, lại nghĩ bác là bố Thăng. Tai Út Ly văng vẳng lời thầy Thân: Ra ngõ mà có nước mắt là không tốt đâu!
Hạnh nép sau cửa bếp, nhìn theo bao gạo khuất dần vào bóng đêm. Út Ly bước đi với những cảm xúc vui, buồn, lo lắng ngổn ngang. Vui vì lần đầu tiên từ khi lớn lên, Út Ly được nhiều người quan tâm động viên, chăm lo, dặn dò trước một chuyến công tác đầy khó khăn nguy hiểm. Buồn vì phải xa bác Thế Khang, xa đoàn thể, xa gia đình ông Bưởng…, xa Hạnh. Những người thân thiết như gia đình. Nhưng sự lo lắng nhiều hơn. Tĩnh Trường là địa bàn nằm dọc con đường cái lớn nối liền hai tỉnh, liền kề hai thị trấn hai đầu. Những nơi cận thị, cận lộ, cận giang là đất giao thương, địa bàn phức tạp. Tổng này đa số bà con người Tày. Bên kia là Yên Lâm, chỉ có người Mông. Hai dân tộc có bản sắc, phong tục, tập quán, tín ngưỡng khác nhau. Tuy vậy, đất Tĩnh Trường thiên la địa võng, núi cao, đường hẹp, có con sông chảy dọc. Đoạn sông này vừa rộng, vừa sâu, lắm đá ngầm. Nước ầm ào chảy xiết. Từ lâu, người Pháp đã đến xây dựng những lô cốt ngầm kiên cố. Nhưng ai có được lòng dân, mới là người làm chủ con đường huyết mạch từ cửa khẩu cực Bắc về xuôi. Con người nơi đây thân thiện, giàu lòng tin. Đã tin nhau chia sẻ hết mình. Nhân cách ấy rất cần cho cách mạng. Nhưng ở đây, cán bộ Việt Minh còn quá mỏng, đang cần những cơ sở kiên trung, hết mình vì sự nghiệp cách mạng.
Từ căn cứ núi Hùng, theo con đường liên tổng, Út Ly đi theo hướng tây - bắc, bám con suối Cổ Linh. Gần sáng, trời chạng vạng tối sẫm. Côn trùng bị đánh thức kêu rinh ran. Trên núi, con hươu, con nai tác gọi bạn. Gà rừng gáy tìm nhau…, tạo thành bản hòa ca chỉ trên rừng mới có. Lúc lúc, Út Ly lại giật mình, dựng ngược tóc gáy, khắp người gai ốc nổi lên, bởi con cầy, con cáo đuổi nhau săn mồi, cắn bạn tình choe chóe.
Đến tổng Vĩnh Quang, trời sáng rõ. Bỗng hai người đàn ông xuất hiện, lúc rậm rịch đi sau, lúc vượt lên đi trước, không ai nói gì với ai. Út Ly chột dạ, cố lùi lại đằng sau. Hai người như cố tình vừa đi, vừa đợi. Út Ly vượt lên đi trước. Hai người cũng chạy gằn theo sau. Đi được vài cây số, Út Ly chủ động làm quen, biết đâu có bạn vừa đi vừa nói chuyện lại vui:
- Hai bác cũng lên xứ Nà?
- Ta lên bản Ty làm mỏ - Người đeo túi dết lên tiếng.
- Còn bác ạ? - Út Ly quay lại hỏi người đi bên cạnh.
Người đàn ông lầm lũi bước, không trả lời. Út Ly nói với người đi trước:
- May quá. Cháu lên Cổ Yểng thăm người nhà. Bác cháu đi cùng cho vui ạ!
- Được thôi! - Người đeo túi dết lên tiếng.
Nhưng rồi họ vẫn lầm lũi lúc vượt lên đi trước, lúc tụt lại đi sau. Chợt đến ngã tư cửa rừng, mấy tên lính nấp sau gốc cây ra chặn đường. Út Ly giật mình lùi lại. Người đàn ông đeo túi dết lập tức bỏ chạy về phía cửa rừng. Người đi sau kéo tay Út Ly chạy ra phía bờ sông. Đám lính dõng hò hét:
- Đuổi bắt thằng đeo túi dết!
Bọn lính hô nhau đuổi về phía cửa rừng. Lúc sau, một loạt súng nổ giòn. Út Ly bị người đàn ông cầm tay kéo ra bờ sông, chưa hiểu chuyện gì, ông đã giục:
- Cậu xuống đò mau! Sang sông sẽ có người dẫn cậu đi tiếp!
Út Ly bước xuống thuyền, run từ trong ngực run ra. Nhìn lên bờ, không thấy người đàn ông đứng đó nữa. Bên sông, người đàn ông nhìn chiếc khăn trên cổ tay Út Ly, nói nhỏ:
- Ta đợi cậu từ lúc gà gáy. Ta sẽ dẫn cậu qua thị trấn…!
Út Ly chưa hết bàng hoàng, tai văng vẳng tiếng súng nổ phía cửa rừng, nói:
- Tôi vừa bị phục kích ở ngã tư cửa rừng!
- Thật à! Vậy thì… Ta phải tạt vào rừng thôi. Đi theo lối Thổ Bình, Yên Thuận. Khó đi một tý, nhưng đường ấy an toàn!
Út Ly lặng lẽ đi theo, thấy tinh thần phấn chấn ấm áp hơn. Chợt người dẫn đường giật mình, chững lại, thì thầm:
- Có nốt chân beo còn mới này! - Út Ly giật mình theo, mặt thất sắc.
Suốt cả tuần, ngày đi, đêm nghỉ, lội suối, trèo đèo, những con vắt xanh to như con đỉa, những nốt chân beo dẫm lên nốt chân người, những đoạn đường bay cả hồn lẫn vía. Đói hoa mắt. Đói ù tai. Đói bở cả chân tay. Cuối cùng, Út Ly vừa đặt chân lên đất Tĩnh Trường, tìm được đến nhà cơ sở, bàng hoàng nghe tin, anh Thế vừa bị lính đoan phục bắt hôm qua. Út Ly bủn rủn chân tay. Giữa mùa đông, mồ hôi vã ra như tắm.
Cả tuần lang thang không có cái ăn, chàng trai mười chín tuổi đêm đêm sợ hãi, định quay về. Một hôm đói lả, Út Ly liều vào đền Thác Cái thắp hương. Thầy từ nhìn anh chàng bước đi xiêu vẹo, mặt xanh như sắp chết đói, đem đồ lộc ra cho. Thấy chàng khôi ngô, nói năng lễ phép, thạo chuyện tâm linh, thầy ngỏ ý giữ làm con nuôi nhà đền. Mấy đêm thấy khách thao thức, thở dài, thầy bận tâm mới hỏi:
- A-di-đà Phật! Ta trông cậu không đến nỗi. Gia cảnh thế nào? Thân dài vai rộng thế này mà đi khất thực?
- Bẩm thầy! Có người khất thực vì sa cơ lỡ bước. Có kẻ khất thực vì mong nhờ sự thương hại của nhân gian. Con khất thực tìm người cứu nước! - Út Ly ướm thử, nói thật, bởi mấy ngày nương nhờ nhà đền, thấy thầy từ là người thanh tâm, nhân hậu, đáng tin.
- A-di-đà Phật! Ta có nghe rõ không đấy?
Út Ly kể hết trước sau, chủ trương đi xây dựng cơ sở đánh Pháp, đuổi Nhật, chuyện anh Thế, người cộng tác vừa bị phục bắt mấy hôm nay bên Tĩnh Trường, rồi thưa:
- Thưa thầy! Thầy có thể giúp tìm cho con một vài đệ tử làm cơ sở cho cách mạng được không?
Nửa đêm, thầy từ châm thêm ngọn nến, mắt soi vào mắt chàng trai. Hồi lâu mới nói:
- A-di-đà Phật! Cậu không sợ, mai ta nộp cậu cho lính đoan à?
- Thưa thầy! Thân con dù bị tù đày, mà nước nhà độc lập, con cũng vui ạ!
- A-di-đà Phật! Cậu nói hay đấy. Nhưng nhỡ mai kia, cậu lại nộp ta cho lính đoan thì sao?
- Bẩm thầy! Nếu con bán nước, sao con phải bán thầy ạ!
Thầy từ nhìn lại chàng trai. Cặp mắt sáng thế, cậu ta không nói dối, không phải người xấu. Thầy tắt nến, giục đi nằm. Út Ly thấy mấy đêm thầy thao thức. Sáng ngày thứ tư, thầy dậy sửa soạn hành lý, giục Út Ly ăn thứ gì, rồi theo thầy vào bản.
Một tháng nương tựa nhà đền, theo thầy từ lặn lội vào bản, ngày gặp bà con hỏi tình hình, tìm hiểu phong tục tập quán, tối về nhà đền ăn nghỉ, Út Ly phát triển, cài cắm được một số cơ sở ở Tĩnh Trường, bám đường cái lớn lên biên giới, bắt liên lạc được với lực lượng Việt Minh phủ Bắc Quang; cùng Đại đội Cứu quốc quân bàn phối hợp chia cắt con đường liên tỉnh, chặn địch hành quân chống phá khi dân ta xuống đường khởi nghĩa.
Bác Thế Khang, anh Thủy Lê, anh Hùng Sơn vừa từ Cao Bằng sang đứng quanh tấm bản đồ, đánh dấu những cơ sở Việt Minh mới được xây dựng. Chợt, bác Thế Khang thở dài lo lắng, nói:
- Đáng lẽ cậu Tiến, theo kế hoạch phải về rồi.
Út Ly bất ngờ xuất hiện, lên tiếng:
- Cháu về rồi đây!
Lần lượt mọi người ôm Út Ly trong vòng tay. Út Ly thấy giọt nước rơi từ má bác Khang xuống vai mình ấm áp. Út Ly bổ sung những cơ sở mới trên bản đồ, báo cáo tóm tắt chuyến công tác cho mọi người nghe. Anh Thủy Lê mở to mắt, nắm tay, nhìn Út Ly, nói:
- Thế mà, cơ sở của ta bên Tĩnh Trường báo, cả cậu Út Ly lẫn cậu Thế đều đã mất tích. Nhưng tôi vẫn hy vọng.
Út Ly cũng tròn mắt nhìn mọi người, hồi hộp nhớ lại, kể:
- Nhờ cái thắt lưng bao của bà Hái, cô Hạnh đổi cái túi dết đứt quai, không thì tôi đã ăn đạn ở ngã tư cửa rừng rồi - Út Ly nhớ lại người phu mỏ đeo túi dết chạy về phía cửa rừng, rồi loạt đạn nổ ở phía đó.
Anh Thủy Lê hạ giọng, nói với Út Ly:
- Cậu tiểu đội phó đẹp trai không ngờ lại là tên phản bội, đã bị bắt rồi.
Anh Thủy Lê quay lại thông báo ngắn gọn:
- Theo kế hoạch đào tạo cán bộ cho cách mạng, đồng chí Hùng Sơn, Tổng bộ Việt Minh vừa cho ý kiến, Ban chỉ huy núi Hùng thống nhất cử đồng chí Bàn Tiến, tức Út Ly theo học lớp cán bộ cốt cán cho châu bộ châu Khánh Thiện. Đồng chí Bàn Tiến về chuẩn bị, tuần sau lên đường.
Út Ly giật mình. Bỗng hình ảnh cô Hạnh ngồi dựa cột hiên hiện về. Út Ly ấp úng báo cáo:
- Báo cáo! Tôi… vừa mới nhập ngũ… mà tôi vẫn làm việc tốt mà.
Bác Thế Khang động viên:
- Cậu làm việc tốt mới được cử đi học, để về làm tốt hơn.
Út Ly đứng bẻ gấu áo một hồi, nhìn bác Thế Khang, thưa:
- Cháu muốn về thăm nhà một ngày trước khi đi?
- Ta đồng ý!… Thủy Lê à! Tôi nhờ anh xuống hậu cần nhận trước tiêu chuẩn đường sữa của tôi gửi cậu Út Ly về biếu ông bố đang ốm, làm quà tết nhá.
- Vâng! Thưa thủ trưởng.
Nghe tin Út Ly đi học, cô Hạnh đâm ra ăn ngủ thất thường, sinh bệnh lòng. Biết tin, bụng Út Ly cũng bồn chồn, kiếm cớ ra hỏi thăm. Vừa thấy Út Ly thập thò ngoài ngõ, Hạnh co chân chạy vào buồng, lên giường đắp chăn. Út Ly đứng giữa nhà đằng hắng, không thấy ai thưa. Lại nghe trong buồng có tiếng động, liều bước vào, sờ tay lên trán người nằm trong chăn, cười bảo:
- Vẫn mát mà. Sao bảo ốm?
- Ai bảo người ta ốm chứ. Thích người ta ốm à?
- Không ốm sao nằm đắp chăn?
- Thích thì đắp thôi!
Út Ly tung chăn, nhìn hai bàn chân còn ướt, tủm tỉm cười:
- Chân này vừa chạy ngoài cầu nước vào, đúng không?
- Ai bảo thế?
- Còn ướt nguyên đấy thây!
- Kệ người ta. Ghét cái đồ…!
Hạnh phụng phịu, tung chăn đi tìm đòn, ra ngồi tựa cột hiên. Út Ly lại đến ngồi chỗ bậu cửa quen thuộc, lên tiếng:
- Đây chuẩn bị về qua nhà, rồi đi học!
- Về nhà lấy vợ đúng không?
- Việt Minh phân công làm gì thì mình làm thôi!
- Cơ quan cho về lấy vợ, thích thế còn gì.
- Bố… mình ở nhà đang ốm.
- Thế mới phải về lấy vợ. Hôm nào lấy, cho đây sang ăn cỗ với nhá!
- Có chịu sang làm dâu thì sang! - Út Ly thấy mình thông minh đột xuất, chớp được thời cơ nửa đùa, nửa thật ngỏ lời.
- Đây làm gì có phước được làm dâu Yên Thái! - Hạnh nói thế, nhưng hai má chưa chi đã đỏ lên.
- Em lấy anh nhé! Nhà anh nghèo lắm! - Út Ly lơ đãng nhìn hai con gà đang giằng co con giun ở góc sân, tai nóng bừng.
Út Ly bước đến trước mặt Hạnh, vụng về nắm chặt hai bàn tay. Hai giọt nước lăn xuống má. Không biết chàng trai thấy tủi phận nghèo, yêu người ta lại thương người ta khổ, không dám nói? Út Ly biết, cô gái nào lấy mình sẽ khổ suốt đời. Chả nhẽ, hai giọt nước ấy nuối tiếc phải dứt bỏ tình cảm với Hoa, con gái thầy Thân. Út Ly nhiều đêm suy nghĩ, Hoa từ bé chưa biết khổ là gì. Lấy mình, sợ Hoa không chịu nổi vất vả. Út Ly chọn Hạnh, cô gái mồ côi cha sẽ hợp với hoàn cảnh nhà mình. Út Ly im lặng, giữ tay Hạnh hồi lâu. Mắt Hạnh long lanh. Hai giọt nước rơi xuống tay Út Ly. Hai đứa xuống bếp, đứng ôm nhau thổn thức. Út Ly thì thầm:
- Mẹ Hái có bằng lòng gả chồng xa không?
- Anh phải hỏi ông Bưởng! - Hạnh thật thà.
Từ nhỏ, chị em Hạnh coi ông Bưởng như người cha kính yêu. Ông cũng không coi mẹ con Hạnh là kẻ ăn, người ở, vẫn coi như người một nhà. Sự đùm bọc cưu mang của ông bác họ, tình thương của cả nhà ông Bưởng dành cho mẹ con Hạnh, Hạnh cho rằng, ông có quyền định đoạt hạnh phúc của mình.
Chân ướt chân ráo đi học về, lại được cấp trên đưa về châu Khánh Thiện, Bàn Tiến lập tức tìm gặp anh Thể, Lý Thị Hòa, Bàn Thái Tâm. Bấy lâu không có tin tức về nhau, ai cũng nghĩ, Út Ly đã bị mất tích. Gặp lại nhau tay bắt mặt mừng, Út Ly kể chuyện đã cùng anh Thế trốn đi theo Việt Minh. Rồi chuyến đi xây dựng cơ sở bên Tĩnh Trường, hai lần bị địch phục kích. Hối hận vì bác phu mỏ trên bản Ty bị đuổi bắt. Súng nổ, không biết bác có bị sao không! Lại anh Thế, tổng Tân Thái bị Tây đoan phục bắt.
Lý Thị Hòa kể, nhóm công khai của Hà Triêu Nghĩa giờ hoạt động rất tốt, rất nhiều người hưởng ứng tham gia. Chị Mơ đã xây dựng gia đình, lấy chồng trên xứ Nà. Hai người quen nhau từ hát páo dung. Hà Triêu Nghĩa cũng đã lọt vào mắt cô Mận kiêu sa. Cái Hoa giờ càng lớn càng xinh, má trắng hồng, môi lúc nào cũng đỏ tươi, miệng cười má lúm đồng tiền, lọt vào tầm ngắm của xạ thủ khắp nơi. Nhà Hoa được ông trời phú, ai cũng có giọng hát hay, kể cả ông Thân thầy cúng. Thái Tâm kể, cậu Ót, cậu Hóa đã tham gia Việt Minh. Các xã trong tổng, giờ an ninh trật tự rất tốt. Đêm nào cũng có tuần tra canh gác.
Nghĩ tới nhiệm vụ trước mắt, Bàn Tiến sốt ruột, muốn bàn ngay công việc. Tiến nhớ lại tình hình, nhiệm vụ mà anh Hồng Sơn, cùng bác Thế Khang giao cho lúc chia tay, thông báo với mọi người, tình hình hiện nay rất gấp rồi. Các nơi đang ráo riết chuẩn bị lực lượng. Trên giao nhiệm vụ, Yên Thái phải có một đội du kích vũ trang, phối hợp chiến đấu cùng Cứu quốc quân khi có thời cơ khởi nghĩa. Nhóm hoạt động công khai của Hà Triêu Nghĩa cần nhanh chóng thu hút lực lượng càng đông càng tốt, không kể thành phần, cốt có tinh thần độc lập, ủng hộ Việt Minh đánh Pháp, đuổi Nhật. Theo chỉ đạo của Trung ương mặt trận Việt Minh, các nơi lập ra các tổ chức nông hội đỏ, phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, hội chữ thập đỏ để tập hợp, đoàn kết rộng rãi mọi người, khi có thời cơ, tất cả xuống đường đi cướp chính quyền.
Mọi người phân công: Anh Thể vận động thành lập Nông hội đỏ, Thái Tâm, Hội thanh niên cứu quốc, Lý Thị Hòa, phụ nữ cứu quốc; Bàn Tiến được chỉ định chánh thư ký Việt Minh, trực tiếp vận động thành lập, huấn luyện Đội du kích vũ trang Yên Thái. Tất cả đều bắt tay ngay vào việc. Sau lễ hội rằm tháng Giêng, qua tết Ất Dậu, mọi thứ đã phải sẵn sàng, chờ thời cơ xuống đường khởi nghĩa.
Bệnh của ông Thăng càng ngày càng đi lại khó khăn. Chân tay ngày một yếu dần. Chị em Út Ly thương bố, nhưng bệnh của bố đâu phải bó củi mà chia ra mỗi người một khúc. Một hôm, Út Ly nói với anh Định, chị Giao:
- Em phải lấy vợ thôi!
- Em đừng làm khổ bố nữa đi! - Chị Giao thương bố, nghe em nói, chảy nước mắt.
- Là em thương bố, thông cảm với anh chị thôi! Anh chị cũng phải lo lập gia đình đi. Không ở vậy với bố mãi được đâu. Em lấy vợ để nó trông nom bố thôi.
- Để anh nói với bố cho! - Anh Định thương bố, thương em, buồn vì mình yếu đuối không giúp được ai việc gì to tát, nên đồng tình với Út Ly.
Anh Thể được bố nhờ sang bàn chuyện đi hỏi vợ cho Út Ly. Anh nhận lời đưa Út Ly sang núi Hùng gặp nhà gái.
Con trai người Dao thường lấy vợ sớm. Tục lệ, có ông mối hai bên đứng ra mối mai. Cưới xin của người Dao có hình thức: Đám cưới nhỏ, đám cưới lớn. Đám cưới nhỏ được tổ chức khi nhà trai khó khăn, không lo đủ bạc trắng cưới dâu, được người mai mối hai nhà thỏa thuận, thì nhà trai chỉ cần sắm lễ đón dâu về trước, cho vợ chồng ăn ở sinh con. Khi nào lo đủ bạc trắng, rượu, thịt thì làm đám cưới lớn. Đám cưới lớn sau này, lễ thường quy ra bạc trắng, lại nhờ người mai mối đưa sang. Hai bên không tổ chức ăn uống linh đình.
Một sớm mùa hè, hai con chòe choẹt bay về đậu trên cây bưởi trước cổng, thi nhau hót. Ông Bưởng đã thắt bao dao đi ra cổng, thấy chòe choẹt vào tận sân hót, lại quay về.
Quá trưa, con chó mực sủa óc ách, cúp đuôi chạy ra chạy vào. Ông Bưởng linh tính bỏ dở điếu thuốc đi ra.
Hai người đàn ông vào cổng, nhễ nhại mồ hôi. Hạnh nhận ra người đi sau, vội chạy vào bếp, hai tay bo ngực. Ông Bưởng nghe khách lên tiếng mới nhận ra, anh chàng gầy gò, đen nhẻm đi sau là chàng trai Yên Thái.
Út Ly loay hoay đặt bu gà trước hè, khoanh tay chào ông Bưởng. Người trong nhà tò mò nhìn qua cửa sổ, nhìn đôi gà trong lồng, lại đưa mắt nhìn nhau bàn tán. Út Ly giới thiệu anh Thể với ông Bưởng và mọi người. Chủ, khách niềm nở dắt nhau lên nhà. Ông Bưởng lúc này mới lên tiếng:
- Bác với cậu từ Yên Thái sang?
- Dạ! Báo cáo ông. Ông cháu bên nhà cho đưa cậu Út Ly sang đây, trước để thăm sức khỏe ông bà và gia đình, sau có câu chuyện muốn thưa ạ!
- Vậy, bác là…? Cái Hạnh đâu, lấy chậu nước lên đi! Hai anh em đi nắng, chắc còn mệt, ra rửa mặt mũi chân tay đi đã, cho mát. Cậu Út Ly hồi này đen mà gầy đi nhiều đấy. Ông nhà với các bác bên nhà khỏe không?
Ông Bưởng vui ra mặt, hỏi không cho ai kịp trả lời. Hạnh ở trong bếp ngó trộm ra, bụng xốn xang, xót xa thấy Út Ly hồi này đã đen, lại gầy đi nhiều quá. Hẳn Út Ly về bên ấy vừa phải chăm sóc bố, còn ruộng nương, công việc đoàn thể. Các anh, các chú bên này, hồi này cũng không mấy khi có thời gian ra chơi. Luyện tập võ trang mùa hè, anh nào anh ấy gầy đen như củ nâu.
Buổi chiều, ông Bưởng gọi bà Hái lên bảo, tối nay mời ông trưởng bản, cả bác Thế Khang, chú Thủy Lê ra dùng cơm. Họ sang chạm ngõ cái Hạnh đấy. Ta mời ông trưởng họ đến bàn luôn. Bà Hái mặt tươi như hoa, cám ơn ông, lúc lại lấy tay áo chùi khóe mắt.
Mâm khách được đặt giữa nhà. Phụ nữ, trẻ con quây quần dưới bếp. Ông Bưởng vui vẻ giới thiệu từng người, rồi nói:
- Cơm nước xong, bà Hái muốn mời ông trưởng họ, bác Thế Khang, cùng các chú lui lại uống nước, gia đình muốn nhờ bàn câu chuyện!
- Tôi nghĩ thế này! - Bác Khang đỡ lời - Cánh tôi nhà quân sự. Ông thông cảm, cứ thật cái bụng nói thôi. Mà nước mình sắp dân chủ đến nơi rồi. Ta cứ vừa ăn cơm, vừa bàn đi. Chuyện hôm nay ai cũng biết cả rồi, phải không ông trưởng họ? Phải không các chú? Tẹo nữa mời bà Hái lên nói chuyện luôn được mà. Tiết kiệm thời gian. Cánh tôi tối về còn phải điểm danh buổi tối…!
Ông Bưởng thấy bác Thế Khang nói phải, nhưng tục lệ phải theo, quay ra hỏi ý kiến ông trưởng họ:
- Ý ông trưởng họ thế nào?
- Nhập gia tùy tục thôi. Phép vua thua lệ làng! Miễn sao được việc cho hai nhà. Bác Thể từ mãi bên kia sang,… Ta cũng phải hỏi bà Hái một câu. Giá thử ông ấy còn… đã đành!
Bà Hái nghe nhắc đến tên, vội từ dưới nhà chạy lên, vui vẻ chắp tay thưa:
- Tôi không biết nói gì đâu. Đây có ông Bưởng là ân nhân cứu sinh của mẹ con tôi. Giờ tôi lại nhờ ông cưới vợ, gả chồng cho chúng nó. Xin các ông, các bác thông cảm thì bàn giúp mẹ con tôi ạ!
Câu chuyện thật ấm áp, thông cảm lẫn nhau. Cả mâm nhâm nhi chưa hết vò rượu, chuyện dạm ngõ, xem ngày như đã đâu vào đấy. Ông Bưởng tóm tắt vấn đề, viện ra phong tục tập quán người Dao, nào là tục lệ hai tổng có cái khác, đặc biệt là, hoàn cảnh hai nhà thông gia chung con chung cháu sau này. Rồi ông đưa vò, bảo Út Ly rót ra mỗi người một chén rượu đầy. Mọi người cùng nâng chén. Ông vui vẻ, dứt khoát lên tiếng:
- Bác Thể nhé. Bác thay mặt thông gia sang, nghe cho rõ nhé: Một tạ lợn, tạ gạo nếp, tạ gạo tẻ, năm chục vò rượu, ba chục đồng bạc trắng. Ngày này tháng sau dẫn lễ đón dâu về. Nhà gái sẽ bố trí chỗ ăn nghỉ cho đoàn qua đêm. Được chưa?
Ông Bưởng cạn chén trước, úp chén trên lòng bàn tay, ra điều dứt khoát, đưa mắt lần lượt nhìn từng người, giục cạn chén. Mắt ông hấp háy, như đang úp mở điều gì. Cả nhà đưa mắt nhìn nhau. Mặt anh Thể trắng dần. Anh chưa kịp đặt chén lên môi, lại đặt xuống, ngồi thừ ra, im lặng. Út Ly hiểu ý, đặt chén lên tay anh Thể, ra hiệu cạn chén. Út Hạnh dưới bếp tò mò, nín thở ngồi nghe, mặt cũng biến sắc. Ông Bưởng không để ý đến ai, vui vẻ nói to cho cả nhà nghe:
- Tôi gửi ông mối nhà trai cái này - Ông đưa ra một tờ giấy đỏ, gấp làm tư, dán kín - Theo tục lệ người Dao núi Hùng, giấy này ghi giờ nhà trai nhập ngõ, cửa đón dâu ra, do thầy định ngày bên nhà gái cho rồi. Nhờ ông mối đưa cho thông gia. Trước ngày dẫn lễ, nhà trai mới được mở ra xem đấy!
Sớm hôm sau, anh Thể dậy sớm, giục Út Ly, chào mọi người, tranh thủ ra về. Nhớ lời thách cưới của ông Bưởng, hai chân bước đi nặng như buộc đá. Dưới bếp, Út Ly, cô Hạnh bịn rịn nắm tay nhau, không ai chịu buông ai ra. Bốn con mắt nhìn nhau nhòe dần. Bà Hái ái ngại nhìn nhà trai nặng nề bước ra cổng, lại nhìn con, nhìn ông Bưởng, miệng đắng như cắn quả bồ hòn.
Đường về, anh Thể để ý nhìn Út Ly, bụng nghĩ sao nói vậy:
- Đúng như các cụ bảo: “Người khôn thường giấu nhời trong bụng!”. “Cái gai nhọn, nhọn từ lúc còn non!”. Lại nhớ câu các cụ ngày xưa: “Chim khôn tiếng hót rảnh rang, người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe!”, ta chịu cậu chọn vợ rồi!
- Cái Hạnh có được không anh?
- Mảnh mai, duyên dáng, dịu dàng, lam làm chịu khó. Các cụ nói: “Khô chân, gân mặt đắt tiền cũng mua”. Chú còn định kén vợ đến đâu nữa?
- Tiêu chuẩn đầu tiên của em là, đứa nào dám lấy em, con nhà nghèo thôi. Em cũng thương cô ấy nhà nghèo như em!
- Cậu thấy ông Bưởng thế nào?
- Ông ấy tốt bụng, lành hiền, thẳng thắn, đã nói thì như đinh đóng cột!
- Ta hỏi ý khác cơ!
- Đắt xắt ra miếng mà anh! - Út Ly đoán bụng anh băn khoăn chuyện lễ cưới.
- Ta cũng nghĩ thế - Thực ra, anh Thể băn khoăn chuyện khác.
- Em nhất định phải lấy cái Hạnh, anh ạ! Anh phải giúp em.
Út Ly tuy không nói ra, nhưng anh Thể hiểu, cậu này không muốn để ai dám coi thường bố mình.
Khách ra về, ông Bưởng nhìn mẹ con bà Hái, lại thương hại nhìn mặt cái Hạnh đang rầu rĩ nặng ra, mới tủm tỉm cười, bảo:
- Tối hôm qua, ta thách nhà trai thế là để xem, thằng Út Ly có thật lòng tha thiết lấy con Hạnh nhà ta không thôi. Còn trong tờ giấy gửi cho thông gia, ông thầy chọn giờ nhập ngõ ghi rồi. Lễ cưới có đôi lợn năm chục cân, quy ra thành tiền thôi. Ai lại đi bắt tội người ta gánh ngần ấy thứ, đi ngần ấy đường sang đây! Lợn nhà gái trong chuồng có rồi mà.
Mẹ con bà Hái giờ nghe ra, vỡ nhẽ, vừa cười vừa lau nước mắt.
Đám cưới bên nhà gái được tổ chức thật vui, cũng thật nhiều nước mắt. Vợ chồng ông Bưởng cho mổ hai con lợn nhà nuôi để ăn mừng. Tiền lễ đôi lợn nhà trai đem sang, ông một mực nói thật to, khóc cũng rất to, trao cho Hạnh đem theo làm vốn, làm của hồi môn. Trước mắt ông hiện ra con bé mồ côi cha, lành hiền nết na, chịu thương chịu khó, trải qua mười tám mùa đông đói rét, rách mướt, nay đã có người thương. Ông nói, con gái ông xứng đáng được hưởng nhiều hơn thế. Lời ông nghẹn ngào trước lúc đón dâu khiến không chỉ Hạnh, mà còn khiến bao nhiêu người rơi nước mắt.
Nhưng điều làm cho trái tim Út Ly, trái tim Bàn Thái Tâm, người trong đoàn gánh lễ hôm ấy vỡ òa, bởi vẻ đẹp lộng lẫy của cô phù dâu Lý Thị Hòa. Không chỉ con gái các làng, mà các cô gái Dao Tiền sinh ra, ai cũng mong một lần được làm phù dâu. Người phù dâu cùng chia sẻ, tiếp khách bạn bè của cô dâu, chú rể trong suốt những ngày đám cưới. Các cô không chỉ có dịp phô diễn vẻ đẹp mà cha mẹ ban cho với các chàng trai bạn của cô dâu, chú rể, mà còn có dịp khoe đôi bàn tay khéo léo của mình đã tự nấu bông, kéo sợi, dệt vải, tự tay may nên bộ áo váy, với những hoa thêu khéo léo, đủ màu ngũ sắc, với bộ trang sức bằng bạc chế tác tinh vi, sang trọng, lộng lẫy.
Nhưng người lộng lẫy nhất đám cưới hôm ấy lại là cô dâu. Khuôn mặt tròn trịa như vầng trăng, đôi mắt long lanh như đôi mắt thiên nga trên dải ngân hà. Sự lộng lẫy không chỉ thể hiện trên bộ trang phục tấm áo tứ thân, đôi xà cạp, dây lưng, khăn vấn, khăn đội đầu đều được thêu những hoa văn khéo léo, mà còn trên những chiếc vòng bạc đeo trên cổ, những chiếc cúc bạc, bộ xà tích được chế tác khéo tay, với những hoa văn tinh tế. Thì ra, người Dao đeo tiền được gọi thành tên, bởi trang phục của các cô gái, từ chiếc cúc áo, bộ xà tích mang trên người đều được chế tác từ những đồng tiền bạc.
Lại kể bộ trang sức bằng bạc của cô dâu hôm ấy. Ngày ông Thăng nhìn Út Ly xách đôi gà theo anh Thể sang núi Hùng, quay vào với cái điếu cày, ngồi tấm tức một mình. Ông nhớ bà Mía đến nao lòng. Ngày thằng Út Ly đi hỏi vợ, mà bà cũng bỏ đi! Ông khóc cho phận ông nghèo. Con trai nay mai đi lấy vợ, ông vay mượn đâu được vài ba chục lượng bạc trắng làm của hồi môn cho con đây. Bất giác ông vào buồng, lục tìm cái tay nải của bà Mía ngày xưa bọc bộ đồ áo cưới, cất ở đâu đó. Ông đã tìm thấy nó trong đống quần áo rách, lâu ngày không ai để ý. Ông ôm chiếc áo cưới của bà trước ngực, mắt lại mờ dần. Nghẹn ngào mở ra, nước mắt ông chảy tràn khi thấy những chiếc vòng bạc, bộ đồ trang sức, ngày xưa ông nội đã sắm cho vợ ông làm đồ xin dâu. Bấy nhiêu năm đau ốm, bà ấy vẫn cất kỹ, giấu chồng, giấu con, chỉ sợ bố con ông đem bán lấy tiền chạy thuốc cho bà. Giờ nó lại thành kỷ vật thiêng liêng bà dành cho vợ thằng Út Ly. Ông giấu kín cả nhà, đưa cho bà mối đem đi làm đồ cưới trao cho con dâu tại nhà gái.
Đám cưới kể cả bên nhà gái, nhà trai không ăn uống linh đình, nhưng lại được anh Thể cùng Hà Triêu Nghĩa, đám trẻ chăn trâu ngày xưa tổ chức thật vui. Ba đêm văn nghệ giao lưu nam nữ mấy bản, cùng hát páo dung, hát cọi, hát then. Người già, người trẻ kéo đến đông như hội. Lý Thị Hòa, Bàn Thái Tâm kết hợp tuyên truyền, bí mật ghi tên được gần chục thanh niên tham gia đội du kích.
Đón dâu vừa về hôm trước, hôm sau, ông Thăng giục con trai đưa vợ, xách đôi gà, chai rượu sang thăm thầy Thân, lại gặp vợ chồng Hà Triêu Nghĩa cũng ở đó. Đám con gái kéo nhau xuống bếp thổi cơm, chuyện trò vui vẻ. Thầy Thân thấy Út Ly hồi này rắn rỏi, thầy cũng vui lây, vì có thêm thằng con, cậu học trò tử tế.
Đám cưới của Út Ly đến tai ông chánh tổng, ông lồng lên gọi Hà Triêu Quản cùng đám tai mắt đến nhà, chửi bới:
- Đồ phản phúc. Ta nuôi các người làm con chó giữ nhà, mà để thằng nhãi ranh phiến loạn về cưới vợ ngay trước mũi mà không hay biết!
Chánh tổng ra lệnh phạt lương, còn sai lính đánh mỗi người mười gậy, ra điều kiện lùng bắt tên cầm đầu Việt Minh này càng sớm càng tốt.
Công việc huấn luyện đang vào thời điểm gấp rút, bỗng một chiều giáp tết, Bàn Tiến vừa huấn luyện đội du kích sử dụng vũ khí ở trên núi về, thấy Tây đoan, lính dõng lố nhố quanh nhà. Bố và anh Định bị bọn chúng trói vào cột, nhét giẻ vào mồm. Bọn lính hò hét đuổi bắt Bàn Tiến, giải đi trước mặt bà con dân bản. Tiến khảng khái bước đi, nhìn bố, nhìn dân bản, nói:
- Con không làm gì sai cả. Bố với bà con cứ yên tâm. Con sẽ lại về thôi!
Tuy Bàn Tiến khảng khái nói với mọi người, nhưng nhìn anh Định, cùng người cha đau ốm bị bọn hương dõng đối xử tàn bạo như kẻ thù, bụng thương cha bao nhiêu, căm hờn đầy lên cổ bấy nhiêu. Hạnh cùng chị Giao lên nương, chạy về không kịp, nhìn cảnh cha bị trói, hai chị em kêu trời, gào thét. Ông Thăng đau lòng nhìn con dâu bụng to như cái rá úp, sắp đến ngày sinh cũng nấc trong cổ.
Bàn Tiến được đưa đến giam ở nhà tù Yên Mục, bất ngờ gặp lại anh Thế, nghe anh kể chuyện bị lính tập kích bắt ở Tĩnh Trường khi anh vừa đặt chân đến địa điểm liên lạc. Nhà tù Yên Mục giam giữ gần hai chục tù nhân. Bọn Pháp gọi là tù chính trị. Qua câu chuyện với các tù nhân, Bàn Tiến suy nghĩ, bọn Pháp chơi trò bắt nhầm hơn bỏ sót, lùng bắt người qua lời khai của những tên phản bội, cơ hội, hèn nhát. Bởi vậy, những ai không chịu được đòn roi, nhục hình tra tấn, khai lời thú tội, bọn địch mới có cớ bắt đi tù ở nhà lao. Ngày ấy, bọn thực dân Pháp ở Đông Dương đang mất ăn mất ngủ đối phó với mối lo đảo chính của người Nhật, còn đâu thời gian nghĩ đến đi bắt Việt Minh. Nhận định thế, Bàn Tiến động viên các tù nhân, kiên quyết phản cung, không khai báo.
Bàn Tiến một mực kêu oan, khai thường vắng nhà vì giúp bà con đi làm thầy cúng. Thực dân Pháp đến Đông Dương, lợi dụng tín ngưỡng của đồng bào, tìm cách mua chuộc các thầy cúng. Bởi thế, Bàn Tiến chỉ bị giam lỏng. Nhân một chuyến bị ép buộc đi cúng mát nhà cho tên cai ngục mong được thăng quan tiến chức. Trên đường về đã thừa cơ chạy trốn, tiếp tục lên núi hoạt động. Mấy lần, bọn cai ngục cho lính về làng vây bắt, nhưng nhờ bà con che chở, Bàn Tiến chạy thoát lên núi.