G
eorge đang đợi anh trong chiếc Mercedes M của ông ta. Một chiếc hộp dài hình chữ nhật bọc giấy màu đỏ sáng in hình kì lân màu trắng đặt trên ghế.
“Hộp gì vậy?” Gibson hỏi.
“Không phải cho cậu.”
“Ông làm tôi tổn thương đấy.”
George bật cười và đặt món quà ra ghế sau rồi đưa Gibson một chiếc áo khoác thể thao.
“Mặc vào đi. Chúng ta có hẹn.”
“Chúc may mắn.” Jenn nói.
“Cô không đi hả?”
Cô lắc đầu. “Gặp lại anh ở văn phòng.”
Chiếc xe ra khỏi bãi đỗ sang trọng. Gibson chưa bao giờ ngồi trong một chiếc xe đẹp như thế và dễ thấy được sức hút của nó. Anh có khi rất thích được tắc đường.
“Thế nào?” Gibson nói.
“Cậu đã đúng.”
“Hắn ở đâu?”
“Vào chiều thứ Sáu, con virus của cậu đã gửi tín hiệu về từ một địa chỉ IP ở phía tây Pennsylvania. Một thị trấn nhỏ tên là Somerset.”
“Sao không ai gọi cho tôi?”
“Nháy một cái rồi thôi.”
“Thôi?” Không thể thế được. Nhiều giả thiết xuất hiện trong đầu anh.
“Vậy tôi đúng về chuyện gì?”
“Đó là một thư viện công cộng.”
Gibson nghĩ lại. Có lí. Rất nhiều người đến và đi. Rất thông minh và phủ thêm một tầng ẩn danh khó mà phát hiện được. Họ sẽ phải theo dõi thư viện đó với hi vọng có thể xác định được WR8TH nếu hắn cố gắng xâm nhập các máy chủ của ACG lần nữa.
Ở vòng xuyến Washington, họ đi từ New Hampshire tới đường Hai Mươi Hai, rồi rẽ trái vào đường P, và đến Georgetown. Các tòa nhà cao tầng nhường chỗ cho những căn nhà gạch rồi những biệt thự bao quanh bởi những cây du và sồi cao vút.
Duke Vaughn đã mô tả Georgetown là vùng đất của những những kẻ lắm tiền và quyền lực. Cha anh đã tham dự từ bốn đến năm sự kiện liên quan tới công việc ở đây mỗi năm, nhưng không bao giờ mang con trai theo cùng. Không phải tiệc tùng vui vẻ đâu, ông từng giải thích. Mà là lãnh địa thù địch.
Ngay cả khi họ về phe ta ư? Gibson hỏi cha.
Nhất là khi họ về phe ta, cha anh trả lời và nháy mắt. “Tôi được đi cùng chứ?”
“Tôi muốn cậu hiểu tình hình.” Abe nói. “Cho tới giờ, cậu là người rất quan trọng và tôi nghĩ kĩ năng của cậu sẽ có ích. Cộng thêm cả quan hệ của cậu với Suzanne nữa.”
“Vậy là ông đồng ý?”
“Còn tùy.”
“Vào chuyện gì?”
“Bà Dauplaise muốn gặp cậu.”
Gibson gật đầu và nhìn Abe. Anh đã được nữ hoàng triệu kiến. Ít ra thì cảm giác là như thế.
“Tôi nghĩ cậu có thể giúp chúng tôi và tôi đã nói với bà ấy như thế. Nhưng bà Dauplaise muốn tự mình quyết định.”
George dừng lại trước một cánh cửa sắt chạm trổ. Một tấm biển kim loại màu đen với những chữ cái vàng ghi “Colline”. Chùm bóng bay sáng màu lơ lửng trên một trong những mái nhọn và một hàng những gia đình đang đứng đợi để được hai người bảo vệ kiểm tra an ninh. Đàn ông mặc vest còn phụ nữ mặc váy. Trẻ con cũng ăn mặc sang trọng và đều mang quà. Nếu thiên đường là do Laura Ashley và Ralph Lauren39 tài trợ, thì trông nó sẽ thế này.
39. Hai nhà thiết kế thời trang.
Một người bảo vệ tách ra và đi về phía chiếc xe..
“Ông sẽ phải kiếm chỗ đậu ngoài đường…” Người bảo vệ ngừng lại khi nhận ra tài xế. “A, xin chào, ngài Abe. Ngài tới đây dự tiệc à?”
“Không, Tony. Để gặp bà Dauplaise.”
“Vâng, tất nhiên rồi, mời vào. Nhưng ngài hãy đậu xe trước ga ra thay vì chỗ mọi khi. Tôi sẽ nói qua bộ đàm để họ biết. Hôm nay hơi đông.”
“Cảm ơn.”
Họ lái xe lên lối lát sỏi về phía căn biệt thự bao quanh bởi khu vườn được chăm sóc tỉ mỉ. Quy mô của tòa nhà làm Gibson sửng sốt. Anh đếm được ít nhất mười bảy ống khói. Đó là một khu nhà thuộc về miền quê nước Anh, chứ không phải giữa một thành phố Mỹ. Một người bảo vệ nữa hướng dẫn họ rời lối vào chính và Abe đỗ xe cạnh một ga ra hai tầng lớn hơn cả căn nhà của Nicole. Bảy lối vào với những cánh cửa kéo màu trắng chạy dọc tòa nhà màu đỏ gạch. Khung cửa ở giữa mở - bên trong là một chiếc Bentley cổ màu xanh lá cây tao nhã.
Abe thấy anh ngưỡng mộ chiếc xe. “Chiếc đó đời 1952, thuộc về ông của bà Dauplaise. Ông ấy là đại sứ Pháp dưới thời Tổng thống Roosevelt. Thời Theodore, không phải thời Franklin40.”
40 Trong lịch sử nước Mỹ, có hai tổng thống cùng có họ là Roosevelt. Một người tên là Theodore, còn một người tên là Franklin.
“Ông ấy cũng sống ở đây sao?”
“Nhà Dauplaise đã sống ở đây từ những năm 1820. Không có nhiều gia đình lâu đời hơn họ trong thành phố này. Căn nhà chính được thiết kế bởi Charles Bulfinch và Alexandre Dauplaise sau Chiến tranh 1812.”
“‘Colline’ có nghĩa là gì?” Gibson hỏi.
“‘Ngọn đồi nhỏ’. Đó là tên vợ Alexandre đặt cho căn nhà khi tới đây từ Pháp. Tất nhiên, bà Dauplaise có thể nói thêm với cậu. Bà ấy là bách khoa thư sống về lịch sử gia đình.”
“Còn ai khác sống ở đây?”
“Hiện giờ, chỉ có bà ấy và cô cháu gái. Buổi tiệc là sinh nhật của Catherine.”
“Hai người? Thế thôi à?”
“Bà Dauplaise có một cậu con trai từ cuộc hôn nhân trước đó. Cậu ta sống ở Florida. Không thường tới thăm. Bà ấy cũng còn hai người em gái. Một người sống ở San Francisco.
Người kia là hiệu trưởng trường y thuộc Đại học Pittsburgh.
Em gái út của bà ấy qua đời khi sinh nở: mẹ của cô cháu gái. Calista đã nhận nuôi Catherine. Ngoài ra có khoảng vài trăm người họ hàng mà tôi không biết hết.”
Họ bước về phía căn nhà. Abe đứng lại và quay sang Gibson. Ông ta đang định nói gì đó.
“Calista… Bà Dauplaise là một người tốt.”
“Nhưng…?”
“Bà ấy khó tính. Bà ấy không thích bị phản đối. Bà ấy là người quen ra lệnh, anh hiểu chứ?”
“Ông cần tôi làm gì?”
“Hãy nói cho bà ấy nghe. Nếu anh muốn công việc này.” Gibson muốn công việc này. Anh cần phải tới Somerset, Pennsylvania. Rất cần. Anh sợ điều họ có thể tìm ra ở đó, nhưng anh phải biết. Nếu Calista muốn anh nhảy, anh sẽ nhảy. Nghề của cha anh là đối phó với những người có địa vị. Chắc anh cũng được thừa hưởng chút ít.
Vào lúc họ đi vòng quanh căn nhà, âm nhạc và những tiếng hét thích thú của trẻ con chào đón họ. Đó là một cảnh tượng khá ngoạn mục. Anh nghĩ phải có hơn ba trăm người trên bãi cỏ bao quanh lan can. Phía dưới, một ban nhạc jazz đang chơi dưới một trong mấy cái lều trắng. Có một sân khấu bằng gỗ, nơi cả chục cặp đôi đang nhảy. Những chú hề và ảo thuật gia đang trình diễn cho đám trẻ.
Anh nghĩ về buổi tiệc sinh nhật mà Ellie sẽ dự chiều nay.
Anh hi vọng ở đó có một chú hề. Ellie sẽ rất thích chú hề. “Đứa trẻ này bao nhiêu tuổi?” Gibson hỏi.
“Tám.”
“Tám?” Anh nói, đầy ngờ vực. “Họ tới đây vì một đứa trẻ tám tuổi sao?”
“Vớ vẩn. Họ ở đây vì bà Dauplaise.” “Phải. Cha tôi có bao giờ tới đây không?”
“Dĩ nhiên.” Abe nói. “Ông ấy khá thân với bà Dauplaise. Ta không thể tiến xa ở Washington nếu bỏ qua những lời mời từ Calista Dauplaise.”
“Làm sao bà ấy lại liên quan tới Lombard?”
“Anh nói ngược. Calista Dauplaise đã phát hiện ra Benjamin Lombard. Tạo ra ông ta thì đúng hơn. Ông ta đang héo úa ở Đại Hội đồng Virginia lúc họ gặp nhau. Bà ấy đã lôi ông ta ra từ chỗ vô danh, đào tạo ông ta, giúp ông ta có những mối quan hệ cần thiết và tài trợ cho ông ta chạy đua vào Thượng viện Hoa Kỳ.”
“Bà ta thật hào phóng.”
“Có vua thì sẽ có người tạo ra vua. Dù cái lịch sử dân túy kia có nói gì thì chẳng có cái nào tồn tại một mình.”
“Vậy bà ấy hẳn phải vinh quang lắm nếu ông ta được bầu làm tổng thống vào tháng Mười một.”
“Bà ấy và phó tổng thống không còn quan hệ tốt nữa.”
Họ theo một cầu thang bằng đá lên hành lang. Nó xem ra là khu vực không có trẻ con. Có hai mươi tư cái bàn che ô. Mọi người đi xung quanh, ăn uống và trò chuyện. Bồi bàn đeo nơ ở cổ liên tục rót rượu và phục vụ món ăn nhẹ. Gibson đã đói và anh lấy một miếng bánh mì ăn kèm bò thăn và cải ngựa. Abe dẫn anh vào giữa hành lang, nơi có một cái bàn to và đẹp hơn, hơi cách những cái khác hướng ra bãi cỏ.
Abe ra hiệu cho Gibson đợi và lại gần một người phụ nữ khoảng hơn sáu mươi, nhưng nhờ vào đặc ân của tiền bạc mà đã kéo dài được tuổi trung niên của mình. Gibson biết ngay đó là Calista Dauplaise. Không phải bởi sự kiêu ngạo của bà ta. Còn hơn thế. Đó là sự chắc chắn - rằng cả thế giới đều theo ý mình. Nó khiến bà ta trở nên thanh cao, làm lu mờ những người khác. Mái tóc ngắn màu vàng ôm lấy khuôn cằm rõ ràng đã được một bác sĩ thẩm mĩ giỏi nhúng tay. Bà ta mặc đồ trắng có viền vàng và không đeo trang sức gì cả. Abe cúi người xuống thì thầm vào tai bà ta. Bà ta liếc về phía anh. Ánh mắt sắc như dao.
“Thưa các vị, tôi xin lỗi. Cho tôi xin phép nhé?” Bà ta nói. Gibson tưởng bà ta sẽ đứng lên nhưng hóa ra những người kia mới là người thu dọn ví, đồ uống để đi. Một người phụ nữ tóc bạc khoảng năm mươi tuổi, nghiêng người và thì thầm vào tai Calista, trong khi liếc nhìn Gibson. Calista đồng tình gì đó và người phụ nữ kia hài lòng hòa vào đám đông.
Abe vẫy anh lại. “Calista, đây là Gibson Vaughn.”
Bà ta mỉm cười và chìa tay ra cho anh bắt.
“Mời ngồi.” Bà nói. “Anh thì khỏi, George. Đi lấy gì uống đi. Chúng tôi sẽ nhanh thôi.”
Abe cáo lui, nhưng trao đổi ánh mắt với Gibson trước khi rời đi. Thông điệp rõ ràng là cố đừng làm hỏng chuyện.
“Rất vui được gặp lại cậu, Gibson. Cậu còn nhớ tôi không?” “Có chứ. Rất vui được gặp lại bà.”
“Tôi không làm phiền cậu làm việc đấy chứ?”
“Không.”
“Vậy là cậu không có mặt ở đó vào thời điểm trọng đại?”
Nghe như một lời cáo buộc. Anh cắn một miếng thăn bò để khỏi phải trả lời.
“Dẫu sao, cảm ơn cậu vì đã tới gấp như vậy. Tôi xin lỗi vì sự lộn xộn này.” Bà ta nói, chỉ tay về phía bãi cỏ. “Tôi nghĩ hôm khác thì sẽ dễ hơn nhưng George cảm thấy chúng ta cần hành động gấp và tôi muốn nói chuyện trước.”
“Một bữa tiệc thật hoành tráng.” Anh nói.
“Phải. Hôm nay cũng thật đẹp trời. Tôi tiếc vì đã hủy màn biểu diễn máy bay.”
“Biểu diễn máy bay?”
“Phải, bên Hải quân có một nhóm máy bay phản lực trình diễn rất tuyệt.”
“Những thiên thần xanh41?”
41 Nguyên văn “Blue Angels”: đội máy bay trình diễn chuyên dụng của Hải quân Hoa Kỳ.
“Như nhau cả.” Bà nói.
Gibson giật mình khi biết người phụ nữ này đặt Những thiên thần xanh cho một bữa tiệc của một đứa trẻ tám tuổi.
“Tất nhiên, tôi cũng thấy vui. Cậu có dễ bị lừa không, Vaughn?”
“Không, thường thì không.” Nhưng có gì đó ở người phụ nữ này khiến anh chùn bước. Anh cảm thấy rụt rè trước mặt bà ta, một cảm giác không mấy dễ chịu. Anh từng bảo một viên chỉ huy hàm ba sao ngậm miệng trong một cuộc họp, nhưng người phụ nữ này làm anh cảm thấy mình giống như Oliver Twist42 đang xin thêm cháo.
42 Nhân vật chính trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Charles Dicken. Những cậu bé ở trong trại tế bần do quá đói đã cử Oliver đi xin thêm cháo. Cậu đứng trước những người ở nhà tế bần và nói một câu rất nổi tiếng là: “Thưa ngài, cho cháu thêm một ít ạ.” (“Please sir, I want some more.”). Vì thế mà cậu bị nhốt vào ngục.
“Hi vọng rằng không phải vậy.” Bà ta cười.
“Tại sao tôi lại ở đây?” Anh hỏi.
“Ồ, đừng khó chịu. Có chút khiếu hài hước cũng rất quan trọng.”
“Bà có không?”
“Có chứ. Tuy nhiên, quan trọng nhất cậu phải là người nói đùa.” Bà ta nháy mắt với anh. “Khác biệt là ở đó.”
“Tôi sẽ ghi nhớ.”
“Nên thế. Gia đình tôi đã mất khả năng cười nhạo bản thân từ vài thế hệ trước. Cậu vươn lên một đẳng cấp nhất định và sẽ cảm thấy sùng bái thái quá gia đình mình. Người ta tin rằng thành công của gia đình không phải do may mắn hay chăm chỉ mà là vì tài giỏi.” Bà ta nghiêng về phía Gibson, như thể chia sẻ một điều bí mật. “Là ý Chúa. Gen tốt. Dòng dõi. Những thứ như thế. Nghe thì lố bịch nhưng lại xảy ra rất thường xuyên. Và luôn có kết cục như nhau. Thế hệ sau luôn tự kiêu hơn thế hệ trước. Lười biếng hơn. Quan tâm tới những kì nghỉ trượt tuyết ở Gstaad hơn là tăng thêm tài sản của gia đình. Đặc quyền sinh ra lười biếng rồi lười biếng sinh ra lụi tàn. Nhưng tất nhiên với đủ tiền, có thể đến mấy chục năm cũng chẳng ai nhận ra danh tiếng của gia đình đã bám bụi. Một ngày nào đó, ta thức giấc và phát hiện ra rằng thành viên cuối cùng của gia tộc làm được điều gì đó đáng kể đã chết trước cả Kennedy. Cậu biết con trai tôi kiếm sống bằng nghề gì không?”
Gibson lắc đầu.
“Chẳng bằng gì cả. Nó sống trong một căn hộ cao cấp ở Fort Lauderdale với một phụ nữ và golf.” Mắt bà ta mở lớn để giúp anh nhận ra mức độ nghiêm trọng. Khi anh không phản ứng gì, bà ta từ từ lặp lại. “Fort Lauderdale, Vaughn. Cụ tôi đã giúp Wilson thảo Hiệp ước Versailles43 và tham vọng của con trai tôi không xa hơn những khu nhà ở Florida. Thật đáng buồn.”
43. Hiệp ước đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ nhất.
“Bà không thích à?”
“Bang Florida ư? Không, nó là bằng chứng cho thấy lẽ ra không nên phát minh ra điều hòa.”
“Vậy là phải có khiếu hài hước?”
“Nó rất có tác dụng với tôi.” Bà ta cười và chạm vào mép ly rượu đã cạn của mình. Một người bồi bàn xuất hiện ngay lập tức để rót đầy nó.
“Theo một cách nào đó, tôi nợ cậu một lời cảm ơn,” Calista nói.
“Vì sao?”
“Vụ việc với Benjamin đã khiến cậu gặp nhiều… khó khăn.”
“Tôi không hiểu.”
“Anh nghĩ tiền của ai đã bị biển thủ? Benjamin ư? Làm ơn đi, gã đó chẳng có gì trước khi tôi tìm ra hắn. Theo cách không lấy gì làm hay ho của mình, cậu đã giúp tôi nhận ra mình đã cược nhầm ngựa.”
“Tôi không hiểu. Ý bà là cha tôi?”
“Không, không phải cha cậu. Ông ấy là một người đáng mến, nhưng chỉ là tay nài ngựa. Nếu cậu cho phép tôi so sánh như thế.”
“Lombard?”
“Đúng. Hắn là một tên trộm bạo gan. Cậu đã can thiệp nhầm chỗ.”
“Nhưng cha tôi…”
Calista nhìn anh thương hại. “Cậu bị lừa đúng không?
Tất cả là tại cha cậu? Trời, không. Cha cậu trung thành với nhầm người. Giống George. Duke Vaughn chỉ là một vật hi sinh. Người chết không có quyền, các luật sư của tôi vẫn nói vậy. Họ hiếm khi sống dậy để tự bào chữa. Cậu tin cha mình là kẻ cắp sau ngần ấy năm ư?”
Gibson thấy mờ mắt và trong tai có tiếng động lớn át đi sự ồn ào của bữa tiệc. Anh kìm nén cảm giác muốn gục xuống. Anh đan tay vào nhau như một người cầu nguyện đang nổi giận và nhìn thẳng vào mắt Calista.
“Sao bà không lên tiếng?” Một lúc sau, anh hỏi.
“Một câu hỏi có lí. Nói chung là vì tôi không quan tâm.”
“Bà phải quan tâm tới việc Lombard ăn cắp.”
“Phải và tiền của tôi đã được trả lại.”
“Vậy thôi sao?”
“Chính trị là một bức tranh xấu xí với khung đẹp đẽ. Dù rất mến Duke Vaughn, tôi cũng không thể để gia đình mình gây thù chuốc oán với Benjamin Lombard chỉ để cứu vãn uy tín cho người cha đã khuất của cậu. Tổn thất với tôi sẽ là quá lớn.”
“Bà đã để Lombard thắng.”
“Và tôi đã sống để tiếp tục chiến đấu. Điều ít xấu xa hơn.”
“Vậy có phải đó là lí do tôi ở đây? Để làm bà và George đỡ áy náy?”
“Ôi trời, không. Đều là do George. Ông ấy thật là người tốt. Cao thượng ấy chứ. Đó là điểm yếu của ông ấy.” Bà ta nói với một nụ cười giễu cợt.
“Vậy ra đây không phải là ý của bà.”
“Thuê một người bị buộc tội vu khống Benjamin Lombard để tìm Suzanne? Thật kì cục. Cậu có lựa chọn thế nào thì cũng không liên quan tới tôi. Nhưng George lại nghĩ thế là đúng. Thế là chúng ta ở đây.”
“Vậy tại sao chúng ta lại ở đây?”
“Chắc là để cân bằng với cán cân nhân quả của George.”
“Không. Tại sao chúng ta lại ở đây?” Anh hỏi lại.
“À. Tại sao tôi lại mời cậu tới nhà mình ư? Vì dù có cảm thấy thế nào về Benjamin, tôi vẫn rất thương Suzanne. Tôi là mẹ đỡ đầu của nó. Tôi đã có mặt ở lễ rửa tội của nó. Tôi đã giúp nuôi nó lớn. Nó là một thiên thần. Thật vậy. Không bao giờ khóc. Nó là một báu vật và một thiếu nữ tuyệt vời. Như cậu đã biết. Nó yêu đời, điều mà gia đình tôi đã lãng phí. Nó rất thông minh. Chuyện xảy ra với nó là một bi kịch.”
Bà ta uống một ngụm rượu lớn. Mất một lúc, bà ta mới nói tiếp.
“Tôi xin lỗi. Đề tài này vẫn khiến tôi xúc động. Dù đã lâu như thế.”
“Tôi hiểu.” Anh nói.
“Cậu tử tế quá, cậu Vaughn, nếu bức ảnh này là thật - và thành thật mà nói, tôi nghĩ nó là đồ giả nhằm gây tổn thương, khơi lại chuyện cũ của một kẻ độc ác - nhưng nếu nó là thật và kẻ này thực sự biết gì đó về chuyện đã xảy ra với con gái đỡ đầu của tôi, tôi sẽ lên trời xuống biển để tìm hắn. Kẻ chịu trách nhiệm cho tất cả những chuyện này…” Bà ta ngừng lại, cố lựa chọn đúng từ. “Hắn sẽ phải đau khổ.”
Từ cuối sắc như dao. Nó gợi anh nhớ tới những gì George Abe nói về việc muốn có một cuộc nói chuyện nghiêm túc với kẻ đã bắt Suzanne.
“Dù sao thì George nghĩ cậu sẽ có tác dụng. Tôi muốn gặp cậu để tự mình đánh giá.”
“Vậy đây là một buổi phỏng vấn?”
“Không hề. Tôi chỉ là một kẻ ngoài cuộc tò mò. Nếu George nói cậu đủ tiêu chuẩn, tôi chắc chắn không đủ trình độ để phản đối.”
“Vậy thì là gì?”
“Chỉ thế thôi. Tìm ra gã đó và tôi sẽ biết ơn. Gia đình tôi không còn được như xưa, dù tên tuổi của chúng tôi không hoàn toàn mất hết ảnh hưởng, nhưng tôi tin rằng nó sẽ trở lại như cũ. Anh có nhìn thấy mái vòm nhỏ bên ngoài hàng cây không?”
Bà ta chỉ tay ra một chỗ xa xa phía bãi cỏ và anh thấy một tòa nhà mái vòm ngoài rìa ngôi nhà. Hàng cây phải cao hơn bốn mét nên anh chẳng hiểu sao bà ta lại nói là nhỏ.
“Căn nhà đó do ông cố của tôi Alexandre Dauplaise xây khi vợ ông qua đời. Ông được chôn cạnh bà mười hai năm sau đó. Cả gia đình được chôn cất ở đó, ngoại trừ chú tôi Daniel, được chôn dưới một cây thập tự trắng ở Normandy. Rồi tới lúc tôi sẽ về với họ. Đến lúc đó, mối liên hệ của gia đình tôi với thành phố này đã kéo dài được những ba thế kỷ. Nhưng trước khi tôi về với họ, tôi muốn thấy gia đình mình khôi phục lại sự vĩ đại và tinh thần phục vụ đất nước như trước đây.”
“Không thêm những căn chung cư cao cấp ở Florida nữa hả?”
“Phải. Tôi nói tất cả những điều này không phải để dạy lịch sử cho cậu, mà để đảm bảo với cậu rằng lòng biết ơn của tôi không phải là nói suông. Cậu và gia đình sẽ được thưởng. Nhưng nếu cậu định,” bà nói, giọng trầm hẳn xuống, “nghĩ tới việc lợi dụng tình huống này vì những mục đích cá nhân, công khai chuyện này với truyền thông như cậu từng làm… Thì tôi sẽ phật ý đấy.”
“Tôi hiểu.”
“Tốt. Tôi chắc chắn là cuộc trò chuyện này hoàn toàn không cần thiết.”
“Tôi cũng nghĩ thế nếu là bà.”
Calista gật đầu đồng tình. “Cảm ơn cậu, Vaughn. Thật lòng đấy.”
“Bác C! Bác C!” một bé gái reo lên, lao hết tốc lực về phía cái bàn. Một bầy trẻ lao theo cô bé nhưng dừng lại ở đầu cầu thang như thể bị lực vô hình chặn đường. Cô bé dừng lại bên cạnh bà bác, thở hổn hển, chiếc váy trắng lấm chấm cỏ xanh.
Cô bé có mái tóc đen thắt bím và đôi mắt màu xanh nước biển rất đẹp. Cô bé thấy Gibson và lập tức trở nên bẽn lẽn, đứng nép vào bác mình và thì thầm vào tai Calista. Calista bật cười và ôm lấy cô bé.
“Được, tất nhiên. Nhưng không quá hai mươi. Cháu hãy nói với Davis để ông ấy sắp xếp với cha mẹ chúng.”
Cô bé mỉm cười và nói cảm ơn. Cô bé định quay lại bữa tiệc nhưng Calista túm lấy tay áo cô bé.
“Cháu chào khách đi. Đây là chú Vaughn. Đây là Catherine, cháu gái tôi.”
“Chào chú.” Cô bé vẫy tay.
“Chào cháu,” Gibson nói.
“Lịch sự nào, cô gái.”
Cô bé gật đầu nhận sai, đứng thẳng lên và tiến lại gần Gibson chìa tay ra. Anh bắt tay cô bé.
“Thật hân hạnh được biết chú, chú Vaughn. Cháu là Catherine Dauplaise. Cảm ơn chú vì đã tới dự tiệc sinh nhật cháu.”
Cô bé liếc nhìn bác để xem mình đã làm đúng chưa. Calista thở dài và vẫy tay.
“Cháu đi chơi đi. Và nhớ là không quá hai mươi đâu đấy.”
“Vâng, bác C!” Catherine reo lên phấn khích khi cô bé chạy xuống những bậc thang ra bãi cỏ.
“Một công việc đang làm,” Calista nói. “Tôi e rằng mình không hợp làm mẹ. Đứa con trai lười biếng của tôi sẽ công nhận thế. Nhưng tôi sẽ cố hết sức.”
“Nếu có thể an ủi được bà thì cô bé cư xử khá hơn con gái tôi.”
Khuôn mặt bà ta cho thấy là câu nói chẳng có tác dụng gì.
“Rất vui được gặp lại cậu, Vaughn. Chúc may mắn ở Pennsylvania.”