H
ôm sau, họ tới Somerset. Bãi đỗ xe phía dưới ACG gần như trống không và tiếng bước chân của Gibson vang vọng qua những bức tường bê tông. Hendricks đang hút thuốc và ngồi ngả người trên chiếc xe Grand Cherokee đời cũ tàn tạ, vành bánh xe gỉ sét, thân xe đầy vết lõm. Thanh cản sau trông như bị người ta dùng bê tông đục đẽo.
“Xe đẹp đấy. Chiếc Range Rover mang sửa rồi hả?” Gibson nói.
“Những chiếc SUV giá chín mươi nghìn đô la rất dễ gây chú ý ở trung tâm Pennsylvania, Vaughn. Chúng ta không cần điều đó.”
Gibson giơ hai tay lên. “Đùa thôi mà.”
“Anh cứ lo chuyện máy tính thôi, được không?” Hendricks
vẩy tàn thuốc về phía hai chiếc túi xách có quai lớn. “Đó là thiết bị mà anh yêu cầu. Để nó ra sau đi.”
Hendricks vào trong chiếc Cherokee và nổ máy. Gibson mở mấy chiếc túi ra và lấy một thiết bị rồi đặt chúng vào cốp cạnh mấy chiếc túi đen giống nhau. Hendricks lôi theo cả một đống thiết bị. Mấy thứ này là gì đây?
Jenn tấp vào trong một chiếc Taurus còn tồi tàn hơn cái Cherokee. Cái ô tô trông như vừa đi qua ngõ hẹp. Tuy nhiên, những tổn hại bên ngoài của chiếc Taurus không ảnh hưởng tới phần bên trong. Gibson có thể nghe tiếng động cơ mạnh mẽ khi nó dừng lại. Gibson đóng cốp chiếc Grand Cherokee và để ý thấy nó, giống như chiếc Taurus, có biển số Pennsylvania và một miếng dán logo Đại học Pennsylvania trên cản sau. Anh không có kinh nghiệm do thám, nhưng đánh giá cao những người để ý tới chi tiết.
Cửa ghế hành khách của chiếc Taurus khóa. Anh gõ vào cửa sổ và liếc nhìn Jenn. Cô lắc đầu và chỉ ngón tay về phía chiếc Cherokee. Hendricks bóp còi.
“Cô đùa tôi hả?” Gibson lẩm nhẩm.
Cửa sổ của Jenn hạ xuống một chút. “Gặp anh ở Somerset.”
“Nhanh lên,” Hendricks hét lên.
“Tôi sẽ trả tiền để cô mở cửa.”
“Tôi biết lương anh bao nhiêu rồi.”
Hendricks hét bảo anh nhanh lên. Gibson bực bội liếc Jenn, nhưng cô chỉ lạnh lùng nhìn lại, cố gắng nén cười.
Hendricks đưa họ ra khỏi thành phố trên đường Clara Barton Parkway, dọc theo kênh đào C&O cũ. Cây cối phủ bóng con đường và họ lái xe với cửa sổ hạ xuống. Gibson hỏi liệu anh có thể theo dõi trận đấu không. Hendricks chỉ vào cái đài trên xe.
“Ông có thích đội nào không?” Gibson hỏi.
“Cha tôi thích đội Dodgers. Tôi thì không.”
“Cụ cũng là cảnh sát hả?”
“Không.”
Gibson đợi Hendricks nói tiếp, nhưng có vẻ tất cả chỉ có thế. Anh với tay chỉnh đài.
“Ông ấy là kĩ sư phòng thu âm. Âm nhạc. Ông ấy làm nhiều việc cho SST và Slash Records.”
“Hay thế. Có ban nhạc nào tôi biết không?”
“Không, trừ khi anh thích mấy nhóm nhạc punk thời xưa. Black Flag chẳng hạn?”
Gibson lắc đầu.
“Vậy thì anh sẽ không biết nhóm nào đâu.”
“Vậy nếu cha ông thích âm nhạc, tại sao ông lại là cảnh sát?”
“Đăng kí vào học viện. Chứ anh nghĩ sao?” Hendricks bật đài lên để kết thúc cuộc trò chuyện.
Đội Nationals dẫn 2-0 trong hiệp hai. Cha anh sẽ thích việc lại có một đội bóng chày ở Washington DC. Hồi Gibson còn nhỏ, đội Orioles là đã giống đội nhà lắm rồi. Ông Duke dẫn anh đi xem từ mười đến mười lăm trận mỗi năm. Nhưng Gibson cho rằng cha anh thích nghe tường thuật trận đấu trên đài hơn. Anh nhớ những lúc ngồi xe từ Charlottesville tới Washington DC, nghe Mel Proctor và Jim Palmer bình luận trận đấu. Rất chán. Nghe những ông già trên đài mô tả điều anh không thể nhìn thấy. Nhưng giống như nhiều thứ khác, điều đó trở thành niềm an ủi khi anh lớn hơn. Có lúc, anh không hề theo dõi trận đấu nhưng lại thích nghe âm thanh đều đều của nó. Hôm nay là một ngày như thế.
Cuộc trò chuyện với Calista Dauplaise vẫn còn khiến anh khó chịu. Nếu lời nói của bà ta đáng tin, thì mọi thứ Gibson nghĩ trong mười năm qua đều dựa trên một lời nói dối. Tất cả những giả định của anh về cuộc đời mình bỗng nhiên đảo lộn vì một tuyên bố đơn giản: Duke Vaughn không phải là tội phạm. Ngay từ đầu đã là Benjamin Lombard. Lombard, kẻ đã biển thủ hàng triệu đô la và đổ tội cho bạn mình để bảo vệ bản thân. Gibson vẫn chưa hồi phục từ cú sốc đó, vẫn chưa chấp nhận được chuyện mình đã đúng ngay từ đầu. Nhưng anh đã không tin vào điều đó. Anh lại đi tin câu chuyện của Lombard về cha và xấu hổ thay, anh cũng quay lưng lại với cha như những người khác.
Một suy nghĩ khác dằn vặt anh. Từng ấy năm, anh đã tin rằng cha tự sát do cảm thấy cắn rứt vì đã ăn trộm của Lombard. Không có thư tuyệt mệnh nên đó là động cơ duy nhất Gibson nghĩ ra. Nhưng nếu Duke Vaughn không phải là kẻ biển thủ, nếu ông không phải là tội phạm, vậy thì điều gì khiến ông tự sát? Đó là một câu hỏi đã ám ảnh cuộc đời Gibson rất lâu sau khi anh nghĩ mình đã trả lời được nó. Câu trả lời đã khiến anh giận dữ và cay đắng, nhưng ít ra nó cũng mang lại cảm giác mọi thứ đã kết thúc. Giờ thì còn chẳng được như thế.
Gibson còn nhớ như in căn nhà cũ. Bãi cỏ thoai thoải trước nhà nơi anh dành cả tuổi thơ để quét và cắt cỏ. Dưới bóng cây du, ông Duke đã cố gắng dạy con trai mình ném bóng mà không được. Chiếc Volvo lâu năm đỗ ở lối vào có nghĩa là cha anh có nhà. Tiếng cót két của những bậc thềm hiên và những chiếc ghế gỗ lớn mà Gibson chưa bao giờ thấy thoải mái. Cửa trước không bao giờ khóa.
Hôm đó, nó mở toang.
Gibson gọi cha nhưng không có tiếng đáp lại. Loa đang phát phần đầu bài “New Kid in Town” của The Eagles. Cha anh thích những thứ thế này: James Taylor, Jackson Browne, Bob Marley & the Wailers và CSN&Y. Thứ “âm nhạc để chơi ném đĩa trong một buổi chiều đầy nắng hồi đại học” của ông. Gibson thả chiếc ba lô xuống chân cầu thang và đi khắp nhà gọi cha. Anh còn nhớ mình có cảm giác không yên vì thường thứ Sáu cha mới về. Và những lần Duke Vaughn làm cái gì sớm chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Anh kiểm tra lại tất cả các phòng. Sân sau. Duke đôi khi qua chơi nhà hàng xóm. Ông có lẽ đang nói về đội bóng chày của Đại học Virginia với ông Hooper, một cán bộ của trường. Cũng có lí. Tuy vậy, Gibson không thích chuyện cửa trước mở. Anh đi quanh nhà lần nữa và để ý thấy cửa tầng hầm hé mở. Anh không kiểm tra tầng hầm vì chẳng có ai xuống đó bao giờ. Đó chủ yếu là nơi để đồ và là phòng ngủ tạm bợ cho những dịp hiếm hoi mà họ có khách.
Anh mở cửa và thấy đèn dưới hầm đang bật. Mùi phân xộc lên. Anh gọi cha, nhưng không ai trả lời. Anh bước xuống thang. Thật chậm. Biết có gì đó không ổn. Còn bốn bậc nữa, anh nghiêng đầu ghé mắt nhìn tầng hầm. Anh thấy đôi chân trần của cha đung đưa trong không trung, chĩa xuống sàn xi măng như thể ông đang bay.
Một bước nữa.
Không giống ông. Sợi dây thừng thít chặt làm cơ thể ông xám ngắt. Gibson khẽ gọi tên ông và ngồi bệt xuống bậc thềm cuối cùng. Anh đã không khóc cho tới khi cảnh sát đến và bảo anh đi với họ.
Tại sao cha lại làm thế? Cha vô tội mà. Thứ gì đã đẩy cha xuống tầng hầm?
Họ tới Somerset lúc gần tối. Ở phía đông, cách Pittsburgh một giờ lái xe, Somerset là nơi ở của gần bảy nghìn người lao động chân tay. Thị trấn này tự hào với lịch sử từng là trung tâm của lực lượng nổi dậy trong vụ Nổi loạn Whiskey44 năm 1794. Gần đây hơn, nó liên quan tới vụ 11 tháng 9 khi chuyến bay số 93 lao xuống gần Shanksville. Nhưng giờ điều khiến Somerset quan trọng là vì nó nằm gần trạm xăng Breezewood - chỉ cách đó hơn tám mươi cây số về phía đông.
44 Whiskey Rebellion: một vụ nổi dậy phản đối thuế chính phủ áp dụng lên các mặt hàng trong nước để trả nợ từ cuộc Cách mạng Mỹ.
Hendricks lượn qua tòa án có mái vòm mạ đồng ở trung tâm thị trấn và dừng lại để đợi Jenn. Cô ấy đi sau họ mười phút. Hendricks có thể không phải là người bạn đồng hành dễ chịu, nhưng lại là một tài xế tuyệt vời. Họ bị kẹt xe ở đường Maryland và Gibson phải tìm đường đi vòng trên điện thoại của mình.
“Cất đi.” Hendricks cằn nhằn, rồi lái xe đưa họ ra Đường 68 rộng rãi mà không cần liếc bản đồ. Ông ta là định vị sống.
Đó là chặng đường gọn gàng nhất của Gibson. Ai cũng nghĩ mình là một tài xế giỏi, nhưng Hendricks giỏi thật sự. Chiếc xe dừng lại không chút khó khăn và tăng tốc thật nhẹ nhàng tới mức ta hầu như không cảm thấy. Không rõ bằng cách nào, Hendricks luôn ở trên làn đường thông suốt và đó không phải là ăn may. Nếu một chiếc ô tô phanh lại cách đó mấy mét, Hendricks sẽ đoán nó đi tiếp thế nào và sẽ điều chỉnh tốc độ hoặc đổi làn.
Mấy phút sau, Jenn tới. Do Gibson không chắc WR8TH đã thâm nhập đến đâu vào ACG, anh không cho phép họ dùng thiết bị điện tử để lần theo con mồi - không thư điện tử, không tin nhắn, không dùng Word. Michael Rilling đang tạo một máy chủ chuyên dụng không kết nối với ACG. Và trong thời gian này, mọi việc diễn ra chỉ trên giấy ghi chú và thư tay, ai cũng thấy kì quặc, riêng Hendricks lại có vẻ thích.
Điều đó cũng đồng nghĩa không thể đặt trước khách sạn, nhưng Hendricks biết rõ thị trấn Somerset và có thể kể tên mọi nhà nghỉ trong bán kính năm cây số.
“Ông đã tới đây bao giờ chưa?” Gibson hỏi.
“Trông tôi có giống đã từng đến đây không?”
“Vậy là tối ông về nhà xem bản đồ à?”
“Nếu tôi định đi đâu đó. Google không thể thay cho kiến thức thực sự. Viết lại câu đó đi.”
Khi Jenn đỗ lại, họ cùng nhau đi vào một nhà nghỉ một tầng mà phần nào chắn được tiếng ồn xe cộ. Gibson vẫn cảm thấy bồn chồn nên quyết định chạy bộ trước khi ăn tối. Anh rời phòng và gật đầu với Hendricks. Ông ta đã mang một cái ghế gỗ ra khỏi phòng và đang lười biếng hút thuốc.
“Tôi sẽ trở lại sau một tiếng.”
Hendricks lầm bầm và Gibson bắt đầu chạy ra đường. Mùa hè đã tới. Trời nóng tới 32 độ sau 6 giờ chiều. Anh chạy về phía Nam tới trung tâm thị trấn, đi qua quán Summit, một quán ăn bằng thép không gỉ với biển hiệu neon xanh đỏ bên vỉa hè. Quán này đã được sửa lại, nhưng anh dám cá ban đầu, nó là một quán ăn bình dân. Có lẽ là từ tận những năm 1960. Cha anh chắc chắn sẽ biết rõ, nhưng dù sao nó cũng rất đáng giá. Gibson biết mình sẽ ăn tối ở đâu trong lúc ở thị trấn này.
Ở tòa án, anh rẽ phải và chạy về phía Tây theo hướng mặt trời lặn. Anh chạy chậm lại khi nhìn thấy thư viện và đi bộ đến hết đường để nhìn nó. Trang web của thư viện chỉ có duy nhất một trang, trông chẳng khác gì cái biển ghi giờ đóng - mở cửa. Anh tìm thấy vài tấm hình nhưng không có tấm nào cho anh thấy toàn cảnh. Chủ yếu anh tò mò muốn thấy căn cứ của một trong những kẻ bị FBI truy nã gắt gao nhất.
Với vai trò là hang ổ tội phạm, nơi này có phần đáng thất vọng. Thư viện Carolyn Anthony là một tòa nhà gạch xinh xắn với cửa sổ và cửa chính viền trắng. Tòa nhà cách mặt đường một thảm cỏ, một hàng hoa và mấy bụi cây. Một vòi nước cứu hỏa màu đỏ tươi nằm ở một bên lối vào chính, một đài phun nước ở bên kia. Giống như tòa án, thư viện như lạc lõng giữa những tòa nhà tồi tàn xung quanh.
Đài phun nước chỉ phun ra tia nước nhỏ. Gibson vất vả uống được một ngụm rồi đi vòng quanh thư viện. Ở đằng sau thư viện có một công viên với nhiều ghế đá, bàn dã ngoại, bãi cỏ và một đài phun nước bằng đá ở trung tâm.
Khung cảnh này làm anh nhớ tới tấm hình chụp với Suzanne và con ếch. Điều này lại làm anh nghĩ tới một thứ từng làm anh bận tâm… Cái mũ - có điều gì ẩn chứa trong cái mũ bóng chày của đội Philadelphia Phillies. Có gì to tát chứ? anh tự hỏi. Cô bé cần một cái mũ để che mặt và đã mua cái mũ Phillies. Bình tĩnh nào, thám tử Sherlock.45
45 Thám tử Sherlock Holmes: nhân vật nổi tiếng trong truyện trinh thám của Hiệp sĩ Arthur Conan Doyle.
Nhưng nó vẫn làm anh rối trí.
Anh tự nhủ với bản thân phải tập trung vào nhiệm vụ hiện tại: quan sát mặt bằng của thư viện. Xem ra có ba lối vào: cửa chính, một cửa phụ để đưa hàng vào và một cửa phụ khác hướng ra công viên. Thư viện tách biệt với các tòa nhà xung quanh, nên một người chẳng có lí do gì mà vô tình đi nhầm vào. Cộng thêm việc thị trấn cũng nhỏ khiến người lạ dễ dàng bị nhận ra. WR8TH sẽ nhanh chóng phát hiện ra họ.
Gibson sử dụng điện thoại di động của anh để kiểm tra điều anh vốn đã biết - Wi-Fi của thư viện không có mật khẩu. Anh đi được nửa vòng thì mới mất tín hiệu. Ngày mai, anh sẽ trở lại với một bộ thử độ phủ Wi-Fi và lập bản đồ phạm vi của tín hiệu. Tuy nhiên, rõ ràng là WR8TH có thể đăng nhập vào Wi-Fi của thư viện mà không cần vào trong - tức là hắn có thể không nằm trong tầm mắt họ. Công việc của họ đang trở nên khó khăn hơn. Không phải là không thể, nhưng đã phức tạp hơn nhiều.
Lúc này, anh chẳng thể làm gì được. Anh đeo tai nghe rồi bắt đầu chạy về nhà nghỉ để gọi điện cho Ellie trước bữa tối.