H
ibson Vaughn ngồi một mình ở cái quầy đông khách của quán ăn Nighthawk. Đang là giờ cao điểm nhất của bữa sáng và thực khách lượn lờ, đợi có chỗ ngồi. Gibson hầu như không để ý tới tiếng dao dĩa trên đĩa hay cô phục vụ vừa đặt thức ăn xuống cho anh. Mắt
anh dán vào chiếc ti vi ở trên cao, đằng sau quầy phục vụ. Bản tin lại đang phát đoạn video ấy. Nó xuất hiện khắp nơi, là một hiện tượng của nước Mỹ đương thời, được mổ xẻ và phân tích suốt nhiều năm, được nhắc đến trong phim ảnh, các chương trình truyền hình và những bài hát. Như hầu hết người Mỹ, Gibson đã xem nó vô số lần và anh không thể quay mặt đi, dù nó được phát lại bao nhiêu lần. Làm sao anh có thể chứ? Đó là tất cả những gì còn lại về Suzanne.
Phần đầu của đoạn video nhiễu và mờ. Khuôn hình rung rung, từng dòng chữ xuất hiện trên màn hình, như những con sóng vỗ vào bờ biển chưa khai phá. Những việc khác của người quản lí cửa hàng này được ghi đè lên cuốn băng, hết lần này tới lần khác.
Được quay từ một góc đằng sau quầy tính tiền, đoạn băng chiếu cảnh bên trong của trạm xăng khét tiếng ở Breezewood, Pennsylvania. Sức mạnh của đoạn video là nó có thể được phát ở bất kì đâu. Nhìn chung, đoạn băng không lời trong máy quay an ninh là sự tưởng nhớ u buồn dành cho cô gái mất tích nổi tiếng nhất nước Mỹ - Suzanne Lombard. Thời gian trên đoạn băng ghi 10 giờ 47 phút tối.
Beatrice Arnold, một sinh viên đại học làm ca tối, là người cuối cùng nói chuyện với cô gái mất tích. Vào 10 giờ 47 phút tối, Beatrice đang ngồi trên một chiếc ghế cao đằng sau quầy phục vụ, đọc một quyển The Second Sex1 nhàu nhĩ. Cô là người đầu tiên nhớ lại đã gặp Suzanne Lombard và cũng là người đầu tiên gọi cho FBI2 khi vụ mất tích lên bản tin.
1. Một cuốn sách của Simone de Beauvoir viết về cách đối xử với phụ nữ xuyên suốt lịch sử, phát hành năm 1949.
2. Federal Bureau of Investigation: Cục điều tra Liên bang.
Lúc 10 giờ 48 phút tối, một người đàn ông tóc dài mỏng, màu vàng bước vào cửa hàng. Trên Internet, người ta gọi hắn là Riff-Raff, nhưng FBI cho biết hắn là Davy Oksenberg, một tài xế xe tải đường dài đến từ Jacksonville, có tiền sử bạo lực gia đình. Oksenberg mua thịt bò khô và Gatorade3. Hắn trả tiền mặt rồi đòi hóa đơn nhưng vẫn tiếp tục quanh quẩn ở quầy phục vụ, trêu ghẹo Beatrice Arnold, không có vẻ gì là vội vã đi tiếp.
3. Gatorade: Một nhãn hiệu đồ uống tăng lực phổ thông ở Mỹ.
Là nghi can đầu tiên và rõ ràng nhất trong vụ án, Oksenberg bị FBI thẩm vấn liên tục trong nhiều tuần và nhiều tháng sau vụ mất tích. Đồ đạc của hắn bị lục soát hết lần này tới lần khác, nhưng không tìm thấy dấu vết gì của cô gái mất tích. Bất đắc dĩ, FBI tuyên bố hắn trong sạch, nhưng Oksenberg đã kịp mất việc và bị dọa giết hàng chục lần.
Sau khi hắn rời đi, cửa hàng trở nên yên tĩnh. Thời gian trôi như vô tận… và rồi cô bé ấy xuất hiện trong đoạn video - cô bé mười bốn tuổi mặc chiếc áo có mũ quá khổ, đội mũ bóng chày Phillies4 và đeo chiếc ba lô Hello Kitty lủng lẳng một bên vai. Cô đã ở trong cửa hàng suốt thời gian đó, đứng ở điểm mù của máy quay. Điều kì bí hơn nữa là không ai dám chắc vì sao Suzanne lại ở trong cửa hàng. Beatrice Arnold không nhớ là đã thấy cô bước vào và đoạn băng an ninh không có câu trả lời.
Chiếc áo có mũ rộng thùng thình. Cô bé trông rất nhợt nhạt và yếu ớt. Truyền thông thích tạo ra sự tương phản giữa đoạn băng đen trắng với những bức ảnh màu về gia đình - cô bé tóc vàng tươi cười trong bộ váy phù dâu xanh da trời, cô bé tươi cười trên bãi biển với mẹ, cô bé tươi cười đang đọc một quyển sách và nhìn ra ngoài cửa sổ. Những bức hình đó trông thật thanh thản, khi so sánh với cô bé mặt mày u ám, đầu đội mũ bóng chày, tay thọc sâu vào túi, cúi gằm như một con vật đang lo lắng quan sát từ trong hang.
4. Đội bóng chày nhà nghề Philadelphia Phillies.
Suzanne đi tới đi lui giữa các kệ hàng, nhưng lại ngóng ra cửa sổ phía trước. 179 giây trôi qua. Thứ gì đó ngoài cửa sổ khiến cô chú ý và cô thay đổi dáng đứng. Có lẽ là một chiếc xe. Cô lấy ba món đồ trên kệ: một hộp bánh Ring Dings, một lon Dr Pepper và một hộp cam thảo Red Vines. Ba thứ đó giờ được biết đến một cách rùng rợn là Cuộc Dã ngoại của Cô gái Mất tích. Suzanne trả bằng tiền mặt, ném lên quầy những tờ đô la nhàu nhĩ cùng mấy đồng xu lẻ, rồi nhét những món đồ vừa mua vào trong ba lô.
Suzanne chú ý đến máy quay an ninh và nhìn nó một lúc lâu - một biểu cảm được giữ lại trong khoảnh khắc ấy và giống như nụ cười của Mona Lisa, nó được lí giải theo cả nghìn cách.
Như mọi khi, Gibson lại nhìn thẳng vào mắt Suzanne, đợi cho cô cười bẽn lẽn với anh như mỗi lần cô muốn kể một bí mật. Đợi cô nói với anh chuyện gì đã xảy ra. Tại sao cô lại bỏ đi. Trong ngần ấy năm, anh chưa bao giờ ngừng hi vọng tìm thấy câu trả lời. Nhưng cô bé trong đoạn video không nói gì.
Với anh hay bất kì ai khác.
Cử chỉ cuối cùng của Suzanne là kéo chiếc mũ sụp xuống mắt và quay đi mãi mãi. Vào lúc 10 giờ 56 phút tối, cô bước ra khỏi cửa rồi chìm vào màn đêm. Beatrice Arnold nói với FBI rằng cô bé có vẻ lo lắng và đôi mắt hơi đỏ như thể cô đã khóc. Cả Beatrice lẫn cặp đôi đang đứng bơm xăng đều không để ý xem cô bé có lên chiếc xe nào không. Một ngõ cụt vô vọng khác trong một vụ án đầy bế tắc.
FBI đã không thể tìm ra được một đầu mối đáng kể nào. Vẫn không ai xuất hiện để nhận khoản tiền mười triệu đô la do gia đình cô và những người giúp đỡ họ treo thưởng. Dù được truyền thông hết sức chú ý và có một người cha nổi tiếng, Suzanne Lombard đã bước ra khỏi trạm xăng và biến mất. Vụ mất tích của cô là một bí ẩn dai dẳng với nước Mỹ cùng với Jimmy Hoffa5, D. B. Cooper6 và Virginia Dare7.
5. Một trong những vụ mất tích nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Mỹ.
6. Từ mà truyền thông dùng để gọi một người đàn ông không rõ danh tính. Người này đã khủng bố một chiếc máy bay Boeing 727 năm 1971 rồi biến mất.
7. Đứa trẻ người Anh đầu tiên được sinh ra ở Tân thế giới. Cô bé cùng những người dân khác của thuộc địa Roanoke đột nhiên biến mất không dấu vết.
Bản tin chuyển sang phần quảng cáo và Gibson thở hắt ra, không nhận thấy rằng mình đã nín thở. Đoạn băng luôn khiến anh thấy mệt. Họ còn chiếu nó bao lâu nữa? Đã không có tiến triển gì trong vụ Suzanne suốt nhiều năm trời. Tin tức nổi bật của ngày hôm nay là Riff-Raff đã cắt tóc ngắn và lấy bằng đại học khi ngồi tù vì một trọng tội liên quan tới ma túy. Internet, với vô vàn những lời mỉa mai, đã đặt cho hắn biệt danh mới là Giáo sư Riff-Raff hay Raff 2.0. Ngoài ra, tất cả chỉ là những màn sướt mướt chiếu lại mà ai cũng biết, tức là chẳng có gì.
Nhưng ngày đánh dấu mười năm vụ mất tích đang đến gần, đồng nghĩa với việc các kênh truyền hình sẽ liên tục chiếu các bản tóm lược. Liên tục khai thác kí ức về Suzanne. Liên tục lôi ra bất kì ai chỉ hơi liên quan tới gia đình cô hay vụ việc này. Tái dựng hiện trường ở trạm xăng Breezewood và dùng phần mềm máy tính để phán đoán xem cô bé hiện giờ trông ra sao.
Gibson đặc biệt thấy khó chịu khi nhìn vào mô hình giả lập. Đáng lẽ giờ đây, Suzanne đã hai mươi tư tuổi và tốt nghiệp đại học. Những hình ảnh khiến anh tưởng tượng cuộc đời cô có thể đã ra sao. Không biết giờ cô sống ở đâu. Bước đường sự nghiệp của cô chắc chắn sẽ liên quan tới sách. Anh mỉm cười khi nghĩ đến nhưng phải kìm lòng. Như thế là không tốt. Chẳng phải đã đến lúc để cô yên? Để tất cả được yên?
“Kinh khủng.” Người đàn ông ngồi cạnh anh vừa nói vừa nhìn chăm chăm vào ti vi.
“Chắc chắn rồi.” Gibson đồng tình.
“Tôi vẫn nhớ mình đang ở đâu khi nghe tin cô bé mất tích - phòng khách sạn tại Indianapolis trong một chuyến công tác. Như mới hôm qua vậy. Tôi có ba đứa con gái.” Người đàn ông gõ tay lên mặt quầy gỗ để cầu may. “Tôi ngồi trên thành giường xem suốt mấy tiếng. Thật kinh khủng. Anh có thể tưởng tượng việc mười năm liền không biết liệu con gái mình còn sống hay đã chết sẽ thế nào không? Chuyện khủng khiếp thế này thật quá sức chịu đựng của một gia đình. Ông Lombard là người tốt cơ mà.”
Điều cuối cùng Gibson muốn bị lôi vào là một cuộc trò chuyện về Benjamin Lombard. Anh gật đầu tán đồng, hi vọng ngưng được chủ đề này lại, nhưng người kia vẫn nói tiếp.
“Ý tôi là, nếu có thằng khốn bệnh hoạn nào đó, thứ lỗi cho ngôn từ của tôi, có thể bắt được con gái phó tổng thống - rồi thoát tội - thì chúng ta còn hi vọng gì nữa?”
“À, lúc đó, ông ấy chưa phải phó tổng thống.”
“Phải, nhưng ông ấy vẫn là một thượng nghị sĩ. Thế cũng không tầm thường đâu. Anh không nghĩ là hồi đó, ông ấy cũng có ảnh hưởng tới cảnh sát liên bang ư?”
Thật ra, Gibson là người biết rất rõ Lombard có ảnh hưởng lớn tới đâu và ông ấy thích điều đó thế nào. Phó Tổng thống Benjamin Lombard là một đề tài anh cố không nghĩ tới.
“Tôi nghĩ ông ấy sẽ trở thành một tổng thống giỏi.” Người kia nói tiếp. “Vượt qua một chuyện thế này ư? Vẫn trở thành phó tổng thống khi mà hầu hết mọi người sẽ vô cùng đau khổ. Và giờ chạy đua cho cương vị tổng thống? Điều đó cần tới sức mạnh mà anh không thể tưởng tượng nổi.”
Làm phó tổng thống đã hai nhiệm kì cho một tổng thống được lòng dân, Lombard được kì vọng sẽ sớm giành quyền tranh cử - hội nghị đề cử ứng viên vào tháng Tám chỉ làm cho có lệ, chứ thực ra giống như một lễ đăng quang. Nhưng Anne Fleming, thống đốc bang California, không hiểu từ đâu ra và có ý định tranh cử. Hai người họ lúc này đang cạnh tranh sít sao trong các cuộc thăm dò. Lombard dẫn về số phiếu đại biểu và vẫn là ứng viên số một, nhưng Fleming đang khiến ông ấy phải nỗ lực.
Kỉ niệm mười năm vụ mất tích của Suzanne rơi vào đúng năm bầu cử, éo le thay, lại có lợi cho chiến dịch tranh cử của Benjamin Lombard. Tuy nhiên, chuyện đấy chẳng có gì mới: tranh đấu cho Luật Suzanne qua Thượng viện chính là thứ đã giúp ông được cả nước chú ý. Tất nhiên, Lombard đã tế nhị từ chối thảo luận về con gái mình. Những người hoài nghi sẽ cho rằng việc đó không cần thiết vì truyền thông đã làm hộ rồi. Và tất nhiên, còn có vợ ông nữa. Những nỗ lực không mệt mỏi của Grace Lombard đại diện cho Trung tâm Trẻ em Mất tích và Bị ngược đãi đã trở thành tin tức chính trên các đài truyền hình xuyên suốt các vòng bầu cử sơ bộ. Bà có khi còn nổi tiếng hơn người chồng quyền lực của mình.
“Nếu ông ấy được đề cử, tôi sẽ bầu cho ông ấy vào tháng Mười một.” Người đàn ông nói. “Ai khác ra tranh cử cũng không quan trọng. Tôi vẫn sẽ bỏ phiếu cho ông ấy.”
“Tôi chắc chắn ông ấy sẽ đánh giá cao điều đó.” Gibson vừa nói vừa với tay lấy sốt cà chua. Anh đổ thật nhiều vào góc đĩa, trộn nó với chút sốt mayo và phết lên miếng bánh khoai tây của mình như cách mà cha anh đã dạy hồi anh còn nhỏ. Giống như câu nói bất hủ của ông Duke Vaughn, “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì hãy cắn một miếng thật to và nhai thật chậm.”
Thật là những lời đáng để làm theo.