1 ODC (viết tắt của Obsessive Compulsory Disorder - Rối loạn ám ảnh cưỡng chế) là một rối loạn tâm lý có tính chất mãn tính, dấu hiệu phổ biến của bệnh là ý nghĩ ám ảnh, lo lắng không có lý do chính đáng và phải thực hiện các hành vi có tính chất ép buộc để giảm bớt căng thẳng, đây là một dạng trong nhóm bệnh liên quan trực tiếp đến stress. Người bị ảnh hưởng của bệnh có những ý nghĩ và hành vi lặp lại một cách vô nghĩa mà không kiểm soát được chẳng hạn rửa tay hàng chục lần mặc dù tay đã sạch hay dành quá nhiều thời gian để sắp xếp đồ vật trong nhà quá mức gọn gàng cần thiết. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là dạng rối loạn của não bộ có nguyên nhân từ sự bất thường trong xử lý thông tin, do vậy căn bệnh không phải là lỗi của người mắc hoặc biểu hiện của nhân cách không ổn định, yếu đuối. - ND
2 Nguyên văn là Mormons (Hội Thánh Đức Chúa Jesus Christ của các Thánh đồ ngày sau cùng). Đây là một giáo phái đặt trụ sở chính tại thành phố Salt Lake, bang Utah, Hoa Kỳ. Xưa kia đạo này có tập quán được lấy nhiều vợ và vì vậy mãi tới năm 1896 khi bỏ được tục lệ này thì Utah mới được công nhận là bang thứ bốn mươi lăm của Hoa Kỳ.
Sáng hôm sau, tôi lại chui vào chiếc Limousine.
Tuy nhiên, lần này, gã khủng bố bàn giấy không chở tôi qua khu vực u ám phía tây Queens nữa mà qua khu vực hôi thối phía tây Brooklyn. Thực ra, chúng tôi đang đi qua một cơn ác mộng Nhân khẩu học có tên là công viên Sunset, một khu vực quá ư đa dạng về mặt sắc tộc - đầy rẫy đám người Hoa, Hàn, Malaysia, Thái Lan, Puerto Rico, Mexico, Dominique, Salvador, Guatemala cùng với một nhúm dân Phần Lan ngu độn thấy rõ bởi họ quá chậm chạp trong việc nhận ra những người bà con Phần Lan khác của họ đã chạy hết từ ba mươi năm về trước, khi từng đoàn người nói trên tới xâm chiếm vùng này. Khi nhìn qua cửa sổ, tôi có cảm giác chúng tôi đang lái xe qua một bãi đỗ xe của Liên Hợp Quốc sau một vụ tấn công bằng tên lửa vậy.
Phải, trên thực tế, công viên Sunset này chẳng khác gì một cái chuồng tiêu cả. Đó là một vạt cỏ phẳng phiu toàn rác rưởi và nhựa đường với những nhà kho tồi tàn, cửa hàng bị bỏ hoang phế, những vách tường mục ruỗng và đầy phân chim. Khu buôn bán Manhattan - nơi tôi sẽ đến trong buổi sáng nay - chỉ cách vài dặm về phía Tây, ở bờ bên kia con sông Đông ô nhiễm nặng. Từ góc độ đầy lợi thế lúc này, trên ghế sau phía bên phải của chiếc xe Limousine, tôi có thể nhìn thấy những vũng nước xoáy tròn của dòng sông, hình dáng cao vút chọc lên trời của khu Lower Manhattan và phần vòm tráng lệ của cầu Verrazano - Narrows vươn dài tới khu Staten Island không lấy gì làm tráng lệ cho lắm.
Theo kế hoạch, vào đúng chín giờ sáng, Monsoir sẽ cho xe đáp lại trước một nhà để xe ngầm nhếch nhác ở mé nam của một con phố hai chiều cũng nhếch nhác không kém. Khi tôi khỏi chiếc Limousine, tôi nói:
- Ở yên đây cho đến khi tôi ra hiệu cho anh, Monsoir.
Trong khi tôi đi, đừng có thổi bay cái cầu nào đấy, tôi nghĩ thầm. Sau đó tôi đóng sầm cửa ngay trước mũi gã và đi bộ một đoạn ngắn độ vài bước chân xuống tầng trệt của nhà xe.
Tôi nghe thấy một giọng nói quen thuộc: Jordan! Lại đây!
Tôi rẽ sang phải và thấy đặc vụ Gregory Coleman đứng đó. Anh ta đứng ngay trước một chiếc xe do chính phủ cấp rất đặc trưng, tức là gồm bốn cửa, không có một vết lõm, có lẽ chỉ mới hai năm sử dụng và sản xuất tại Mỹ. Trên thực tế, đó là một chiếc Ford Taurus màu nâu sẫm đời 1997 với kính cửa sổ sáng màu và không gắn còi hiệu. Anh ta đứng tựa vào cửa sau xe phía bên khách, hai tay khoanh trước ngực, đúng tư thế của một chiến binh thắng trận.
Đứng sau anh ta, với nụ cười từ tốn trên mặt, là bạn cùng học, đặc vụ Bill McCrogan. Tôi chỉ mới gặp McCrogan một lần, vào buổi tối tôi bị bắt và vì một lý do không giải thích được nào đó, tôi rất thích hắn. Dường như hắn quá tốt bụng đến mức không thể là một đặc vụ FBI được, mặc dù tôi tin chắc rằng một khi Coleman hoàn thành công việc cùng hắn thì hắn chẳng còn tốt bụng tí nào nữa. McCrogan chỉ cao hơn Coleman vài phân, có lẽ phải hơn một mét tám và trông hắn chỉ khoảng ba mươi tuổi. Hắn có mái tóc hạt dẻ quăn, dày, những đường nét vạm vỡ và một vóc dáng trung bình. Cặp kính viền dây kim loại phía trên đôi mắt xanh nhạt nên trông hắn có vẻ hết sức ngoan đạo. Một Gã Đa thê, tôi hình dung như vậy, có lẽ hắn từ thành phố Salt Lake hoặc Provo, hay thậm chí là từ vùng đồi núi Idaho mò đến... mặc dù thực sự chẳng có gì đáng để ý.
Trong khi đó, Coleman trông như dân Ý hoặc Hy Lạp, mặc dù tôi xem anh ta như một gã Đức, bởi vì cái tên. Phải, có lẽ anh ta xuất thân từ vùng thâm sơn cùng cốc Bavaria. Anh ta cao ngang tầm tôi, chỉ ngót nghét một mét bảy mươi và nặng không quá bảy mươi ba kilogram. Anh ta có bộ ngực nở nang, nhưng không quá mức. Đường nét rất ổn mặc dù có phần hơi góc cạnh và như luôn toát ra thái độ nghi ngờ, đặc biệt là với tôi. Anh ta có mái tóc nâu cắt ngắn, chải hất sang một bên với vài sợi bạc hai bên mai. Nhưng có thể đó là kết quả của việc săn đuổi tôi trong suốt năm năm qua, một công việc đủ khiến cho bất kỳ gã nào cũng phải bạc đầu. Anh ta có nước da nâu trơn láng, một cái mũi khoằm, vầng trán cao và đôi mắt nâu sắc bén nhất mà ta có thể hình dung được. Trông chúng còn sắc bén hơn cả mắt diều hâu. Anh ta cũng tầm tuổi tôi, tức là gã khốn đó bám đuôi tôi từ khi mới gần ba mươi! Chúa ơi, làm sao lại có loại người dứt khoát muốn đem người khác ra pháp đình như thế chứ? Ý tôi là, thực sự thì gã này mắc hội chứng OCD nặng quá chăng? Và tại sao gã lại bị OCD với tôi chứ? Đúng là một nỗi ô nhục khốn kiếp làm sao.
- Chào mừng đến với Đội Hoa Kỳ. - Đặc vụ OCD nói, cười rạng rỡ và vươn cánh tay phải ra, nơi cổ tay có một chiếc đồng hồ nhựa màu đen mặt vuông với mức giá bán lẻ khoảng dưới 59,99 đô la.
Tôi bắt tay anh ta một cách thận trọng và cố tìm nét mỉa mai trên gương mặt anh ta. Nhưng tất cả những gì tôi thấy lại là một nụ cười rất thành thực.
- Cảm ơn. - Tôi lầm bầm. - Nhưng tôi đoán các anh đang hả hê. - Tôi nhún vai. - Ý tôi không định trách móc gì các anh nếu đúng là như vậy.
Gã Đa thê nói chen vào:
- Hả hê ư? Cậu ấy luôn cảm thấy khổ sở kể từ ngày tóm được anh! Đó là một cuộc săn đuổi mà cậu ấy thích thú. - Anh ấy nhìn đặc vụ OCD. - Phải không, Greg?
Bệnh nhân OCD đảo mắt và lắc đầu.
- Phải, thế nào cũng được. - Anh ta mỉm cười thêm lần nữa, nhưng nụ cười này có pha nét buồn bã. - Dù sao, tôi cũng mừng là cuối cùng anh đã quyết định hoàn lương. Giờ anh đang làm những việc đúng đắn. Thực sự là như vậy.
Tôi lại nhún vai:
- Vâng, tôi cảm thấy mình như một thứ chấy rận.
- Anh không phải là chấy rận. - Anh ta đáp lại.
- Hoàn toàn không. - Gã Đa thê nói thêm với một nụ cười đa thê thấy rõ. - Anh còn tồi tệ hơn lũ chấy rận!
Anh ấy bật ra tiếng cười của dân đa thê và chìa bàn tay kính Chúa của mình ra để thực hiện cái bắt tay cũng đầy chất đa thê.
Tôi mỉm cười với anh chàng tốt bụng này và bắt tay anh ấy một cách thành thực. Sau đó tôi mất một lúc để xem xét hai người bạn mới của mình. Họ đều mặc áo vét màu tím than, áo sơ mi trắng là phẳng, cà vạt màu xanh da trời vừa phải và đi giày buộc dây màu đen (đúng trang phục đặc trưng của nhân viên điều tra). Nói thật là trông họ khá bảnh; mọi thứ đều rất hợp với nhau và bộ vét của họ được là tới mức gần như hoàn hảo.
Nhưng dù thế nào thì trang phục của tôi vẫn ăn đứt của họ. Tôi cảm thấy việc trông mình thật bảnh bao trong ngày phản bội đầu tiên là rất quan trọng, nên tôi chọn lựa bộ cánh rất cẩn thận. Tôi mặc bộ vét vải xéc màu xanh dương có một hàng khuy trị giá hai nghìn hai trăm đô la, chiếc áo sơ mi trắng với cổ áo có cài khuy, chiếc cà vạt Trung Quốc màu xanh dương thẫm và đôi giày buộc dây màu đen. Nhưng không như loại giày thô kệch của họ, giày của tôi được làm bằng da cực mềm. Trên thực tế, chúng được làm tại Anh quốc với giá một nghìn tám trăm đô la. Quá tốt cho mình! Tôi nghĩ. Tôi đã hạ gục họ trong cửa hàng giày.
Cả trong cửa hàng đồng hồ nữa.
Đúng như vậy. Để dành cho ngày hôm nay, tôi đeo chiếc đồng hồ Thụy Sỹ hiệu Tabbah trị giá hai mươi sáu nghìn đô la, với quai da màu sô cô la và phần mặt hình chữ nhật to bự màu trắng. Đó là loại đồng hồ Thụy Sỹ siêu hạng thể hiện sự giàu có của những tay sành điệu nhưng lại chẳng có gì đặc biệt với những người có thu nhập giống như Coleman và McCrogan. Sáng nay, tôi đã có một hành động khôn ngoan là để chiếc đồng hồ Bulgari trong hộp của nó. Nói cho cùng, tội gì lại làm cho những người bạn mới phải ghen tị, hay là lúc này họ có quyền giật lấy đồng hồ từ cổ tay tôi và đeo vào tay họ? (Chiến lợi phẩm mà, có thể nói như vậy đấy). Hừm... Tôi sẽ phải hỏi Magnum về chuyện đó.
Gã Đa thê và tôi vẫn còn bắt tay nhau, trong khi anh ấy nói thêm:
- Nói nghiêm túc thì lúc này anh đang làm những việc đúng đắn, Jordan ạ. Chào mừng anh đến với Đội Hoa Kỳ.
- Vâng. - Tôi đáp bằng một giọng pha chút mỉa mai. - Tôi chỉ cố làm điều duy nhất tôi có thể làm mà thôi, phải không?
Cả hai cùng trề môi và chậm rãi gật đầu, như thể nói: “Phải, đe dọa kết tội vợ một thằng đàn ông sẽ khiến hắn chẳng còn mấy lựa chọn, thấy chưa!”. Sau đó, Coleman nói:
- Nhưng dù sao tôi cũng rất xin lỗi về vụ việc đầy chất trinh thám này, chúng tôi nghĩ một số bạn bè cũ của anh có thể sẽ tìm cách bám đuôi anh. Cho nên chúng tôi sẽ chở anh lòng vòng quanh khu Brooklyn một lúc để cắt bớt những cái đuôi.
Tuyệt vời! Tôi nghĩ bụng. Chắc chắn đặc vụ OCD có những thông tin mà anh ta không muốn cho tôi biết, ví dụ có người muốn tôi tiêu đời chẳng hạn! Tôi chưa bao giờ có ý nghĩ rằng mình có thể bị ám sát do chuyện làm ăn này, nhưng giờ tôi đã nghĩ đến vấn đề đó, nó sẽ cực kỳ có ý nghĩa với nhiều người, phải vậy không? Trên thực tế, có lẽ tôi chỉ cần ám sát chính mình ngay lúc này và cứu được tất cả những người khác khỏi bị rắc rối. Dĩ nhiên, Nữ Công tước sẽ rất xúc động vì chuyện đó? Nàng sẽ nhảy múa trên nấm mồ của tôi, hát vang điệp khúc “Đó là thứ tiền nhuốm máu! Đó là thứ tiền nhuốm máu!” và sau đó đốt một đống lửa tưởng niệm và quăng tờ giấy đăng ký kết hôn vào lửa.
Chúa ơi, mình phải giữ bình tĩnh! Tôi cần tập trung. Tôi cần tống khứ ả vô lại tóc vàng đó ra khỏi tâm trí mình. Chính hai gã khốn kiếp này mới là đối tượng cần chú ý. Tôi hít một hơi thật sâu và nói:
- Các anh nghĩ ai là người có thể bám theo tôi?
- Tôi không rõ. Thế anh nghĩ ai có thể là người sẽ bám theo anh? - Bệnh nhân OCD nhún vai.
Tôi đáp lại cũng bằng cái nhún vai:
- Tôi không rõ. Tôi đoán là tất cả, phải thế chăng? - Tôi ngừng lại một lúc, sau đó tiếp. - Hoặc là tất cả mọi người trừ vợ tôi. Ý tôi là cô ấy chẳng quan tâm mẹ gì tới việc tôi ở đâu hoặc sẽ đi đâu, miễn sao tôi đừng đến gần cô ấy.
- Thật sao? - Bệnh nhân OCD nói. - Sao anh lại nói vậy?
- Bởi vì cô ấy căm ghét tôi thấy mẹ! Đó là lý do vì sao tôi nói vậy!
Vì đêm trước, nàng đã bảo tôi rằng nàng sẽ không bao giờ làm tình với tôi nữa, tôi tự nhủ.
- Hừ! - Anh ta lẩm bẩm. - Chuyện đó khiến tôi ngạc nhiên đấy. - Hả, vậy sao? Sao lại thế?
Bệnh nhân OCD nhún vai lần nữa.
- Tôi không biết. Cái đêm anh bị bắt, dường như cô ấy thực sự yêu anh. Nói thật, tôi đã hỏi cô ấy có yêu anh không và cô ấy bảo tôi rằng cô ấy có.
- Đúng như vậy. - Gã Đa thê chêm vào.
Tôi nheo mắt, như thể rất bối rối.
- Sao các anh lại hỏi vợ tôi chuyện đó? Ý tôi là như thế không phải là hơi lạc đề lắm sao?
- Àaaaaaaa! - Bệnh nhân OCD lên tiếng. - Có lẽ anh lấy làm ngạc nhiên rằng chúng tôi moi được gì từ một cô vợ nếu cô ta bực mình. Nói thật, đôi khi cô vợ sẽ hét ầm lên: “Chồng tôi giấu tiền dưới tầng hầm ấy! Anh ta ăn gian tiền thuế đấy!” ngay khi chúng tôi còng tay và dẫn anh chồng đi. - Bệnh nhân OCD cười khùng khục trước câu nói đó. - Nhưng vợ anh thì không. Cô ấy chẳng nói gì cả.
- Không một tí gì. - Gã Đa thê tiếp lời. - Ý tôi là tôi có thể nhầm nhưng tôi nghĩ vợ anh vẫn còn yêu anh.
- Tôi không ưa chuyện làm hỏng bữa tiệc, - Coleman đăm chiêu. - song chúng ta cần bắt đầu thôi. Nhưng mà ngửi mùi cứ như, e hèm...
- Phân chó à? - Tôi gợi ý.
- Phải, rất giống. - Anh ta đáp, mở cửa sau phía bên khách và ra hiệu cho tôi lên xe. - Chỉ cần nằm trên ghế và giữ đầu thấp xuống, được không?
Tôi trợn mắt nhìn Bệnh nhân OCD đến vài giây, tự hỏi không biết có phải anh ta đang nói đến khả năng có một tay bắn tỉa đang phục ở ngoài kia, chờ lúc bắn vỡ toang cái đầu của tôi chăng. Nhưng tôi cho rằng đó là một ý nghĩ ngớ ngẩn; nói cho cùng, nếu ai đó muốn ám sát tôi thì sẽ có nhiều thời điểm thuận lợi hơn là khi tôi đang trong tầm bảo vệ của hai đặc vụ FBI.
Vì thế tôi leo lên xe với một cái nhún vai tự tin, cứ thế chúng tôi lên đường, chạy xuyên qua con hẻm nồng nặc mùi xú khí của công viên Sunset. Chúng tôi ngoặt phải rồi trái liên tục, có cả một lần quay ngược trở lại, bởi vì họ đang tìm cách cắt bỏ tất cả những cái đuôi. Trong khi đó, chúng tôi chỉ nói chuyện phiếm vì cả ba đều hiểu rõ rằng thảo luận bất kỳ chuyện gì nghiêm túc mà không có sự hiện diện của luật sư đều là không nên.
Tôi rất ngạc nhiên vì dường như cả hai đều thật sự quan tâm đến chuyện gia đình tôi tan vỡ, đặc biệt là ảnh hưởng có thể có đối với các con tôi. Tôi thấy tinh thần mình phấn chấn hơn khi họ nhắc đi nhắc lại câu chuyện rằng Nữ Công tước thể hiện tình yêu của nàng với tôi như thế nào vào cái đêm tôi bị bắt. Hơn nữa, họ đều tin rằng một khi cú sốc ban đầu qua đi, nàng sẽ lại muốn duy trì cuộc hôn nhân. Nhưng tôi biết họ nhầm, họ không biết Nữ Công tước bằng tôi. Nàng đã quyết định dứt khoát, và sẽ như vậy.
Lúc đến cầu Brooklyn, tinh thần tôi xuống dốc hơn bao giờ hết. Tôi đã hết thời gian và đang tiến rất nhanh đến chỗ không còn đường quay lại. Trụ sở FBI chỉ còn cách không đầy năm phút nữa.
Phải, tôi nghĩ, phía trước là những ngày rất đen tối; tôi tin chắc như vậy. Câu hỏi duy nhất là cái hố này sâu bao nhiêu? Tôi hít một hơi thật sâu và cố gắng lấy lại tinh thần, nhưng chẳng có tác dụng gì cả.
Chỉ lát nữa tôi sẽ phải có mặt ở phố Court.