A wealthy jeweler invited a monk to ride with him and got a chance to hear the dharma.
Một người thợ kim hoàn giàu có đã mời một vị Tỳ kheo đi xe cùng và có duyên lành được nghe pháp.
Once in ancient India a wealthy jeweler was hurrying in his carriage along the highway to Vārāṇasī. Paṇḍu was his name.
Xưa kia, ở Ấn Độ cổ đại, có một người thợ kim hoàn giàu có đang vội vã trên chiếc xe ngựa dọc theo đại lộ để đến xứ Ba-la-nại (Vārāṇasī). Tên ông là Paṇḍu.
There had been a thunderstorm to cool the afternoon, and Paṇḍu was congratulating himself on the excellent weather and on the money he would make the next day from dealing in jewels.
Về chiều, trời bỗng chuyển giông, khí trời trở nên mát mẻ. Paṇḍu đang mừng thầm vì thời tiết dễ chịu và về món lợi mà ông sẽ kiếm được từ việc buôn bán đồ trang sức vào ngày hôm sau.
Looking up for a minute, he noticed a Bhikshu walking slowly ahead on the side of the road. The Bhikshu’s steps were firm, his back was straight; there was an air about him of peace and inner strength. Paṇḍu thought to himself, “If that Bhikshu is going to Vārāṇasī, I’ll ask him if he’ll ride with me. He looks like a saintly man, and I have heard that the companionship of saintly men always brings people good luck.” He told his burly slave Mahādūta to rein in the horses.
Chợt nhìn lên, ông thấy một vị Tỳ kheo đang chậm rãi bước từng bước bên lề đường. Những bước chân của vị Tỳ kheo ấy vững chãi, tướng mạo trang nghiêm; ở thầy toát ra bầu không khí yên bình và nội tâm tràn đầy năng lượng. Paṇḍu thầm nghĩ: “Nếu thầy ấy cũng đến xứ Vārāṇasī, ta sẽ hỏi xem liệu thầy có muốn đi xe ngựa đến đó cùng ta không. Thầy ấy trông như một người thánh thiện và ta nghe nói rằng, đồng hành cùng những người thánh thiện luôn mang lại may mắn cho mọi người.” Thế rồi, ông bảo Mahādūta - người nô lệ khỏe mạnh cho ngựa đi chậm lại.
“Venerable Dharma Master,” said Paṇḍu, opening the door to his carriage, “May I offer you transportation to Vārāṇasī?” “I will travel with you, “The Bhikshu replied, “if you understand that I cannot pay you, for I have no worldly possessions. I can only offer the gift of the Dharma.”
Paṇḍu mở cửa xe ngựa rồi cất tiếng gọi: “Thưa thầy, tôi có thể mời thầy lên xe và cùng tôi đến xứ Vārāṇasī không?” Vị Tỳ kheo đáp lời: “Tôi sẽ đi với ông, nhưng ông hãy hiểu cho, tôi không có lộ phí, bởi vì tôi không có bất cứ tài sản nào trên người. Tôi chỉ có thể lấy giáo pháp làm món quà tặng ông thôi.”
“I accept your terms,” replied the jeweler, who thought of everything as bargains and deals. He made room for the Bhikshu in his carriage.
“Tôi đồng ý với điều kiện của thầy.” Thợ kim hoàn - người luôn coi mọi thứ như những món đồ để mặc cả và giao dịch đáp. Sau đó, ông dọn chỗ trên xe để vị Tỳ kheo ấy ngồi.
As they traveled, the Bhikshu - whose name was Nārada spoke of the law of cause and effect. “People create their own destinies, “he said, “out of what they themselves do. Good deeds naturally bring good fortune, while people who do evil will pay for it sooner or later.”
Trong suốt chuyến hành trình đi đến xứ Vārāṇasī, vị Tỳ kheo tên Nārada đã giảng về luật nhân quả cho người thợ kim hoàn nghe. Thầy nói: “Con người tạo ra số phận của mình từ chính những gì họ làm. Làm việc tốt chắc chắn sẽ mang lại những điều may mắn, còn làm ác sớm muộn gì cũng phải trả giá cho việc làm của mình.”
Paṇḍu was pleased with his companion. He liked to hear good common sense, for he was a practical man, and he also had deep good roots in the Dharma, though he did not know it.
Paṇḍu rất mãn nguyện vì có người bạn đồng hành như vậy. Ông muốn nghe những lẽ phải thường tình trong cuộc sống, vì ông là người sống thực tế và cũng có thiện căn sâu dày với Phật pháp, cho dù ông không biết gì về giáo lý của Phật giáo cả!
The jeweler ordered his slave to tilt the cart loaded with rice, and the Dharma Master admonished him without success.
Người thợ kim hoàn ra lệnh cho nô lệ của mình hất đổ chiếc xe ngựa chở đầy gạo, thầy Tỳ kheo khuyên ngăn nhưng không được.
But he interrupted Nārada rudely when the carriage suddenly jolted to a stop in the middle of the road. “What’s this?” he called out in irritation to his slave Mahādūta. “We’ve no time to waste!” Vārāṇasī was still ten miles distant, and the sun was already sinking in the west.
Tuy nhiên, Pāṇḍu đã ngắt lời của thầy Nārada một cách thô lỗ khi cỗ xe ngựa đột ngột lắc bật lên, dừng ngay giữa đường. Ông giận dữ hét lên với người nô lệ Mahādūta: “Cái quái gì vậy? Chúng ta không còn thời gian để lãng phí nữa đâu!” Vārāṇasī vẫn còn cách đây hơn mười dặm và mặt trời đang lặn dần về phía Tây.
“A stupid farmer’s cart in the road,” the slave growled from the coachman’s seat.
Người nô lệ càu nhàu từ ghế đánh xe: “Xe của một người nông dân ngớ ngẩn đang chắn ở giữa đường.”
The Bhikshu and the jeweler opened the carriage doors and leaned out to look. There blocking the highway was a horse cart loaded with rice. Its right wheel was lying useless in the ditch. The farmer was sitting beside it struggling to repair a broken linchpin.
Thầy Nārada và người thợ kim hoàn mở cửa xe ngựa rồi nghiêng người ra nhìn. Thì ra có một chiếc xe ngựa chở đầy gạo chắn ngang giữa đường. Bánh xe phải của nó bị kẹt dưới mương. Người nông dân đang loay hoay đứng bên cạnh để sửa trục xe bị hỏng.
“I can’t wait! Push his cart off the road, Mahādūta!” Paṇḍu shouted. The farmer leapt up to protest, and Nārada turned to Paṇḍu to ask him to think of some other way, but before either could say a word. the burly Mahādūta had jumped down from his seat, heaved at the horse cart, and tilted it into the ditch. Bags of rice slid off into the mud. The farmer ran yelling up to Mahādūta, but fell silent when he realized that the tall slave had twice his strength. Grinning wickedly, Mahādūta raised his fist; it was plain that he would have enjoyed giving the farmer a beating, if he’d thought his master had time for it.
Paṇḍu hét lên: “Ta không thể đợi thêm được nữa! Đẩy xe của hắn ta sang bên đi, nhanh lên Mahādūta!”
Người nông dân bật dậy phản đối, thầy Nārada quay sang muốn khuyên Paṇḍu nghĩ cách khác nhưng thầy còn chưa kịp nói lời nào, Mahādūta lực lưỡng đã nhảy khỏi chỗ ngồi, ra sức kéo chiếc xe ngựa kia và hất đổ nó xuống mương. Những bao gạo trượt xuống bùn. Người nông dân chạy đến, hét lên với Mahādūta nhưng lập tức im lặng khi nhận ra rằng người nô lệ cao lớn, khỏe mạnh gấp đôi mình. Với nụ cười nham hiểm, Mahādūta giơ nắm đấm lên. Rõ ràng là anh ta rất muốn đánh người nông dân kia, nhưng lại sực nhớ ra rằng chủ nhân của mình không có nhiều thời gian cho việc đó.
As the slave climbed back onto his seat and took up the reins, the Bhikshu stepped down onto the road. Turning to Paṇḍu, he said, “I am rested now, and I am in your debt for the hour’s ride you have given me. What better way could I have to repay you than to help this unfortunate farmer whom you have wronged? By harming him, you have made sure that some similar harm will come to you. Perhaps by helping him I can lessen your debt. Since this farmer was a relative of yours in a previous life, your karma is tied to his even more strongly.”
Khi người nô lệ trở lại chỗ ngồi của mình và nắm lấy dây cương, thầy Tỳ kheo bước xuống xe. Thầy quay sang và nói với Paṇḍu: “Tôi xin dừng lại ở đây. Tôi nợ ông về quãng đường mà ông đã cho tôi đi nhờ. Tôi không còn cách nào tốt hơn để báo đáp ông ngoài việc giúp đỡ người nông dân bất hạnh vừa bị ông ức hiếp. Giống như những tổn hại mà ông đã gây ra cho người nông dân kia, chắc chắn điều tương tự sẽ đến với ông. Có lẽ bằng cách giúp anh ấy, tôi có thể trả bớt nợ cho ông. Vì người nông dân này là quyến thuộc của ông trong kiếp trước, nên nghiệp của ông lại càng ràng buộc với anh ấy hơn.”
The jeweler was astonished. He was not accustomed to being scolded, not even kindly, as the Bhikshu had done. He was even more taken aback by the notion that he, Paṇḍu the rich jeweler, could ever have been related to a rice farmer. “That’s impossible, “he said to Nārada.
Người thợ kim hoàn vô cùng kinh ngạc. Ông không quen bị quát mắng, kể cả có là nhẹ nhàng quở trách như cách thầy Tỳ kheo đối xử với ông. Ông còn sửng sốt hơn khi nghĩ rằng, Paṇḍu - thợ kim hoàn giàu có này mà lại có quan hệ huyết thống với một người nông dân nghèo khổ kia ư? Ông nói với thầy Nārada: “Điều đó là không thể.”
Nārada smiled and said, “Sometimes the smartest people fail to recognize the basic truths about life. But I will try to protect you against the injury you have done to yourself.” Stung by these words, Paṇḍu raised his hand and signaled for his slave to drive on.
Thầy Nārada mỉm cười nói rằng: “Đôi khi người thông minh nhất cũng không nhận ra được những chân lý bình thường trong cuộc sống. Tôi sẽ cố gắng giúp ông thoát khỏi những thương tổn mà ông đã gây ra cho chính bản thân mình.” Tức giận vì những lời này, Paṇḍu đưa tay ra hiệu cho người nô lệ tiếp tục lên đường.
Hearing the Dharma, the farmer comprehended the law of cause and effect.
Sau khi nghe Phật pháp, người nông dân lĩnh hội được luật nhân quả.
Devala, the farmer, had already sat down by the side of the road again to work at repairing his linchpin. Nārada nodded to him and began heaving the horse cart out of the ditch. Devala jumped up to assist, but then he saw that the Bhikshu had far more strength than anyone might have expected from a man with his slight frame. The cart was upright again even before Devala had crossed the road. “This Bhikshu must be a sage,” the farmer thought silently. “Invisible Dharma-protecting gods and spirits must be helping him. Maybe he can tell me why my luck has turned for the worse today.”
Người nông dân tên Devala lại ngồi xuống bên vệ đường để sửa trục xe của mình. Thầy Nārada gật đầu với anh và bắt đầu cố nhấc chiếc xe ngựa ra khỏi mương. Devala nhảy lên để hỗ trợ, nhưng rồi thấy rằng vị Tỳ kheo với thân hình mảnh khảnh ấy có sức mạnh phi thường, hơn hẳn những gì anh tưởng tượng. Chiếc xe được dựng lên, trước cả khi Devala băng qua đường. Devala thầm nghĩ: “Chắc thầy Tỳ kheo này là một bậc hiền thánh. Hẳn là thầy ấy đang được các thánh thần Hộ pháp vô hình theo hộ vệ. Có lẽ bậc hiền thánh này có thể cho mình biết tại sao hôm nay mình lại xui xẻo đến vậy?”
The two men reloaded the bags of rice that Mahādūta had dumped into the ditch, and then as Devala sat down with his linchpin again, he asked, “Venerable Dharma Master, can you tell me why I had to suffer such an injustice today from that arrogant rich man whom I have never seen before? Is there no sense or fairness in this life?
Hai người xếp lại những bao gạo mà Mahādūta đã hất đổ xuống mương, sau đó, Devala tiếp tục ngồi xuống sửa trục xe.
Devala thưa: “Thưa thầy, thầy có thể nói cho tôi biết tại sao hôm nay tôi phải chịu nỗi bất công từ cái người giàu có kiêu ngạo, người mà từ trước đến nay tôi chưa từng gặp? Như vậy liệu còn có nghĩa lý hay công bằng nào trong cuộc đời này nữa không?”
Nārada answered, “What you suffered today wasn’t really an injustice. It was an exact repayment for an injury you inflicted upon this jeweler in a previous life.”
Thầy Nārada trả lời: “Thực ra, những gì anh phải chịu hôm nay không có gì là bất công cả. Đó đích thị là sự đền trả vì những khổ đau mà anh đã gây ra cho người thợ kim hoàn ấy trong nhiều kiếp trước.”
The farmer nodded. “I have heard people say such things before, but I have never known whether to believe them.”
Người nông dân gật đầu thưa: “Tôi đã từng nghe người ta nói những điều như vậy, nhưng tôi không biết có nên tin hay không.”
“It’s not too complicated a thing to believe in,” the Bhikshu said. “We become what we do. By doing good things, a person naturally becomes good, and good things naturally happen to him. The same is true of evil. Evil acts create bad personalities and unfortunate lives. Everything you have thought, said, and done makes up the kind of person you are now, and also contains the seeds of your future. This is the law of cause and effect, the law of karma.”
Thầy Tỳ kheo nói: “Có gì khó tin đâu. Chúng ta nhận lại những gì mình đã tạo ra. Bằng cách làm những điều tốt đẹp, con người tất nhiên sẽ trở nên tốt hơn và mọi việc tốt lành ắt hẳn sẽ đến với chúng ta. Làm điều ác cũng như vậy. Hành động bất thiện sẽ tạo nên một nhân cách xấu và một cuộc đời đầy bất hạnh. Những gì anh đã nghĩ, đã nói hay đã làm không những tạo nên con người của anh trong hiện tại mà còn chứa đựng những hạt giống trong tương lai. Đây là điều tất yếu của quy luật nhân quả - nghiệp báo.”
“That may be, “Devala cried, “but I am not such a bad person, and look what happened to me today!”
Devala bật khóc. Anh nói: “Có lẽ là như thế, nhưng tôi không phải là một người tồi tệ đến vậy. Thầy hãy nhìn tất cả những gì xảy ra với tôi trong ngày hôm nay đi.”
“Isn’t it true, though, friend, “Nārada asked, “that you might have done the same thing to the jeweler today, if he’d been the one who was blocking the road, and you’d been the one with a bully for a coachman?”
Thầy Nārada hỏi: “Tuy nhiên, có đúng vậy không, này Devala, chẳng phải anh cũng sẽ làm điều tương tự với người thợ kim hoàn, nếu ông ấy là người chặn đường và anh sẽ là kẻ bắt nạt người đánh xe ngựa sao?”
Devala was silenced by the Bhikshu’s words. He realized that, until Nārada had come forward to help him, there had been nothing in his mind but thoughts of revenge. Angrily he had been wishing just what Nārada had said: that he could have been the one to overturn the jeweler’s cart and then drive on proudly while the rich man struggled in the mud. “Yes, Dharma Master,” he said. “It is true.”
Những lời thầy Nārada nói khiến Devala im lặng. Anh nhận ra rằng, trước khi thầy Nārada đến giúp, quả thật trong lòng anh chỉ có ý nghĩ trả thù. Trong cơn giận dữ, anh ao ước mình được như những gì thầy Nārada đã nói, rằng anh có thể hất đổ xe của người thợ kim hoàn rồi kiêu hãnh đánh xe đi trong khi người đàn ông giàu có kia phải chật vật trong vũng bùn.
Anh đáp: “Vâng thưa thầy! Tôi đã nghĩ vậy.”
The two men said nothing for a while, until the linchpin was sound again and the wheel remounted on the cart. The farmer was pondering the Bhikshu’s words. Although Devala lacked schooling, he was a thoughtful man who always tried to figure things out and see the reasons behind events. Suddenly he said, “But this is a terrible thing! Now that the jeweler has harmed me, I will do some harm to him. Then he will repay me in kind, and then I’ll come back to get him, and it will never end!”
Cả hai im lặng, cho đến khi trục xe phát ra âm thanh bình thường trở lại và bánh xe được lắp vào. Người nông dân đang suy nghĩ về những lời mà thầy Tỳ kheo nói. Mặc dù không được học hành nhưng anh là một người biết suy nghĩ, luôn cố gắng tìm hiểu mọi thứ và xem xét nguyên nhân đằng sau các sự việc. Đột nhiên anh thốt lên: “Đây quả là điều khủng khiếp! Nay người thợ kim hoàn gây khó dễ cho tôi, tôi làm khó lại ông ta. Rồi ông ta sẽ báo thù tôi, tôi sẽ quay lại trả thù ông ta. Oán thù cứ thế mà kéo dài vô tận.”
“No, it doesn’t have to be that way,” Nārada said. “People have the power to do good as well as evil. Find a way to pay that proud jeweler back with help instead of with harm. Then the cycle will be broken.”
Thầy Nārada nói: “Không, không nhất thiết phải như những gì anh nghĩ. Con người có thể làm cả điều thiện lẫn điều ác. Khi anh lấy sự giúp đỡ để đáp lại người thợ kim hoàn kiêu ngạo kia thay vì gây tổn hại cho ông ấy, vòng luẩn quẩn đó sẽ bị phá vỡ thôi.”
Devala nodded doubtfully as he climbed back on his cart. He believed what the Bhikshu had told him, but he didn’t see how he would ever have an opportunity to carry out his advice. How could he, a poor farmer, find a way to help out a rich businessman? He invited Nārada to sit next to him, and took up the reins.
Devala gật đầu một cách nghi ngại lúc leo lên xe. Anh tin những gì thầy Nārada nói nhưng lại không biết làm thế nào để có cơ hội thực hiện lời chỉ dạy của thầy. Làm thế nào mà một nông dân nghèo như anh lại có thể giúp đỡ một thương nhân giàu có được? Anh mời thầy Nārada ngồi bên cạnh và giật dây cương lên đường.
His horse had not drawn them far, however, when it suddenly shied aside and came to a halt. “A snake on the road!” the farmer cried. But Nārada, looking more closely, saw that it was no snake, but a purse. He stepped down from the cart and picked the purse up. It was heavy with gold.
Tuy nhiên, khi chưa đi được bao xa, con ngựa đột nhiên tránh sang một bên rồi dừng lại. Người nông dân kêu lên: “Có rắn trên đường!” Nhưng thầy Nārada nhìn kỹ hơn và thấy đó là một chiếc túi chứ không phải con rắn. Thầy bước xuống xe nhặt chiếc túi lên. Đó là một chiếc túi chứa đầy vàng.
“I recognize this; it belongs to Paṇḍu, the jeweler,” he said. “He had it in his lap in the carriage. It must have dropped out when he opened the door to look at you. Didn’t I tell him that his destiny was tied to yours?”
Thầy nói: “Tôi biết chiếc túi này. Nó là của Paṇḍu, người thợ kim hoàn. Ông ấy đã để nó trong một cái bọc trên xe ngựa, hẳn là nó đã rơi xuống khi ông ấy mở cửa ra nhìn anh. Không phải tôi đã nói với anh rồi sao, số mệnh của hai người gắn liền với nhau mà.”
He handed the purse to Devala. “Here is your chance to cut the bonds of anger and revenge that tie you to the jeweler. When we reach Vārāṇasī, go to the inn where he is staying and give him his money back. He will apologize for his rudeness to you, but tell him that you hold no grudge and that you wish him success. For, let me tell you, you two are much alike, and you will fall or prosper together, depending on how you act.”
Thầy Nārada đưa chiếc túi cho Devala: “Đây là cơ hội để anh cắt đứt sợi dây sân hận và thù hằn đã trói buộc anh với ông ấy. Khi chúng ta đến Vārāṇasī, anh hãy đến nhà trọ, nơi ông ấy nghỉ chân và trả lại số tiền này. Ông ấy sẽ xin lỗi vì sự thô lỗ của mình, nhưng hãy đáp lại rằng, anh không bận tâm gì cả và hãy chúc ông ấy mua may bán đắt. Bởi vì, tôi sẽ nói cho anh biết, hai người rất giống nhau, cuộc đời của hai người cơ hàn hay thịnh vượng còn tùy thuộc vào cách cư xử của từng người.”
Cruelly beaten without cause, the slave departs in anger.
Vô cớ bị đánh đập tàn nhẫn, người nô lệ bỏ đi trong tức giận.
Devala did as the Bhikshu had instructed him. He had no desire to keep the money. He only wished to be rid of his karmic debt to the jeweler. At nightfall, when they reached Vārāṇasī, he went to the inn where rich men stayed and asked to see Paṇḍu.
Devala làm theo lời chỉ dạy của thầy Tỳ kheo. Anh không muốn giữ số vàng này mà chỉ mong thoát khỏi món nợ truyền kiếp của mình với người thợ kim hoàn thôi. Khi màn đêm buông xuống, họ đã đến Vārāṇasī. Anh đi tới quán trọ nơi những người giàu có nghỉ chân và yêu cầu được gặp Paṇḍu.
“Who shall I say wants him?” said the innkeeper, looking scornfully at the farmer’s country clothes.
“Tôi phải báo rằng ai muốn gặp ông ấy đây?” Bà chủ quán hỏi rồi nhìn bộ quần áo quê mùa của người nông dân một cách khinh bỉ.
“Tell him a friend has come.” Devala said.
“Nói với ông ấy rằng có một người bạn muốn gặp.” Devala đáp.
In a few minutes, Paṇḍu entered the hall where Devala was waiting. When Paṇḍu saw the farmer standing there and holding out his purse to him, he was struck speechless with amazement, shame, and relief. But after staring for a moment, he suddenly ran out of the room again, shouting, “Stop! Stop beating him!”
Một lúc sau, Paṇḍu bước vào đại sảnh nơi Devala đang chờ. Khi nhìn thấy người nông dân đứng đó và đưa túi tiền cho mình, ông không nói nên lời vì ngạc nhiên, xấu hổ lẫn nhẹ nhõm. Song, sau khi nhìn đăm chiêu một lúc, ông lại đột nhiên chạy ra khỏi phòng, la lên: “Dừng lại! Đừng đánh anh ta nữa!”
Devala had heard groans coming from a room nearby he had thought it was someone dying of a fever. But in a moment a tall, burly man staggered into the hall, his bare back red and black with welts and bruises. It was none other than Mahādūta, the jeweler’s slave. A police followed him, with a whip in one hand and a cane in the other.
Devala nghe thấy tiếng kêu rên phát ra từ căn phòng gần đó. Anh nghĩ là ai đó sắp chết vì sốt. Nhưng bỗng một người đàn ông cao lớn, lực lưỡng bước vào đại sảnh, trên tấm lưng trần của anh ta chằng chịt những vết bầm tím. Đó không phải ai khác mà chính là Mahādūta, nô lệ của người thợ kim hoàn. Một người cận vệ theo sau Mahādūta, một tay cầm roi, một tay cầm gậy.
Seeing Devala, Mahādūta started with surprise, and then said hoarsely, “My kind master thought I’d stolen that purse. He had me whipped so that I would confess. This is my punishment for hurting you at his bidding.” And he stumbled out into the night, without a word to his master.
Nhìn thấy Devala, Mahādūta vô cùng ngạc nhiên, rồi nói bằng giọng khàn khàn: “Ông chủ nhân từ của tôi nghĩ rằng tôi đã lấy trộm chiếc túi đó. Ông ấy sai người đánh tôi để tôi phải thú nhận. Đây là hình phạt của tôi vì đã nghe lời ông ấy làm khó dễ cho anh.” Nói rồi, anh ta đi vào màn đêm mà không nói với ông chủ của mình một lời nào.
Paṇḍu watched him go, thinking that he ought to say something to him. But he was too proud to apologize to a slave, especially in front of so many other people.
Paṇḍu nhìn anh ta rời đi, nghĩ rằng mình nên nói gì đó, nhưng ông lại quá sĩ diện để xin lỗi một nô lệ, đặc biệt là trước mặt nhiều người.
The farmer repaid the jeweler’s wrongdoings with aid, and the misunderstanding was resolved.
Người nông dân đáp lại những việc làm sai trái của người thợ kim hoàn bằng sự giúp đỡ và mối bất hòa của họ được hóa giải.
The jeweler still had not greeted Devala, nor taken back his purse. Just as he was about to speak, a portly man dressed in rich silks bustled into the room, saying loudly, “Ah, Paṇḍu, they told me what was happening. Fortune’s wheel turns round and round, does it not? Ten minutes ago it seemed like we were both ruined men, and now all is well again, hmm? Come on, then, take the purse, for heaven’s sake, and thank the good fellow.”
Người thợ kim hoàn vẫn chưa thay đổi thái độ với Devala, cũng chưa lấy lại túi tiền của mình. Ngay khi ông định nói gì đó, một người đàn ông đường bệ khoác trên mình bộ đồ lụa quý tộc vội vã vào phòng và lớn tiếng nói: “Ôi Paṇḍu, họ đã nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra rồi. Vận may đã trở lại, phải không? Mười phút trước có vẻ như cả hai chúng ta là người phá sản nhưng bây giờ mọi thứ đã ổn cả rồi nhỉ? Lạy ơn trời Phật! Nào, hãy cầm lấy túi vàng và cảm ơn người bạn tốt bụng kia đi.”
Paṇḍu took the purse and bowed slightly to the farmer. “I wronged you, and you have helped me in return. I do not know how to repay you.”
Paṇḍu cầm lấy chiếc túi và khẽ gật đầu với người nông dân: “Tôi đã làm chuyện có lỗi với anh, nhưng anh vẫn giúp tôi. Tôi thật sự không biết phải làm sao để báo đáp công ơn này của anh.”
“Why, give him a reward, Paṇḍu, what else?” the fat man boomed. “Give him a reward!”
Người đàn ông bệ vệ kia thốt lên: “Sao, thưởng cho anh đi chứ Paṇḍu. Ông còn chần chờ gì nữa? Hậu tạ anh ấy đi.”
Bowing to Paṇḍu in his turn, Devala said, “I have forgiven you and need no reward. If you hadn’t ordered your slave to overturn my cart, I might never have had the chance to meet the Venerable Nārada and hear his wise teaching, which has benefited me more than any amount of money. I have resolved never to harm any being again, since I don’t want to invite injury in return. This resolve has made me feel safe and in control of my life in a way that I have never felt before.”
Devala gật đầu đáp lại Paṇḍu và nói: “Tôi đã tha thứ cho ông và ông không cần tặng tôi bất cứ thứ gì. Nếu ông không ra lệnh cho người nô lệ kia lật xe của tôi, có lẽ tôi đã không bao giờ có cơ hội được gặp thầy Nārada và nghe những lời dạy trí tuệ của thầy. Điều đó mang lại nhiều lợi ích cho tôi hơn bất cứ của cải nào. Tôi đã quyết tâm không bao giờ làm tổn thương đến bất kỳ ai, vì tôi không muốn vướng phải quả báo không tốt trong tương lai. Việc làm này khiến cho cuộc sống của tôi ngày một an ổn và tôi được làm chủ cuộc đời mình theo cách mà tôi chưa bao giờ cảm nhận được trước đây.”
“Nārada!” said Paṇḍu. “So he has instructed you! He instructed me, too, but I’m afraid I didn’t listen too well... Take this, good man,” he gave Devala some gold from his purse, “and tell me, do you know where the Venerable Dharma Master is staying in Vārāṇasī?”
Paṇḍu thốt lên: “Thầy Nārada! Vậy là thầy đã chỉ dạy cho anh? Thầy ấy cũng đã hướng dẫn cho tôi, nhưng e rằng tôi đã không chú tâm lắng nghe. Xin anh hãy nhận lấy cái này.” Ông chủ kim hoàn đưa cho Devala một ít vàng từ chiếc túi của mình, rồi nói: “Anh có thể nói cho tôi biết, thầy ấy hiện đang ở đâu tại xứ Vārāṇasī này không?”
“Yes, I have just left him at the monastery next to the West Gate,” Devala answered. “In fact, he told me you might want to see him. He asked me to say that you may call on him tomorrow afternoon.”
Devala đáp: “Vâng, tôi biết. Tôi vừa tạm biệt thầy ở thiền viện cạnh cổng phía Tây. Thật ra, thầy Nārada đã nói với tôi là có lẽ ông muốn tìm thầy ấy. Thầy bảo tôi nói với ông rằng ông có thể đến ghé thăm thầy vào chiều ngày mai.”
Paṇḍu bowed again, this time deeply and reverently. “Now I am truly indebted to you,” he said. “And I also believe something else he told me. He said you and I were relatives in former lives and that our fates are tied together. It seems we have even found the same teacher.”
Paṇḍu cúi đầu một lần nữa. Lần này, ông cúi đầu một cách sâu sắc và tôn kính. Ông nói: “Giờ tôi thực sự biết ơn anh và cũng tin vào một số chuyện khác mà thầy đã nói với tôi. Thầy nói rằng anh và tôi là quyến thuộc trong kiếp trước, số phận của chúng ta gắn liền với nhau. Dường như chúng ta đã tìm được vị thầy của đời mình rồi.”
Good fortune came to the farmer as a reward for his good deed.
Vận may đến với người nông dân là kết quả của việc hành thiện.
The fat man had been listening impatiently. “Yes, yes, this high- minded talk is all very well,” he finally cried. “But let’s get down to business!” He turned to Devala. “Let me introduce myself. I am Mallika, the banker, a friend of the good Paṇḍu here. I have a contract with the king’s steward to deliver the best rice for the king’s table, but three days ago my business rival, wishing to destroy my flourishing trade with the king, bought up all the rice in Vārāṇasī. If I don’t deliver tomorrow, I’m ruined. But now, my friend, you are here, and that’s the point! Is your rice of fine grade? Was it damaged by that idiot Mahādūta? How much is there of it? Is it contracted? Speak up!”
Người đàn ông to béo sốt ruột lắng nghe, cuối cùng ông ta la lên: “Vâng, đúng vậy, bài pháp này thật là tuyệt vời, nhưng chúng ta hãy bắt tay vào công việc đi!” Ông ta quay sang Devala: “Để tôi tự giới thiệu, tôi là Mallika - chủ buôn và cũng là bạn của Paṇḍu giỏi giang đây. Tôi có một hợp đồng buôn bán với người hầu cận của nhà vua để cung cấp loại gạo hảo hạng nhất cho bữa tiệc sắp tới của ngài ấy. Song ba ngày trước, vì muốn phá hủy việc buôn bán tốt đẹp của tôi với nhà vua, đối thủ cạnh tranh của tôi đã mua hết gạo ở Vārāṇasī. Nếu ngày mai tôi không giao hàng, tôi sẽ phá sản. Nhưng bây giờ, người bạn của tôi ơi, anh đang ở đây và đó là điều rất quan trọng. Gạo của anh có phải loại tốt không? Mahādūta ngu ngốc kia đã làm hỏng nó chưa? Giá của nó bao nhiêu vậy? Có ai đặt hàng chưa? Anh mau nói đi!”
Smiling at the banker’s eagerness, Devala answered, “I have brought fifteen hundred pounds of first grade rice. Only one bag got a little wet in the mud. None of it is spoken for, and I was planning to take it to the market in the morning.”
Mỉm cười trước sự hăm hở của người thương buôn, Devala trả lời: “Tôi có mang theo 1500 pao* gạo loại thượng hạng. Chỉ có một bao bị ẩm một chút vì rơi xuống bùn thôi. Chưa ai đặt hàng cả và tôi định mang nó ra chợ trong buổi sáng hôm nay.”
* Một pao khoảng 450 gam.
“Splendid! Splendid! To the market, you say?” Mallika cried, rubbing his hands. “I expect you’ll take three times the price that you could get at the market, will you?” “I will,” Devala agreed.
“Tuyệt quá! Tuyệt quá! Anh nói sao, đến chợ?” Mallika xoa tay rồi kêu lên: “Tôi sẽ mua nó với giá gấp ba lần giá mà anh có thể bán ở chợ, anh đồng ý chứ?”
Devala đồng ý: “Được!”
“Of course you will,” the banker beamed. Calling for his servants, he had Devala’s cart unloaded immediately. He made his generous payment to the farmer in gold, saying to Paṇḍu, as he counted the coins into Devala’s hands, “A man never knows where help will come from when he needs it. Never lose hope, for life is indeed a wonderful mystery, isn’t it? There you are, my good sir!” he said to Devala. “Don’t gamble it all away!” Chuckling to himself, Mallika then returned to his dinner.
“Tất nhiên là được rồi.” Ông chủ buôn cười sảng khoái và ngay lập tức gọi người hầu của mình đến dỡ xe hàng của Devala. Ông hào phóng trả vàng cho người nông dân. Vừa đếm những đồng xu vào tay Devala, ông nói với Paṇḍu: “Con người sẽ không bao giờ biết được sự giúp đỡ đến từ đâu khi người ta cần. Đừng bao giờ đánh mất hy vọng vì cuộc sống quả thực là một điều bí ẩn tuyệt vời, phải không nào? Của anh đây, phúc tinh của tôi!”
Ông nói với Devala: “Đừng có đem nó đi đánh bạc hết nhé.” Mallika mỉm cười, sau đó quay trở lại bữa tối.
Devala had no intention of gambling his money away. He had already resolved to go to the monastery where the Venerable Nārada lived and offer half of his profit to the Triple Jewel. The rest he took home and spent carefully as he needed it. From that day on he always prospered. Because of his honesty and wisdom, the people of his village naturally came to consider him their leader.
Devala không có ý định lấy số tiền đó đi đánh bạc. Anh đã quyết định đến tu viện nơi thầy Nārada ở và cúng dường một nửa số tiền mình kiếm được lên Tam bảo. Phần còn lại, anh sẽ mang về nhà và chi tiêu tiết kiệm khi cần thiết. Kể từ đó, anh luôn làm ăn phát đạt. Vì sự trung thực và sáng suốt của mình, người dân trong làng luôn ủng hộ và xem Devala như là trưởng làng của họ.
We are closely related to all other living beings.
Chúng ta có quan hệ mật thiết với tất cả chúng sinh.
The next afternoon, Paṇḍu went to the monastery near the West Gate. Nārada received him in the guest hall. Having heard the jeweler’s account of what had happened at the inn, the Bhikshu said, “You still have many doubts, and so I would prefer not to give you all the explanation that you ask for. You would not accept it. Your faith is not yet as deep as the farmer Devala’s, and you still have to undergo many trials before you become a true disciple of the Buddha.”
Chiều hôm sau, Paṇḍu đến tu viện gần cổng phía Tây, thầy Nārada tiếp ông ở phòng khách. Sau khi nghe người thợ kim hoàn kể lại chuyện đã xảy ra ở quán trọ, thầy Nārada nói: “Ông vẫn còn nhiều nghi ngờ nên tôi không muốn giải thích bất cứ điều gì mà ông muốn hỏi, bởi vì ông vẫn chưa thể chấp nhận được. Đức tin của ông không sâu dày như người nông dân tên Devala và nếu ông muốn trở thành một người đệ tử Phật chân chính, vẫn còn rất nhiều thử thách phía trước để ông vượt qua.”
“Venerable Dharma Master,” said Paṇḍu humbly, “I beg you to give me the explanation you spoke of, so that I will be better able to follow your wise advice.”
Paṇḍu khiêm tốn nói: “Thưa thầy, xin thầy hãy giải thích cặn kẽ những lời mà thầy đã nói để tôi có thể thực hành theo lời dạy trí tuệ của thầy.”
“Very well,” the Bhikshu said. “Then remember what I say and contemplate it well. In the future you may come to understand. I have told you how each and every one of us makes his own destiny, in accordance with what he does. Your rich friend Mallika, for example, has many blessings, though he has little wisdom. He believes that the wheel of fortune, as he calls it, turns round and round mysteriously. But there is no mystery. His prosperity and contentment have nothing to do with any force outside of his own actions, words, and thoughts. In life after life he is wealthy and contented, simply because in life after life he has been kind and generous. I don’t think he would have treated any slave the way you treated your slave Mahādūta.”
Thầy Tỳ kheo đáp: “Lành thay! Vậy thì hãy nhớ những gì tôi nói và suy nghĩ kỹ về nó. Trong tương lai, có thể ông sẽ hiểu. Tôi từng nói với ông rằng số phận của con người do chính hành động của họ tạo ra. Chẳng hạn, người bạn Mallika giàu có của ông. Mặc dù có rất nhiều phước lành nhưng trí tuệ của ông ấy vẫn chưa đủ. Ông ấy tin vào cái gọi là bánh xe vận mệnh đang tiếp tục vận hành một cách bí ẩn. Nhưng có gì là bí ẩn đâu? Sự giàu sang và an lạc của ông ấy hoàn toàn do hành động, lời nói và suy nghĩ của ông ấy tạo ra, không liên quan gì đến bất kỳ thế lực nào bên ngoài. Đời này qua đời khác ông ấy giàu có, như ý đơn giản vì cả đời ông ấy nhân hậu và hào phóng. Tôi không nghĩ ông ấy sẽ đối xử với bất kỳ người nô lệ nào như cách ông đã làm với Mahādūta.”
“Indeed,” Paṇḍu said. “He did try to restrain me. But I was angry and did not listen.”
Paṇḍu nói: “Thật vậy, ông ấy đã cố ngăn cản tôi. Nhưng tôi đã nổi nóng và không nghe lời khuyên can.”
“Yes,” Nārada said, nodding. “And don’t think that you are free of the debt you owe Mahādūta for having had him so cruelly beaten without cause. Don’t think that you are alone in this world, or that your actions have no consequences. Remember that sooner or later your every action, whether good or evil, however small it may be, will be returned to you in kind and in the exact amount. As the saying goes, ‘Plant beans, and you harvest beans; plant melons, and you harvest melons. Goodness brings about good, while evil is repaid with evil.’ Treat all living creatures as you would wish to be treated yourself. Actually, you have no separate self. You are of the same basic substance as all other living beings; and so, in your every thought and act, you are related to them even more closely than the organs of your body are related to each other.
Thầy Nārada gật đầu và nói: “Đúng vậy! Này Paṇḍu, ông đừng nghĩ rằng, ông không nợ Mahādūta sau khi vô cớ đánh đập anh ấy dã man. Đừng nghĩ rằng chỉ có một mình ông sống trong thế giới này và những gì ông gây nên không để lại hậu quả. Hãy nhớ rằng: Mỗi việc làm của ông dù tốt hay xấu, dù nhỏ đến mức nào, sớm muộn gì ông cũng sẽ nhận lại kết quả đúng với bản chất đích thực của việc ông gây ra, không hơn không kém. Giống như câu nói: ‘Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu; làm việc tốt sẽ nhận lại được điều tốt đẹp, còn làm điều xấu ác thì sẽ nhận lại quả báo’, ông mong người khác đối xử với mình như thế nào thì hãy đối xử với mọi người như vậy. Thật ra, không hề có một cái tôi riêng biệt nào cả. Ông và tất cả chúng sinh đều có cùng một bản chất, vì vậy mỗi suy nghĩ hay việc làm của ông đều liên hệ đến tất cả chúng sinh và thậm chí, mối liên hệ đó còn thân thiết hơn cả mối liên hệ giữa các bộ phận trong cơ thể của ông nữa.”
“If you can truly understand this in your heart,” Nārada continued, “you will have no more desire to harm other beings, because you will know that they are the same as you. You will feel their sufferings as your own, and so you will always try to help them. Let this verse guide you:
He who hurts others hurts himself;
He who helps others helps himself even more.
To find the pure Way, the Path of Light,
Let go of the falsehood that you have a self.”
Thầy Nārada nói tiếp: “Nếu tận đáy lòng ông thật sự hiểu điều này, ông sẽ không còn ý muốn làm tổn hại đến những chúng sinh khác nữa. Bởi vì ông biết rằng, tất cả chúng sinh đều giống như ông, khổ đau của họ cũng giống như khổ đau của chính ông vậy. Hãy để bài kệ này dẫn lối cho ông:
Ai tổn thương người khác
Là tổn thương chính mình
Ai giúp đỡ người khác
Người giúp mình nhiều hơn.
Muốn tìm đường thanh tịnh
Con đường của ánh sáng
Hãy bỏ sai lầm rằng
Tự ngã này của ta.”
Paṇḍu rose and bowed down three times to the Dharma Master, something that he had never before done to anyone. Then he said, “I will not forget your words, Dharma Master. I will have a monastery established in my hometown, Kaushambi, so that the people there will have the opportunity to hear the wonderful Dharma. I only hope that the Dharma Master will compassionately help me fulfill my vow.
Paṇḍu đứng dậy và cúi đầu lạy thầy Nārada ba lần, điều mà trước đây ông chưa từng làm với bất kỳ ai. Sau đó ông nói: “Tôi sẽ không quên lời dạy của thầy, bậc thầy tôn kính của tôi. Tôi sẽ xây một thiền viện ở quê hương mình, Kaushambi, để người dân ở đó có cơ hội đến nghe giáo pháp nhiệm màu. Tôi chỉ mong rằng thầy từ bi giúp tôi thành tựu ước nguyện này.”
Although Paṇḍu established the monastery, he did not truly practice the teachings.
Paṇḍu chỉ xây dựng thiền viện, nhưng không chuyên tâm thực hành giáo pháp.
Years passed, and Paṇḍu the jeweler prospered. He took refuge with and became a disciple of Nārada, and was a leading donor and protector of the monastery at Kaushambi he had helped Nārada to found. Whenever his business allowed, he went to listen to Sutra lectures given by the Bhikshu Panthaka, the abbot of the monastery and a senior disciple of Nārada. Paṇḍu always looked forward to receiving Nārada’s instructions whenever he visited town, but he never put the teachings he heard into practice. He told himself that cultivation was the duty of monks and that his own worldly business kept him too busy.
Nhiều năm trôi qua, Paṇḍu - người thợ kim hoàn nay đã làm ăn phát đạt. Ông quy y và trở thành đệ tử của thầy Nārada, đồng thời cũng là người bảo trợ và hộ pháp chủ đạo cho thiền viện tại Kaushambi, thiền viện mà ông đã giúp thầy Nārada thành lập. Bất cứ khi nào công việc kinh doanh không quá bận rộn, ông đều đến nghe thầy trụ trì tu viện là Panthaka, đệ tử lớn nhất của thầy Nārada thuyết pháp. Paṇḍu luôn mong nhận được những lời chỉ dạy của thầy Nārada mỗi khi đến thăm thị trấn, tuy nhiên, ông chưa bao giờ thực hành những lời dạy mà ông đã được nghe vào thực tế. Ông tự nhủ, việc tu hành là nhiệm vụ của các nhà sư, còn việc buôn bán kinh doanh đã khiến cho ông quá bận rộn rồi.
The crown brought disaster upon Paṇḍu, and he had difficulty escaping his retribution.
Chiếc vương miện đã mang tai họa đến cho Paṇḍu. Ông gặp khó khăn trong việc thoát khỏi quả báo của mình.
One day, six or seven years after his first meeting with the Venerable Nārada on the road to Vārāṇasī, Paṇḍu’s workshop received an unusual order. The king of the neighboring country across the mountains desired a new royal crown. He had heard of the beauty of Paṇḍu’s jewel work. The crown was to be wrought in gold and set about with the costliest gems to be found in all of India. Indian kings had always had a weakness for precious stones, and Paṇḍu had often dreamed of becoming the supplier of jewelry to a royal house. Then he would be assured not simply of prosperity, but of great riches. Now his chance had arrived.
Đã hơn sáu năm trôi qua kể từ cuộc gặp gỡ đầu tiên của ông với thầy Nārada trên đường đến xứ Vārāṇasī. Một ngày nọ, xưởng của Paṇḍu nhận được một đơn hàng đặc biệt. Vua nước láng giềng bên kia những ngọn núi muốn có một chiếc vương miện mới. Ngài đã nghe về sự tinh xảo của những món đồ trang sức mà Paṇḍu làm ra. Vương miện được chạm trổ bằng vàng và gắn những viên đá quý giá nhất được kiếm khắp nơi ở Ấn Độ. Các vị vua Ấn Độ rất yêu chuộng những viên đá quý và Paṇḍu thường mơ ước được trở thành nhà cung cấp trang sức đá quý cho hoàng gia. Khi đó, Paṇḍu tin chắc rằng, ông không chỉ có danh tiếng mà sẽ còn rất giàu có. Bây giờ, cơ hội đang gõ cửa với ông.
Paṇḍu immediately sent out orders for the finest sapphires, rubies, and diamonds that could be had. He invested the greater part of his wealth in them. He designed and worked the crown himself. Then, gathering together a strong escort of armed to ensure his safety against robbers in the mountains, he set out for the neighboring kingdom.
Ngay lập tức, Paṇḍu gửi đơn đặt hàng những viên ngọc sapphire, ruby và kim cương tốt nhất có thể. Ông đã đầu tư phần lớn của cải của mình vào chúng. Ông tự thiết kế và tạo ra chiếc vương miện. Sau đó, để đề phòng sơn tặc, ông đã tập hợp một đội hộ tống mạnh mẽ, có vũ khí để đảm bảo cho sự an toàn của mình rồi mới bắt đầu lên đường đến vương quốc lân cận.
All was well until they reached a narrow pass at the mountains’ summit. There, a troop of fiercely yelling brigands descended from the heights. Paṇḍu’s escort was greater in number, but the shying horses and steep sides of the mountain pass hampered the defenders in battle.
Tất cả đều tốt đẹp cho đến khi họ đi vào một con đèo hẹp trên đỉnh núi. Ở đó, một toán cướp la hét dữ dội vọng từ trên cao xuống. Đội hộ tống của Paṇḍu đông hơn nhưng những con ngựa nhút nhát và các sườn núi dốc đứng đã gây cản trở họ trong trận đánh.
In a matter of minutes Paṇḍu’s men were disarmed. Two unshaven and dirty men threw open the door to the jeweler’s carriage, pulled him out, flung him to the ground, and began kicking him and beating him with sticks. Paṇḍu bore the blows, thinking only of the purse that was concealed in his robes, clutching it against his chest. In it lay the crown and a store of other jewels with which he had planned to tempt the king’s daughter and the queen.
Trong phút chốc, đội hộ tống của Paṇḍu đã bị đánh bại. Hai người đàn ông râu ria và thô bạo đã đá văng cánh cửa xe ngựa, kéo Paṇḍu ra, ném ông xuống đất rồi bắt đầu đạp và lấy gậy đánh ông. Paṇḍu chịu đựng những đòn đánh này, ông chỉ nghĩ đến chiếc túi đang được giấu trong áo choàng và ôm chặt nó vào ngực của mình. Trong chiếc túi ấy có vương miện và một số đồ trang sức dự trữ khác mà ông đã lên kế hoạch tặng cho công chúa và hoàng hậu để lấy lòng họ.
The robber chieftain demanded payment of the debt.
Tướng cướp đòi nợ.
“Stop a moment, my boys!” a voice called out, a voice that Paṇḍu had heard before, though at first he could not recall whose it was. “Stop beating him, I said!”
“Các anh em, xin hãy dừng tay!” Một giọng nói cất lên, giọng nói mà trước kia Paṇḍu đã từng nghe, mặc dù lúc đầu ông không thể nhớ ra. “Đừng đánh ông ta, tôi đã nói rồi mà!”
Paṇḍu opened his eyes. There, standing over him, dressed in rough leather clothing, his long hair bound in a kerchief of red silk, was Mahādūta, the slave he’d had whipped years before. Paṇḍu had heard that the greatest of all robber chieftains in the mountains was a former slave from Kaushambi. But it had never occurred to him that the slave might have been his own.
Paṇḍu mở mắt. Đang đứng trước mặt ông là một người mặc bộ quần áo bằng da thô ráp với mái tóc dài được buộc trong một chiếc khăn lụa đỏ. Đó là Mahādūta, người nô lệ mà trước đây ông đã đánh đập. Paṇḍu từng nghe nói rằng thủ lĩnh mạnh nhất của bọn cướp ở vùng núi có xuất thân là nô lệ ở xứ Komshambi. Có điều, ý nghĩ rằng tên tướng cướp đó có thể là nô lệ của mình chưa từng nảy lên trong đầu Paṇḍu.
“See what he’s holding in his right hand,” Mahādūta quietly commanded.
Mahādūta ra lệnh cho đồng bọn: “Xem ông ta đang giữ cái gì trong tay phải.”
One of the men who had been beating him planted his knee on Paṇḍu’s stomach, while the other forced Paṇḍu’s arm away from his chest. The jeweler’s purse was mercilessly pried from his hand.
Một trong những tên cướp đang đánh Paṇḍu ghì đầu gối của mình lên bụng ông, trong khi tên khác giật cánh tay ông ra khỏi ngực. Chiếc túi của Paṇḍu bị giật khỏi tay ông một cách không thương tiếc.
“I’ll take that,” Mahādūta said. “I’ve paid for it already.” He took it and put it inside his jacket. “Have I not, master?” he asked Paṇḍu, his voice full of scorn and bitterness.
Mahādūta nói: “Tôi sẽ lấy nó. Tôi đã từng trả nợ cho nó rồi.” Anh ta lấy chiếc túi của Paṇḍu và cất nó vào trong túi áo choàng của mình. Anh ta hỏi ông, giọng đầy khinh miệt và chua chát: “Phải vậy không, ông chủ?”
“Shall we finish him, then?” one of the robbers asked the chieftain.
Một trong những tên cướp hỏi thủ lĩnh của mình: “Vậy chúng ta sẽ thủ tiêu ông ta chứ?”
Mahādūta looked down at Paṇḍu, but instead of anger or fright, which might have enraged him in turn, he saw only sadness and resignation in his victim’s eyes. He had no way of knowing that Paṇḍu was remembering the Venerable Nārada’s voice saying, as clearly as if he’d heard it yesterday: “Don’t think that you are free of the debt you owe Mahādūta for having him so cruelly beaten without cause. Don’t think that you are all alone in this world and that what you do has no consequences... If you can truly understand this in your heart, you will have no more desire to harm other beings, because you will know that they are the same as yourself. You will feel their sufferings as your own.”
Mahādūta nhìn xuống Paṇḍu, nhưng thay vì thấy sự tức giận hoặc sợ hãi của Paṇḍu - điều mà có thể khiến anh ta điên tiết lên thì đổi lại anh chỉ thấy nỗi buồn và sự cam tâm trong đôi mắt của ông. Anh ta không thể nào biết rằng lúc này, Paṇḍu đang nhớ đến những lời dạy của thầy Nārada những lời chỉ dạy ấy rõ ràng như thể ông chỉ mới nghe thấy ngày hôm qua: “Đừng nghĩ rằng ông không nợ Mahādūta sau khi vô cớ đánh đập anh ấy dã man, đừng nghĩ rằng chỉ có một mình ông sống trong thế giới này và những gì ông gây ra không để lại hậu quả gì. Nếu tận đáy lòng ông thật sự hiểu điều này, ông sẽ không còn ý muốn làm tổn hại những chúng sinh khác nữa, bởi vì ông biết rằng, tất cả chúng sinh cũng giống như ông, khổ đau của họ cũng giống như khổ đau của chính ông vậy.”
Paṇḍu sighed. He suddenly realized that he had never really accepted his teacher’s instructions. He had never truly believed that they applied to him as well as to others. If he was to die now, violently and before his time, with no chance to say farewell to his family, it was all his own doing, it was all his own fault.
Paṇḍu thở dài. Ông chợt nhận ra rằng ông chưa bao giờ thực sự tiếp nhận lời chỉ dạy của thầy Nārada tôn kính. Ông chưa bao giờ thực sự tin rằng chúng áp dụng được cho ông cũng như những người khác. Nếu bây giờ ông chết một cách thảm thương và không còn cơ hội để nói lời từ biệt với gia đình thì đều là do lỗi lầm mà ông đã gây nên.
Not once had he thought about what had happened to his runaway slave Mahādūta. The man’s sufferings in the mountains during the freezing winters, and the desperation and danger of the evil calling that he, Paṇḍu, had pushed Mahādūta into, such considerations had simply never crossed his mind. Now the time of payment had come. He coughed and spoke numbly to Mahādūta, “It’s true. You have paid.” Then he looked away from the robber chieftain and waited for the next blow.
Chưa một lần Paṇḍu nghĩ về những gì đã xảy ra với Mahādūta, người nô lệ đã bỏ trốn của mình. Những khổ đau Mahādūta phải chịu khi ở trên núi trong mùa đông giá rét cùng sự tuyệt vọng và nguy hiểm của tai họa đang xảy đến do chính Paṇḍu đã đẩy anh ta vào, những suy nghĩ như vậy cơ bản chưa bao giờ thoáng qua suy nghĩ của ông. Bây giờ đã đến lúc phải trả giá. Ông ho và nói một cách tê tái với Mahādūta: “Đúng vậy, anh đã trả món nợ này từ trước rồi.” Sau đó, ông rời mắt khỏi người tướng cướp và cam chịu đòn đánh tiếp theo.
To his surprise, Mahādūta told his men: “Let him lie. There is a false bottom in his carriage, underneath the coachman’s seat. Knock it loose and take out the chest of gold pieces that will certainly be there. We’ll divide it equally. This is a great day for all of you.”
Mahādūta rất ngạc nhiên, anh ta nói với những tên cướp khác: “Hãy để ông ta nằm đó. Trong xe ông ta có một cái gác lửng ngay dưới chỗ ngồi của người đánh xe. Các anh hãy đập nó ra và lấy chiếc rương vàng, chắc chắn nó có ở đó. Chúng ta sẽ chia đều. Đây là một ngày tuyệt vời của tất cả mọi người.”
The men jumped up eagerly. But Mahādūta himself felt little joy at his revenge, though he had spent many a cold morning fervently wishing for it. Now that it had come, he felt heaviness and regret, as if he were hurting a member of his own family. He went among his men, telling them to stop beating Paṇḍu’s escort. “Spoils only,” he said.
Những tên cướp nhảy lên háo hức. Nhưng bản thân Mahādūta không hề thấy vui vẻ gì trước sự trả thù của mình, mặc dù anh ta đã từng tha thiết mong ước thực hiện điều này trong những buổi sớm mai rét buốt. Bây giờ nó đã thành sự thật nhưng anh ta lại cảm thấy nặng nề và hối hận như thể bản thân đang làm tổn thương một người thân trong gia đình mình vậy. Anh ta bỏ đi và dặn anh em của mình đừng đánh người trong đội hộ tống của Paṇḍu. Mahādūta nói: “Chỉ cần chiến lợi phẩm.”
“No killing.” And he distracted them with news of the chest of gold which was, indeed wedged behind the false bottom of the carriage, just where Mahādūta himself had hidden it many times in past years.
“Đừng có giết người.” Và anh ta đánh lạc hướng họ bằng tin về chiếc rương vàng nằm nơi gác lửng của xe ngựa, nơi mà chính anh ta đã giấu nó nhiều lần trong những năm qua.
The robber chieftain let Paṇḍu and his men go free down the mountain back to Kaushambi. That evening, when his accomplices were counting the gold and rejoicing, he hid the purse in a crevice in his cave. He didn’t take it out or look at it again for a long time.
Tên tướng cướp đã để Paṇḍu và đội hộ tống của ông tự do xuống núi, trở về Kaushambi. Tối hôm đó, khi đồng bọn đang đếm vàng và ăn mừng thì Mahādūta giấu chiếc túi vào một kẽ hở trong hang động của mình. Trong một khoảng thời gian dài, anh ta không lấy ra để nhìn.
Paying off his karmic debt peacefully, he attained genuine happiness.
Trả xong món nợ nghiệp của mình một cách thanh thản, Paṇḍu có được hạnh phúc thật sự.
After the robbery, Paṇḍu was no longer a rich man. He had lost much of his capital, and without capital a jeweler can do little. But he blamed no one for his losses but himself. “In my younger years I was very hard on people,” he told his family. “What has happened to me now is simply the payment for my harshness and arrogance.” Repenting and cultivating according to the Buddha’s teachings cow came very naturally to him, and he took to reciting the Buddha’s name whenever his mind was not occupied with conversation or business.
Sau vụ cướp ấy, Paṇḍu không còn là một người giàu có nữa. Ông đã mất rất nhiều vốn và nếu một người thợ kim hoàn mà không có vốn thì có thể làm được gì chứ? Nhưng ông không oán trách bất cứ ai về sự tổn hại ngoài bản thân. Ông nói với gia đình của mình rằng: “Khi còn trẻ, tôi đã rất gay gắt với mọi người, những gì xảy ra với tôi bây giờ chỉ đơn giản là trả giá cho tính tàn nhẫn và kiêu ngạo của tôi mà thôi.” Sự sám hối và tu tập theo những lời dạy của Đức Phật giờ đây đối với Paṇḍu rất đỗi tự nhiên. Ông niệm Phật bất cứ lúc nào khi tâm trí không bận rộn với việc xã giao hay chuyện làm ăn.
Gradually he realized that, deep down in his heart, he was happier now than he had been when he was rich. His only regret was that he was no longer able to make so many offerings to the monastery, to support the Dharma, or to help the poor of the town something he had never thought to do much before.
Dần dần Paṇḍu nhận ra rằng, trong sâu thẳm trái tim ông bây giờ còn hạnh phúc hơn so với lúc giàu có. Điều hối tiếc duy nhất của cuộc đời ông bây giờ là ông không còn khả năng cúng dường tu viện, ủng hộ Phật pháp hay giúp đỡ người nghèo khổ trong thị trấn, những điều mà ông chưa từng nghĩ sẽ làm trước đó.
The robbers rebelled and beat the chieftain to the point of dying
Bọn cướp nổi loạn đánh tên thủ lĩnh đến chết.
Again, several years passed by. Then one day Panthaka, abbot of the monastery at Kaushambi, was set upon by Mahādūta’s robber band while walking alone on a pilgrimage across the mountains. Panthaka carried no money, and so Mahādūta beat him briefly and let him go. Panthaka went no further that day.
Lại nhiều năm trôi qua. Một ngày nọ, Panthaka - trụ trì tu viện tại Kaushambi đã bị băng cướp của Mahādūta tấn công khi đang đi một mình trong một cuộc hành hương ngang qua núi. Thầy Panthaka không mang theo tiền, vì vậy Mahādūta đã đánh thầy ấy rồi để thầy đi. Ngày hôm đó thầy Panthaka không thể đi thêm được nữa.
The next morning, before he had walked far, he heard the sounds of men fighting just off the road. One man was roaring in pain. Panthaka hurried to the scene, hoping to dissuade the robbers from beating yet another traveler. But instead of an innocent traveler, it was Mahādūta himself who was being attacked. He stood in the midst of a dozen of his own men like a lion cornered by hounds. His great stick hit several of the other robbers, but at last he himself fell. He was beaten with his own stick until he lay as if dead.
Sáng hôm sau, chưa kịp đi xa, thầy Panthaka đã nghe thấy tiếng của những người đàn ông đánh nhau bên đường. Một người đang rên rỉ vì đau đớn. Thầy Panthaka vội đến đó, hy vọng có thể ngăn cản những tên cướp đánh những lữ khách khác. Nhưng thay vì một vị khách vô tội nào đó, người bị đánh lại chính là Mahādūta. Anh ta đang bị đồng bọn của mình bao vây và đánh đập. Nhìn Mahādūta lúc này như một con sư tử bị lũ chó săn dồn vào chân tường. Chiếc côn lớn của anh ta đã đánh trúng một vài tên cướp khác, nhưng anh ta dần lép vế trước chúng. Cuối cùng, Mahādūta đã bị đánh bằng chính cây côn của mình cho đến khi nằm vật ra như chết.
Panthaka stayed hidden till the robbers left. Then he found that Mahādūta had little life left. Panthaka walked down to the stream that ran among the rocks nearby. He filled his bowl with fresh water and brought it to the dying man.
Thầy Panthaka ẩn núp cho đến khi bọn cướp rời đi. Lúc đó, thầy thấy Mahādūta chỉ còn chút sức tàn. Thầy Panthaka đi đến con suối đang chảy giữa những tảng đá ở gần đó, đổ đầy nước suối vào bát của mình và mang đến cho người tướng cướp sắp chết uống.
Mahādūta drank a little and slowly opened his eyes. He groaned and cried out, “Where are those rotten thieves that I have led to victory time after time?
They’d have been hanged long ago if it weren’t for me!”
Mahādūta hớp một chút nước rồi từ từ mở mắt. Anh ta rên rỉ và kêu khóc: “Những tên cướp khốn kiếp mà tôi đã dẫn dắt bọn chúng đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác đâu? Nếu không có tôi, chúng đã bị treo cổ chết từ lâu rồi.”
The Dharma Master came to the rescue and advised the chieftain to repent of his offenses.
Thầy Panthaka ra tay cứu giúp và khuyên Mahādūta sám hối những tội lỗi của mình.
“Calm down.” Panthaka said. “Don’t think of your comrades, or of the evil road you have taken together. Think of your own fate and drink this water, and let me dress your wounds. Perhaps your life can still be saved.”
Thầy Panthaka nói: “Bình tĩnh, đừng nghĩ về đồng bọn của mình hay con đường bất lương mà các anh đã cùng nhau đi nữa. Hãy thương lấy chính mình và uống hớp nước này đi, rồi để tôi băng bó vết thương cho anh. Có lẽ anh vẫn còn có thể cứu chữa được.”
For the first time Mahādūta looked closely at Panthaka. “You are the monk to whom I gave a beating only yesterday! And now you have come to save my life. You shame me.” He drank some more water and looked around him. “And the others have run off, the ungrateful hounds! I was the one who taught them to fight, and now they have turned on me.”
Lần đầu tiên Mahādūta nhìn kỹ thầy Panthaka. Anh ta nói: “Thầy là nhà sư mà tôi đã đánh ngày hôm qua! Và bây giờ thầy lại đến cứu mạng tôi. Thầy làm tôi cảm thấy thật xấu hổ.” Anh ta uống thêm một ít nước rồi nhìn xung quanh: “Và những kẻ kia đã bỏ chạy, lũ chó săn vô ơn! Tôi đã dạy chúng chiến đấu và bây giờ chúng dùng chính cách đó để tấn công tôi.”
“You taught them to fight,” Panthaka said, “and they have repaid you by fighting. If you had taught them kindness, they would have repaid you with kindness. You have reaped the harvest that you planted yourself.”
Thầy Panthaka nói: “Anh đã dạy họ chiến đấu và họ đã đáp lại anh bằng cách chiến đấu. Nếu anh dạy họ lòng tốt, họ sẽ báo đáp lại bằng lòng tốt. Anh đã thu lại được thành quả do chính anh gieo trồng.”
“What you say is true. I’ve often been afraid they would turn on me - ah! ah!” He groaned as Panthaka tried to lift him by the shoulder.
“Thầy nói đúng lắm. Tôi thường lo sợ họ sẽ phản bội tôi. A! A!” Mahādūta rên rỉ khi thầy Panthaka cố gắng nâng vai anh ta dậy.
“I don’t think you can save my life. But tell me, if you can, how I can be saved from the pains of the hells, which I know I deserve as payment for my evil life. Lately I have felt that my death cannot be far off, and the dread of what will come after has weighed like a heavy stone on my chest, so that sometimes I’ve hardly been able to breathe.”
“Tôi không nghĩ rằng thầy có thể cứu mạng tôi. Nhưng nếu có thể, xin hãy cho tôi biết, làm thế nào để tôi có thể thoát khỏi những khổ đau chốn Địa ngục, nơi mà tôi biết tôi đáng phải đọa vào để trả giá cho cuộc đời tội lỗi của mình. Gần đây, tôi cảm thấy cái chết đang đến gần và nỗi sợ hãi về những gì sẽ xảy ra sau đó như một tảng đá đè nặng trên ngực khiến tôi không thể thở nổi.”
“Sincerely repent of your offenses and reform,” Panthaka said. “Root out the greed and hatred from your heart, and fill it instead with thoughts of kindness for all beings.”
Thầy Panthaka nói: “Thành tâm hối cải những tội lỗi của mình và nguyện sửa đổi. Hãy nhổ sạch gốc rễ của tham lam, sân hận, ngu si trong lòng mình và lấp đầy nó bằng những ý niệm về lòng từ bi dành cho tất cả chúng sinh.”
“Alas, I know nothing of kindness,” Mahādūta said. “My life has been a story of much evil and no good. I will go to the hells and never escape along the noble Path that you have walked, Dharma Master!”
Mahādūta nói: “Trời ơi! Tôi nào có biết gì về lòng tốt. Cuộc đời tôi đầy ắp những chuyện ác và bất thiện. Tôi sẽ bị đọa xuống Địa ngục và không bao giờ có thể thoát khỏi để đi theo con đường cao quý mà thầy đang đi, thầy Panthaka!”
A thought of selfishness broke the spider’s thread.
Một ý niệm ích kỷ đã làm đứt sợi tơ nhện.
“Don’t despair,” Panthaka answered, “and don’t underestimate the power of repentance and reform. It is said:
A single heartfelt thought of repentance can wipe away ten thousand eons’ worth of evil.
“For example, do you know of the great robber Kandata, who died unrepentant and fell into the Unintermittent Hells? After he had been suffering there for several eons, Shakyamuni Buddha appeared in the world and accomplished enlightenment beneath the Bodhi tree.
Thầy Panthaka trả lời: “Đừng tuyệt vọng, đừng xem thường sức mạnh của sự hối cải và sửa đổi. Chư Phật dạy: ‘Chỉ một niệm thành tâm sám hối có thể quét sạch tội ác lớn trong ngàn vạn kiếp.’ Chẳng hạn như, anh có biết về kẻ cướp nổi tiếng Kandata, người đã không biết ăn năn lúc chết và bị đọa thẳng xuống Địa ngục Vô Gián không? Sau đó anh ta đã phải chịu nhiều đau khổ nhiều kiếp ở Địa ngục, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trên thế gian này và đạt giác ngộ dưới cội Bồ đề.
“The rays of light that shone forth from between his brows at that moment penetrated all the way to the hells and inspired the beings there with new life and hope. Looking up, Kandata saw the Buddha seated in meditation beneath the Bodhi tree, and he cried out, ‘Save me, save me, World Honored One! I am suffering here for the evils I have done, and I cannot get out! Help me walk the Path you have walked, World Honored One!
Lúc đó, hào quang được phát ra từ giữa ấn đường Ngài chiếu sáng đến tận Địa ngục và soi dẫn cho những chúng sinh ở đó về một kiếp sống mới đầy hy vọng. Kandata ngước lên nhìn thấy Đức Phật đang ngồi thiền định dưới cội Bồ đề, anh ta kêu lên: ‘Cứu con với, cứu con, Đức Thế Tôn! Con đang đau khổ nơi đây vì những nghiệp ác mà con đã tạo ra, con không thể thoát ra khỏi nơi tăm tối này. Xin hãy dẫn dắt con theo con đường mà Ngài đang đi, Đức Thế Tôn.’
“The Buddha looked down and saw Kandata. ‘I will guide you in your escape,’ he said to the robber, ‘but it must be with the help of your own good karma. What good did you do, Kandata, when you were in the world of men?’
Đức Phật nhìn xuống và thấy Kandata. Ngài nói với anh ta: ‘Ta sẽ chỉ ra lối thoát, nhưng điều đó phải nhờ vào những thiện nghiệp của ngươi. Này Kadanta, ngươi đã làm được những việc tốt đẹp nào khi còn trên dương thế?’
“Kandata remained silent, for he had been a cruel man. But the World Honored One, with his Buddha Eye, contemplated Kandata’s past. He saw that once when Kandata was walking along a forest path, he had stepped aside to avoid crushing a spider beneath his feet, thinking: ‘The spider hasn’t hurt anyone. Why should I step on him?’
Kadanta vẫn im lặng vì anh ta là một kẻ tàn bạo. Nhưng Đức Thế Tôn với Phật nhãn đã quán chiếu kiếp quá khứ của Kandata. Ngài thấy, có một lần khi Kandata đang đi dọc theo một con đường rừng, anh ta đã bước sang một bên để tránh đè bẹp con nhện dưới chân mình và nghĩ rằng: ‘Con nhện không làm hại ai cả. Tại sao mình phải giẫm lên nó?’
“Having seen that, the Buddha sent a spider to spin a thread of gossamer down to the Unintermittent Hells.
Thấy vậy, Đức Phật phái một con nhện quay tơ thẳng xuống Địa ngục Vô Gián.
“Take hold of my thread,” the spider said, “and climb up!”
Con nhện nói với Kandata: ‘Hãy nắm lấy dây tơ của tôi rồi leo lên.’
“Kandata eagerly grabbed the gossamer and started to pull himself up.
Kandata hăm hở nắm lấy sợi tơ nhện và leo lên.
“The gossamer held fast. He climbed quickly, higher and higher. Suddenly he noticed that the spider’s thread was trembling, as if under a new weight.
Giữ chặt sợi tơ nhện, anh ta nhanh chóng leo lên, càng lúc càng cao. Đột nhiên, anh ta nhận ra sợi tơ nhện đang rung lên như thể bên dưới có sức nặng mới vậy.
“Kandata glanced down. He saw that other hell-beings had grasped hold of the thread and were climbing up after him. The string stretched out, but did not break.
Kandata nhìn xuống. Anh ta thấy những chúng sinh Địa ngục khác đã nắm được sợi tơ nhện và đang leo lên phía sau. Sợi tơ càng lúc càng căng ra nhưng nó vẫn không bị đứt.
“More and more hell-beings were taking hold of the wispy thread. Kandata no longer looked up at the Buddha; instead, he fearfully watched the hell-beings following him below.
Càng lúc càng có nhiều chúng sinh nắm lấy sợi tơ mỏng manh. Kandata không còn nhìn lên Đức Phật nữa mà thay vào đó, anh ta sợ hãi nhìn xuống những chúng sinh nơi Địa ngục đang leo theo anh ta ở bên dưới.
“He stopped climbing. ‘How can the gossamer carry everyone?” he thought. ‘This string is mine!’ he shouted downwards. ‘Let go, all of you! Let go! It’s mine!’
Kandata ngừng leo. Anh ta nghĩ: ‘Sao sợi tơ nhện này có thể đưa tất cả mọi người thoát ra ngoài được?’ Thế là, Kandata bèn hét xuống phía dưới: ‘Mọi người buông ra! Buông ra! Nó là của tôi!’
“Immediately the thread broke. Kandata and all the others fell back into the hells.
Ngay lập tức, sợi tơ nhện bị đứt. Kandata và tất cả những người khác lại rơi xuống Địa ngục.”
After repenting sincerely, Mahādūta died in peace.
Sau khi thành tâm sám hối, Mahādūta đã qua đời trong thanh thản.
“Kandata’s repentance wasn’t true,” Panthaka said to Mahādūta. “He did not reform. The spider’s gossamer would have held, for even one generous thought has the strength to be a lifeline that saves thousands. But Kandata destroyed the gossamer. He still held onto the illusion of self, and his evil habits were too strong. He was not willing to help anyone else. Even the World Honored One couldn’t save him.”
Thầy Panthaka nói với Mahādūta rằng: “Sự sám hối của Kandata không chân thành. Anh ta không biết hối cải. Đáng lẽ Kandata đã có thể giữ lại được sợi tơ nhện, bởi chỉ cần một tâm lượng rộng lớn cũng đủ sức để trở thành một sợi dây cứu sống hàng ngàn chúng sinh. Nhưng Kandata đã phá hủy nó. Anh ta cứ ôm chặt sự vô minh vào mình, những tập khí ác của anh ta quá mạnh. Anh ta không sẵn lòng giúp đỡ bất cứ ai. Thậm chí ngay cả Đức Thế Tôn cũng không thể nào cứu được anh ta.”
“Let me think and find that thread of gossamer!” cried Mahādūta. “If there is some good I can do, I won’t try to keep it to myself.”
Mahādūta bật khóc: “Hãy để tôi suy nghĩ rồi đi tìm sợi tơ nhện đó. Nếu có điều gì tốt đẹp mà tôi có thể làm được, tôi sẽ không cố giữ cho riêng mình.”
The two men were silent for a while. Panthaka washed Mahādūta’s wounds. The robber chieftain breathed more peacefully. Finally he said, “There is one ‘good’ thing that I did once, if you can call stopping from doing more evil good.”
“You can,“ said Panthaka.
Hai người im lặng một lúc, Panthaka rửa vết thương cho Mahādūta. Tên tướng cướp đã bắt đầu thở nhẹ nhàng hơn. Cuối cùng anh ta nói: “Có một điều tốt mà tôi đã từng làm, thưa thầy, ngừng làm điều ác có được xem là một việc tốt không?”
“Có chứ!” Thầy Panthaka nói.
“Yes, and one good thing I still can do. Would you, by any chance, know Paṇḍu, the rich jeweler from Kaushambi?”
“Vâng và một việc tốt khác tôi vẫn có thể làm. Thầy có từng nghe về Paṇḍu, người thợ kim hoàn giàu có ở Kaushambi không?”
“I am from Kaushambi, and I know him well,” Panthaka said, “though he’s no longer rich.”
Thầy Panthaka nói: “Tôi đến từ Kaushambi và tôi biết rất rõ về ông ấy, thế nhưng bây giờ ông ấy không còn giàu có như trước nữa rồi.”
“Isn’t he? I’m sorry to hear that. Strange, you’d think I’d be glad, for he was the one who taught me to be high-handed with people and to oppress them. When I was a young slave, he sent me to learn fighting skills from a wrestler, so that I could be his bodyguard. Whenever I bullied people, he rewarded me. His heart was as hard as flint. He had me whipped once. It was then that I ran away to the mountains. But people have told me that he has changed, and that he is known far and wide for his kindness and benevolence! Such a thing is hard to conceive of. Is it true, Dharma Master?”
“Phải ông ấy không? Tôi rất tiếc khi nghe điều đó! Lạ thật, thầy có nghĩ tôi sẽ vui không, vì ông ấy là người đã dạy tôi phải hống hách và áp bức mọi người. Lúc tôi còn là một nô lệ trẻ tuổi, ông ấy đã gửi tôi đi học kỹ thuật chiến đấu từ một đấu sĩ để tôi có thể làm cận vệ cho ông ấy. Mỗi khi tôi áp bức ai đó, ông ấy thường rất vui vẻ và thưởng cho tôi. Trái tim Paṇḍu cứng như sắt đá. Ông ấy đã từng đánh đuổi tôi một lần. Chính lúc đó tôi đã bỏ chạy lên núi. Nhưng tôi nghe nói Paṇḍu đã thay đổi rồi. Ông ấy được khắp mọi nơi biết đến vì lòng nhân từ và rộng lượng. Thật khó để tưởng tượng ra điều đó, đúng không thầy Panthaka?”
“It’s true,” Panthaka said. “The power of sincere repentance is indeed inconceivable. Every time I see it, it amazes me anew.”
Thầy Panthaka đáp: “Đúng vậy! Sức mạnh của sự thành tâm sám hối quả thật là điều không thể nghĩ bàn. Mỗi lần nghĩ về điều đó, tôi luôn cảm thấy kinh ngạc.”
“I plotted many times how I would have my revenge on that man,” Mahādūta continued. “I intended to torture him, just as he had me tortured. And he did fall into my hands at last. But when I saw his face as he lay there on the road, clutching his jewels to his chest, resigned to his death, I couldn’t do it, Dharma Master. I felt as if I would be torturing my own brother.”
Mahādūta tiếp tục: “Tôi đã nhiều lần lập mưu hãm hại Paṇḍu. Tôi định tra tấn ông ấy như ông ấy đã từng tra tấn tôi. Cuối cùng, ông ấy cũng rơi vào tay tôi. Song, khi nhìn thấy khuôn mặt lúc nằm ôm khư khư của cải vào ngực mà cam chịu cái chết của ông ấy, tôi không thể xuống tay được. Cảm giác của tôi lúc đó như đang hành hạ chính anh trai của mình vậy.”
“All men are brothers,” Panthaka said. “Every man has been your father in some life past, and every woman your mother. And with this man you have affinities that are especially strong, both for good and for evil.”
Panthaka nói: “Tất cả mọi người đều là anh em. Trong quá khứ, tất cả đàn ông đều là cha của ta, tất cả phụ nữ đều là mẹ của ta. Và cho dù tốt hay xấu, anh với người này cũng đã có những mối quan hệ rất bền chặt với nhau.”
Mahādūta nodded. “It must be so. I took his jewels and his gold that day, but I let him and all his bodyguards go. His gold I gave to my men, so they wouldn’t mind my calling off the violence. But his jewels I have with me still, hidden in a crevice in my cave. For some reason I couldn’t part with them. It wasn’t only that a crown like that would be hard to dispose of. I also felt that I had to save them for something. I didn’t know for what. Now I’m glad I did.”
Mahādūta gật đầu: “Chắc hẳn là vậy! Hôm đó, tôi đã lấy vàng bạc châu báu của Paṇḍu, nhưng tôi đã thả ông ấy và các cận vệ đi. Tôi chia cho các anh em của mình số vàng của ông ấy để họ không nhận ra tôi đã cố tình ngăn cản việc đánh đập. Nhưng những món đồ trang sức của ông ấy thì tôi vẫn còn giữ và giấu nó ở một kẽ hở trong hang động của tôi. Chẳng hiểu vì sao tôi không thể chia chúng, không hẳn chỉ là vì khó để phân chia một chiếc vương miện mà là vì tôi cảm thấy, tôi cần phải bảo vệ chúng vì một điều gì đó. Tôi cũng không biết để làm gì, nhưng bây giờ tôi lại rất vui vì đã làm điều đó.”
Mahādūta paused a moment, then turned to Panthaka. “Do this for me, Dharma Master. My cave is behind a tall cedar by the stream a half-mile above us. You can see the broad top of the cedar from the road. Paṇḍu’s crown and his jewels are in the vertical crevice just to the left of the entrance. You must reach straight in, then up to the right. Can you remember that?” “I can.”
Mahādūta dừng lại một lúc rồi quay sang Panthaka: “Hãy giúp tôi làm điều này, thưa thầy Panthaka. Hang động của tôi nằm phía sau một cây tuyết tùng cao bên dòng suối cách chúng ta nửa dặm. Từ con đường này, thầy có thể nhìn thấy đỉnh cao của cây tuyết tùng. Vương miện và đồ trang sức của Paṇḍu nằm trong khe thẳng đứng, bên trái của lối vào. Thầy phải đi thẳng vào bên trong rồi rẽ bên phải. Thầy có thể nhớ không?”
“Tôi có thể!”
“Don’t go there yourself. Tell Paṇḍu to come with thirty armed men. My men are fewer now, and without me they will lose heart. Paṇḍu will overcome them easily. Tell Paṇḍu I’m sorry. I wish him to have his wealth again. I wish all men wealth and happiness, all the wealth and happiness that I have taken from them. If I live, or in my next life, I vow to be like you, Venerable Dharma Master, and be a helper of men caught in the web of sorrow they have created by their own foolish deeds.”
“Đừng tới đó một mình. Thầy hãy bảo Paṇḍu đi cùng với 30 người có mang theo vũ khí. Người của tôi bây giờ ít hơn và không có tôi, chúng sẽ mất dũng khí chiến đấu. Paṇḍu sẽ chế ngự chúng một cách dễ dàng. Nói với Paṇḍu rằng tôi thật lòng xin lỗi ông ấy. Tôi mong ông ấy lấy lại của cải của mình. Tôi cầu mong mọi người giàu có và hạnh phúc, tất cả sự giàu có và hạnh phúc tôi đã cướp đi của họ. Nếu tôi còn sống hay được tái sinh ở kiếp sau, tôi nguyện sẽ sống như thầy, thầy Panthaka! Tôi sẽ làm người trợ giúp cho những ai đang mắc kẹt trong chuỗi khổ đau do chính họ tạo ra bởi những hành động vô minh của mình.”
Exhausted, Mahādūta fell back. He now felt no pain from his wounds, but his life was ebbing away. Suddenly a joyous smile swept into his face. He raised his hand, pointing upward. “See! The Buddha is there on his couch, about to enter Nirvana. His disciples, the great Arhats, are standing around him. See! He is smiling at me!” Mahādūta’s face was bright with happiness.
Kiệt sức, Mahādūta gục xuống. Bây giờ anh ta không cảm thấy đau đớn vì vết thương của mình, nhưng sự sống của anh ta đang dần biến mất. Đột nhiên, một nụ cười hạnh phúc hiện rõ trên khuôn mặt Mahādūta. Anh ta đưa tay chỉ lên trên: “Thấy không! Đức Phật ngự trên sàng tọa, sắp nhập Niết Bàn. Các đệ tử của Ngài, các bậc đại A-la-hán đang đứng xung quanh Ngài. Nhìn xem! Ngài đang mỉm cười với tôi!” Khuôn mặt của Mahādūta tươi sáng, tràn đầy hạnh phúc.
“What a wonderful blessing to us that he came into the world!” “Yes, it was a blessing,” Panthaka said. “He appeared in the world out of compassion for living beings, in order to instruct us in the one great matter: the problem of birth and death. He taught us to awaken to the suffering of this world, and he taught us that selfish desire is the source of our suffering. He taught us how to end our suffering by following him on the Proper Path. He taught us morality, concentration, and wisdom to put our greed, anger, and delusion to rest. He himself, through lifetimes of cultivation and renunciation, put to rest all his own desires, and with kindness, compassion, joy, and giving he came to give us himself as an example. If all men and women could take refuge in him, this world would no longer be the poor and dangerous place that it is now.”
“Thật là một phước lành thù thắng cho chúng ta khi Ngài đến với thế gian!”
“Đúng vậy, thật may mắn!” Thầy Panthaka nói: “Ngài xuất hiện ở đời vì lòng bi mẫn dành cho chúng sinh, để khai thị một đại sự nhân duyên: Vấn đề sinh tử. Ngài dạy chúng ta phải thức tỉnh trước những nỗi đau khổ của thế gian này và chỉ rõ cho chúng ta biết ham muốn vị kỷ chính là nguồn gốc của khổ đau. Bên cạnh đó, Ngài còn dạy cho chúng ta phương pháp chấm dứt những nỗi thống khổ bằng cách đi trên con đường chân chính, Ngài dạy chúng ta về giới, định, tuệ để đoạn trừ tham, sân, si. Chính Ngài đã trải qua nhiều kiếp xuất gia tu tập, từ bỏ mọi tham muốn của bản thân và với lòng từ bi, hỷ xả, Ngài đã lấy bản thân làm gương cho chúng ta. Nếu mọi người có thể quay về nương tựa vào Đức Phật thì thế gian này sẽ không còn là nơi bất hạnh và nguy hiểm như bây giờ nữa.”
Mahādūta nodded. He drank in the Bhikshu’s words like a thirsty man who is given cool water. He tried to speak, but could not continue. Understanding his request, Panthaka spoke the Three Refuges for him, so that he became a disciple of the Triple Jewel. Panthaka then repeated for him the Four Great Vows of the Bodhisattva:
Living beings are boundless; I vow to save them.
Afflictions are endless; I vow to cut them off.
Dharma-doors are countless; I vow to study them.
The Buddhas’ Way is unsurpassed; I vow to achieve it.
Mahādūta gật đầu. Anh ta uống từng lời pháp của thầy Panthaka như người khát được uống nước mát. Anh ta cố gắng nói gì đó nhưng lại bất lực. Hiểu được yêu cầu của Mahādūta, thầy Panthaka giảng về Tam bảo, để anh ta trở thành đệ tử của Ba ngôi báu. Sau đó thầy Panthaka nói cho anh ta bốn đại nguyện của Bồ tát:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
He also repeated three times the repentance verse of Universal Worthy Bodhisattva:
Of all evil I have done in the past,
Caused by beginningless greed, hatred, and stupidity
And produced by body, mouth, and mind
I now repent and reform.
Thầy cũng lặp lại bài kệ sám hối của Đức Bồ tát Phổ Hiền ba lần.
Con xưa đã tạo bao nghiệp ác
Đều do vô thủy tham, sân si
Từ thân khẩu ý phát sinh ra
Bây giờ nguyện sám hối và sửa đổi.
And this verse:
Offenses arise from the mind; repentance is done by the mind.
When the mind is extinguished, offenses are forgotten.
Offenses extinguished and the mind forgotten both empty:
That is called true repentance and reform.
Và bài kệ:
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám
Tâm tịnh rồi tội diệt theo
Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không
Thế mới thật là chân sám hối.
As Panthaka was reciting it, Mahādūta breathed his last. He died with a smile on his face.
Khi thầy Panthaka đang niệm, Mahādūta trút hơi thở cuối cùng. Anh ta qua đời với nụ cười nở trên môi.
With true repentance, the robber crossed others over even after his death.
Với sự thành tâm sám hối, tướng cướp Mahādūta đã thay đổi được người khác ngay cả sau khi chết.
Panthaka postponed his pilgrimage and returned to Kaushambi. He went immediately to Paṇḍu’s house to tell him of what had happened. Gathering an escort of armed men, Paṇḍu returned to the mountains. Mahādūta’s men had already fled. Paṇḍu’s purse was hidden exactly where Mahādūta had said it would be, and the crown was within it, unharmed.
Thầy Panthaka hoãn cuộc hành hương của mình và trở về Kaushambi. Thầy lập tức đến nhà Paṇḍu để kể cho ông nghe về những gì đã xảy ra. Paṇḍu liền tập hợp một đội hộ tống có vũ khí trở lại vùng núi. Vừa đến nơi, nhóm người của Mahādūta đã bỏ trốn, túi vàng của Paṇḍu được giấu đúng nơi mà Mahādūta đã nói và chiếc vương miện vẫn ở bên trong, không hề bị tổn hại.
Panthaka came with them, and when the body of Mahādūta had been burned and the ashes collected in urns, Panthaka led the assembled company in the recitation of Sutras and mantras. He spoke briefly of the power of karma and of the even greater power of repentance and reform. He also quoted this verse:
No one can save us but ourselves.
Our strength is greater then that derived from others.
We ourselves must walk the road to Proper Enlightenment
With the Buddha as our Great Teacher and Guide
Thầy Panthaka đi cùng họ. Sau khi thi thể Mahādūta được hỏa táng và tro cốt được để vào trong chiếc hũ đựng, thầy Panthaka đã dẫn chúng Tăng đến trì tụng kinh chú. Thầy nói vắn tắt về năng lực của nghiệp và sức mạnh thù thắng của việc sám hối và sửa đổi. Thầy cũng trích dẫn bài kệ:
Không ai có thể cứu chúng ta ngoài chính bản thân mình.
Sức mạnh của chúng ta lớn hơn sức mạnh của người khác.
Chính chúng ta phải đi trên con đường đạt được giác ngộ đích thực
Với Đức Phật - Người thầy vĩ đại, người chỉ đường cho chúng ta.
“Our Elder Master Nārada,” Panthaka continued, “has always stressed that we alone are responsible for our own actions, and that we are responsible for what happens to us as a result of our actions. No god or any other being rewards or punishes us. We reward ourselves; we punish ourselves. Everything arises from the mind, and so the world is exactly how we create it. This man Mahādūta, whom we have buried today, led an evil life, guided by evil thoughts, and knew nothing but unhappiness. Yet at the end he changed. His repentance and vows of reform moved the Buddha himself to appear to him and give him his blessing. His life ended with a deed of forgiveness, and he died as a happy man. We can all learn from his example, for none of us is blameless. We are all connected by the web of karma we have created, and we are all capable of the liberation that true repentance brings.”
Thầy Panthaka tiếp tục: “Trưởng lão Nārada của chúng tôi luôn nhấn mạnh rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm về hành động, nhân quả xảy đến với chính mình. Không có ông trời hay bất cứ ai khác ban phước hay giáng họa cho chúng ta. Chúng ta tự tạo phước đức song cũng tự gây họa cho bản thân. Tất cả mọi thứ đều phát sinh từ tâm thức nên thế giới này chính xác là những gì chúng ta tạo ra. Người đàn ông này - Mahādūta, người mà chúng ta chôn cất ngày hôm nay đã sống một cuộc đời bất thiện, bị dẫn dắt bởi những suy nghĩ không tốt và không còn biết gì hơn ngoài những nỗi bất hạnh. Tuy nhiên, cuối đời anh đã thay đổi, sự sám hối và lời thề nguyện của anh đã cảm động đến Đức Phật. Ngài xuất hiện và đem lại niềm hạnh phúc cho anh. Cuộc đời của Mahādūta kết thúc bằng hành động tha thứ và anh đã nhắm mắt như một người hạnh phúc. Tất cả chúng ta có thể nhìn vào tấm gương này để học hỏi, vì không ai trong chúng ta là không có lỗi lầm. Tất cả chúng ta đều được kết nối bởi mạng lưới của nghiệp do chính mình tạo ra và tất cả chúng ta đều có khả năng giải thoát nhờ sự sám hối chân chính.”
Panthaka had the following summary of the robber chieftain’s life and conversion inscribed on Mahādūta’s headstone:
Here lies Mahādūta, highwayman.
He lived in anger; anger felled him.
At last repenting, he returned his spoils,
Promising to walk the Proper Path.
The Buddha smiled and certified his change.
Maha Prajna Paramita!
Panthaka đã tóm tắt về cuộc đời và sự thay đổi của người tướng cướp, chúng được khắc trên bia mộ của Mahādūta như sau:
Đây là nơi yên nghỉ của Mahādūta - người cướp đường.
Người đã sống trong sân hận và hận thù đã đốt cháy anh.
Ăn năn lúc cuối đời, anh đã trả lại những chiến lợi phẩm
Hứa sẽ đi theo con đường chân chính.
Đức Phật đã mỉm cười và chứng giám cho sự hối cải của anh.
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa!
The headstone beside the mountain pass became known as the Repentant Robber’s Tomb, and in later years a shrine was built beside it. There travelers and pilgrims bowed to the Buddha and prayed for a peaceful journey and the conversion of evil men.
Bia mộ nằm bên cạnh con đèo được gọi là Ngôi mộ của tướng cướp biết ăn năn. Về sau, một ngôi đền đã được xây dựng bên cạnh nó. Ở đó, du khách và những người hành hương quỳ lạy trước tượng Đức Phật, nguyện cầu cho một cuộc hành trình bình an và những kẻ xấu biết quay về nẻo chính.
Kindness and generosity assure a happy future.
Lòng từ bi, quảng đại đảm bảo một tương lai hạnh phúc.
Paṇḍu now became wealthy again, wealthier than he had ever been. Now, however, he was more interested in giving money away then in making it, and he gave over the operation of his business to his sons. He did his best to teach them that prosperity brought about by hard dealings will not last, and that by being generous and kind they would assure themselves of a happy future.
Paṇḍu giờ đây đã trở thành một thương buôn giàu có hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, bây giờ ông quan tâm nhiều về việc cúng dường, bố thí của cải hơn là chỉ chú trọng đến việc kiếm tiền. Giờ đây, ông đã giao việc quản lý buôn bán cho các con trai của mình. Ông cố gắng hết sức dạy các con hiểu được sự thịnh vượng có được từ việc buôn bán, mặc cả sẽ không bền vững và rằng nhờ vào sự bố thí, tử tế, họ sẽ tự được đảm bảo về một tương lai hạnh phúc.
His end came peacefully in old age. When he realized that his death was near, he called his sons, daughters, and grandchildren to his bedside and told them: “My dear children, if in the future something should go wrong in your lives, don’t blame others, even if they seem to be the cause of your unhappiness. Look within yourself. See where you have been proud, selfish, greedy, or unkind. Change that fault in yourself, for this is something that is always within your power. If change seems beyond you, seek help from your teacher, and pray to the Buddhas and Bodhisattvas for aid. Once you have changed your faults, good fortune and happiness will return to you naturally. When they have returned, do not hoard them, but share them with others. Then they will never be exhausted. Remember me by this verse, which the Venerable Nārada taught me when I first knew him:
He who hurts others hurts himself.
He who helps others helps himself even more.
To find the falsehood pure Way, the Path of Light,
Let go of the falsehood that you have a self.
Cuộc đời ông kết thúc một cách bình yên lúc về già. Khi biết cái chết đang cận kề, ông gọi các con trai, con gái, những đứa cháu của mình đến bên giường và nói: “Các con thân yêu, nếu cuộc sống mai này có điều gì đó không được như ý, các con đừng nên oán trách người khác, dù dường như đó là nguyên nhân khiến các con phải chịu thiệt thòi. Hãy nhìn lại bản thân xem mình đã kiêu căng, ngạo mạn, tham lam, không tốt ở điểm nào và sửa chữa những lỗi lầm của mình trước, vì đây là điều nằm trong khả năng của các con. Nếu muốn thay đổi điều gì khác ở bên ngoài, hãy tìm kiếm sự giúp đỡ của các bậc sư trưởng, hoặc nguyện cầu chư Phật và chư vị Bồ tát trợ duyên. Một khi các con đã sửa đổi được những lỗi lầm của mình, vận may và hạnh phúc sẽ tự đến. Khi có của cải, đừng tích trữ mà hãy chia sẻ với người khác. Khi đó, chúng sẽ không bao giờ vơi cạn. Hãy nhớ bài kệ này mỗi khi nghĩ đến ta, đây là bài kệ mà thầy Nārada đáng kính đã dạy lúc ta mới biết thầy:
Làm tổn thương người khác chính là tổn thương chính mình
Người giúp đỡ người khác chính giúp mình nhiều hơn
Để tìm ra con đường thanh tịnh, con đường của giác ngộ
Hãy buông bỏ những lầm lỗi của bản thân.
Sinh và tử thật sự là một vấn đề lớn. Giờ phút này chúng ta còn hiện hữu ở đây, nhưng thời khắc sau, có ai hay biết mình có còn trên đời hay không? Trong nháy mắt, sự khổ đau bất thình lình ập đến, phải chia cắt mọi thứ khi ta còn đang sống, hoặc phải rời xa mọi thứ khi biết cái chết đang đến gần. Vấn đề này nghiêm trọng là vậy nhưng mọi người lại đều thờ ơ như thể đó chỉ là những chuyện hão huyền. Khi sinh ra chúng ta đến từ đâu? Khi chết chúng ta đi về đâu? Chúng ta không hề biết gì cả. Mà ngay cả đã hiểu, chúng ta có thể làm gì? Chỉ có một cách để tự cứu lấy chính mình, đó là sửa chữa lỗi lầm và hướng tới chân thiện mỹ để hoàn thiện bản thân. Chúng ta không nên quá ích kỷ và tham lam lợi ích cá nhân. Hãy tử tế, từ bi và làm mọi thứ vì lợi ích của mọi người. Chúng ta nên noi gương tinh thần của các vị Bồ tát.