Tháng Giêng là mùa lễ hội. Thằng bé con là mình thường lón cón theo mẹ đi hội chùa, xúng xính bộ quần áo mặc thừa của anh vẫn còn nguyên miếng vá độn với những túi đựng nào quế, nào hoa, nào quả, nào pháo tép. Tay mẹ lần tràng hạt như lần chuỗi ngày hi vọng mở ra những ước muốn tâm linh, những khát khao chân thiện. Mình được bao bọc quanh một không khí kì ảo, một thế giới trang nghiêm có khói hương trầm thoang thoảng, có hoa đại trắng tinh khiết, có tiếng mõ trầm trầm không bao giờ lỡ nhịp như con lắc đồng hồ thời gian gõ đều đặn, kiên nhẫn và thanh thản. Bao huyền thoại mở ra: Công chúa Liễu Hạnh, Đức Thánh Mẫu, Mẹ Thượng Ngàn... Tất cả các tượng chùa đều mang khuôn mặt mẹ phúc hậu, đầy đặn và độ lượng bao dung. Trong tâm trí của mình từ ấu thơ, đền chùa mang không khí ảo diệu với Đức Phật từ bi vô lượng. Nép mình bên mẹ, mình nghe hơi ấm lan tỏa từ bàn tay nắm, từ ánh mắt ngước nhìn thành kính của những người xung quanh.
Cái không khí ấy tưởng gần mà đã trở thành quá vãng khi giờ đây, mỗi lần vào chùa là toát mồ hôi lo lắng. Đông đúc, ồn ào! Bội thực chen lấn, bội thực bán mua! Nhìn cảnh người ta giẫm đạp lên nhau xin lộc chốn đền chùa, lòng lo lắng về sự xuống cấp của đạo đức của một số người khi đến nơi đây.
Trong đám đông cướp ấn đền Trần, có mấy người tham gia chốn quan trường hay phần nhiều chỉ là những anh nông dân, chị bán hàng rong, bà buôn thúng bán bưng. Họ vẫn tranh giành ấn như để nuôi một hy vọng mơ hồ nào đó. Chắc hẳn người ta chưa quên câu: “Có làm thì mới có ăn” ông bà xưa dạy, nhưng nhìn lên vẫn thấy ối kẻ chẳng làm mà vẫn có ăn. Nhìn xuống lại thấy nhiều người tốt lăn lóc mưu sinh, sống thua thiệt cả đời. Vậy nên người ta có thể cho rằng chỉ có một thứ thay đổi số phận con người: phép màu của thần thánh. Thôi cướp lấy cho chắc ăn! Chờ đợi chắc gì đã đến lượt mình. Một lần đi chùa, mình đã làm phép thử xin sớ cùng lúc mấy thầy viết sớ chữ Nho ở cổng chùa rồi lẩn mẩn ngồi đọc. Giật mình khi thấy các tờ sớ viết sai nhiều quá, ngay cả tên mình có thầy còn viết sai và đặc biệt bốn chữ: “Gia đạo bình an” được xếp sau cùng… bởi các thầy nhân bản những tờ sớ cho muôn người như một. Vậy là, người ta vào chùa không phải để cầu an. Phải chăng, lúc rạp mình trước Đức Phật là lúc tâm chúng sinh bất an nhất. Đi chùa ngày xuân đâu còn cảnh: nhẩn nha ngoài sân chùa nhặt hoa gạo, đợi mẹ hay chị cũng nhẩn nha sẽ sàng ngồi trên chiếc chiếu trải trước bàn lễ, dõi mắt về phía hư không.
Vậy thì, cớ gì mà lòng không hỏi lòng sao không thôi hoài niệm về một tháng Giêng ngon như một cặp môi gần. Tháng Giêng của những cây xoan trút lá đã lấm tấm, lích chích tiếng chim vườn, cành na khẳng khiu bắt đầu nứt vỏ hé nở những đọt tươi non. Tháng Giêng hồi sinh trong vòng tay của mẹ. Tháng Giêng lộc nõn gieo vào hồn thằng bé đa cảm như mình nhiều mộng mơ và bâng khuâng thương nhớ lắc rắc, lấm tấm, li ti mà mượt mà, mơn man như mưa bụi. Ra Giêng, có năm trời rét và kéo theo mưa bụi. Mưa lất phất bay trong làn gió se lạnh dịu dàng. “Mưa rơi nhè nhẹ. Trên mái tóc em. Mát như sương đêm. Tươi cành xanh lá. Nghiêng nghiêng đôi má. Chào đón mưa rơi. Em ngẩng nhìn trời. Xuân sang đẹp quá” là đoạn thơ trong bài Tập đọc mình thường lẩm nhẩm mỗi khi chân sáo tới trường. Những ngày đầu năm như thế đất trời trở nên dung dị, êm ả lạ thường. Hãy nghiêng tai trên mặt nước sông xuân mà nghe tiếng mưa bụi reo tí tách, hàng ngàn, hàng triệu hợp âm như một cung đàn, như một bản hòa tấu lãng đãng trong cõi ta, cõi người, cùng trời cuối đất. Mưa bụi rơi rơi, rồi đọng lại tự bao giờ, mà mỗi khi chạm đến dòng ký ức nôn nao ấy như vướng phải nỗi tàn phai trên dòng hư ảo giữa cuộc nhân sinh thế tục vong tồn. Tháng Giêng mưa bụi, không là khói, là mây mà như khói mây vương vấn, cũng chẳng phải sương mù gửi gắm trong cõi hóa sinh. Trên dòng trường lưu mưa bụi, người gọi đò đứng đợi bến sông xa. Đêm cứ chùng sâu trên dòng xuân rây rắc, người gọi đò hay đò đợi khách sang sông. Đêm như đất trời thấm lạnh, mưa bên thềm xưa ướt tấm áo nâu, bóng dáng mẹ như nghìn năm mưa bụi rớt xuống trần gian những giọt u nồng…
Thời gian trôi bạt tóc người, mỗi khi tháng Giêng mưa bụi mình lại trở về như đứa trẻ. Vốn không biết uống rượu, bia, không biết hút thuốc, nhậu nhẹt, ngoài đam mê viết lách, đọc sách, xem phim, mình chỉ mê được quẩn quanh bên mẹ, bên những người thân yêu của mình. Ngày mẹ còn ở quê xa, mỗi lần bà lên chơi, quá tuổi háo hức những món quà nhà quê trong giỏ xách của mẹ, mình hóng thứ khác: Những câu chuyện nhà quê mẹ kể. Hiểu tính mình nên vừa bước chân vào nhà là chuyện của mẹ đã giòn như cốm nổ. Không chịu ngồi yên một chỗ, xăng xái dọn chỗ này dẹp chỗ kia, vừa làm vừa kể, những chuyện nhà quê theo bước chân mẹ dìu dặt nửa xa nửa gần. Giọng điệu bâng quơ, như thể không ai nghe cũng không sao, mẹ nói cho vui nhà vui cửa. Chuyện và người kể chuyện nôm na, bình dị nhưng lại là những gì không thể mua được ở cái thành phố tiện nghi và thực dụng này. Mà, những câu chuyện ấy cũng đâu có giật gân, kịch tính gì. Lơ vơ, quẩn quanh chỉ là cái góc bếp bị dột, bà thím càng ngày càng điếc, cải nhà trổ hoa, cau ra buồng. Sực nhớ gì thì nói đó, mẹ cứ lắp ráp rời rạc, như thể chắp vá những cái quê nhà mà mình đã rời bỏ từ hồi mười ba tuổi xuống thành thị theo học trường chuyên. Tất cả hiện lên sống động như bộ phim ai ải màu rơm rạ mục. Không phải cái tên nào mẹ kể ra mình cũng biết, nhưng cứ có cảm giác họ quen thuộc với mình lắm. Mẹ cũng không màng mình có quen người này người kia hay không, có gợi nhớ gì không. Quan trọng gì, mẹ sẽ ở lại nhà mình vài ba ngày rồi phải về quê coi vườn tược, thời gian mẹ con gần gũi cũng ngắn ngủi, nên phải tận dụng những thứ có thể nói được với nhau.
Bằng cách đó mẹ buộc mình vào quê nhà, dù sợi dây đó không thấy được bằng mắt thường, dù rất đỗi mong manh… Ngay lập tức mình nhìn thấy lung linh màu vàng hoa mướp, cái hình ảnh nửa vầng trăng cong treo chi chít trên giàn, và mùi thơm của nồi canh cua rau đay mùng tơi nấu mướp lại ứa ra nơi đầu lưỡi. Và lại thổn thức nhớ về những thằng Bôm, con Bát nào đó mà mình vẫn nhớ mùi ghẻ của chúng từ thuở cùng chăn trâu cắt cỏ, giờ chắc chúng đang nằm võng ru cháu nội, cháu ngoại. Qua lời kể hiền queo của mẹ, họ đến với mình bằng mái tóc bạc, đuôi mắt răn reo... Khó mà nắm bắt cho rạch ròi những chuyện không đầu không cuối đó nhưng chúng mang đến cảm giác khó tả, xáo động một cách êm đềm. Như thể mỗi chuyện là một cọng nan tre, mẹ tiện tay đan thành tấm liếp che nắng, che gió cho mình đỡ rạc rài.
Giờ mẹ ở cùng với vợ chồng mình rồi, mình lại được nghe chuyện nhà quê qua cô em gái. Những câu chuyện em kể cũng khác đi nhiều. Chói chang. Bén nhọn. Gay gắt. Làng quê đang bát nháo, các giá trị một thời đảo lộn trong bao cuộc bán mua. Chuyện thằng bạn nối khố làm ăn tha phương giận vợ con nên tự vẫn, chuyện ông anh họ bạc tình bỏ vợ con, chuyện người làng tranh cướp đất... Hẳn đó không phải là thứ mình mong đợi, những gì xảy ra ở nơi vùng chiêm trũng gắn với tuổi thơ của mình phải dịu dàng hơn những thứ tin tức mà mình vẫn thường thấy nhan nhản trên báo chí hàng ngày. Mình cứ tưởng cái làng Nghè nhỏ bé của mình phải đứng ngoài những cơn gió lốc của đời sống khốn khổ này chứ. Như nó đã từng thờ ơ đi qua mấy bận binh đao khói lửa.
Mãi mãi trong hình dung, quê mình như một bông hoa gạo vừa bật khỏi cành, bay la đà, thờ ơ bâng quơ theo gió đậu đâu cũng được. Những câu chuyện hiền lành của mẹ từng làm bóng mát cho mình giờ đã quá xa xôi. Hoa gạo đỏ triền đê ngày nào cũng đã bay thốc vào cuộc sống mưu sinh ồn ào với lộn tùng phèo các giá trị thiêng liêng một thời yêu dấu...