Martha cùng mẹ bắt đầu tìm nhà cho thuê, để gia đình họ có thể rời khách sạn Esplanade - thoát khỏi sự sang trọng, theo quan điểm của Dodd - và có một cuộc sống ổn định hơn. Trong khi đó, Bill Jr. được tuyển sinh vào chương trình đào tạo tiến sĩ tại trường Đại học Berlin. Nhằm cải thiện vốn tiếng Đức càng sớm càng tốt, cậu đã thu xếp sống chung với gia đình một vị giáo sư, trong suốt một tuần theo học tại trường.
Vấn đề nhà cửa cho đại sứ Mỹ tại Berlin vốn từ lâu là nỗi xấu hổ. Vài năm trước, Bộ Ngoại giao đã sở hữu và cải tạo một tòa nhà to lớn, xa hoa, Điện Blücher, trên phố Pariser Platz đằng sau Cổng Brandenburg thành nhà riêng cho đại sứ. Việc này nhằm gom toàn bộ các văn phòng ngoại giao và lãnh sự trên khắp thành phố về một mối, đồng thời nhấn mạnh sự có mặt của Mỹ bên cạnh Anh và Pháp, những nước đặt đại sứ quán trong các cung điện hoành tráng trên quảng trường. Tuy nhiên, ngay trước khi người tiền nhiệm của Dodd, Frederic Sackett sắp sửa dọn vào, một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi tòa nhà. Chỉ còn lại một đống hoang tàn đổ nát, trơ trụi, buộc Sackett và bây giờ là Dodd phải tìm nhà trọ thay thế. Về phần mình, Dodd lại thấy hài lòng vì điều đó. Mặc dù chửi rủa, mắng nhiếc chuyện phí cả đống tiền vào cung điện này - ông viết, Chính phủ đã phải trả một cái giá “cắt cổ” cho công trình này, nhưng “bạn biết đấy hồi đó là năm 1928 hay 1929, cái thời mà người ta ai cũng điên rồ”. Ông lại thích ý tưởng có căn nhà riêng bên ngoài Đại sứ quán. Ông viết, “Cá nhân tôi thà mất nửa giờ đi bộ từ nhà riêng còn hơn sống trong Cung điện”. Ông thừa nhận có được một tòa nhà đủ lớn cho các quan chức cấp thấp là điều tốt, “nhưng bất kì ai trong chúng tôi khi tiếp dân sẽ thấy rằng nhà mình nằm sát cạnh văn phòng như thế sẽ mất sự riêng tư - đôi khi điều này rất quan trọng.”
Mẹ con Martha đi xem các khu dân cư liền kề rộng lớn hơn ở Berlin, phát hiện ra thành phố này có rất nhiều công viên lẫn vườn tược, chậu hoa dường như có mặt trên mọi ban công. Ở các quận xa nhất, họ thấy kha khá trang trại xinh xắn, có thể người cha già Dodd của Martha sẽ yêu thích chúng. Họ chạm trán các nhóm thanh niên mặc đồng phục đang vui vẻ diễu hành và hát hò. Đây là đội hình đáng sợ hơn của Sư đoàn Bão tố với các thành viên to nhỏ lớn bé đủ cả, mặc những bộ đồng phục không vừa người, ở giữa ai cũng mặc chiếc sơ mi màu nâu thẫm xấu xí. Có khi hiếm hoi họ nhận ra những thành viên SS dáng đẹp hơn, mặc quần áo được may đo chỉnh tề hơn, bộ đồng phục đen như bóng đêm có pha thêm sắc đỏ làm điểm nhấn, giống như một loài chim hét ngoại cỡ nào đó.
Gia đình Dodd tìm được nhiều khu nhà để lựa chọn, mặc dù ban đầu họ đã thôi tự vấn bản thân, tại sao nhiều dinh thự cũ rộng lớn treo biển cho thuê, lại có đồ nội thất đầy đủ và xa hoa đến thế, với những cái bàn cái ghế trang trí công phu, những chiếc đàn dương cầm bóng nhoáng, những bình hoa, bản đồ và cuốn sách thuộc loại hiếm vẫn nằm nguyên trên giá. Khu họ đặc biệt ưa thích là một quận nằm ngay phía nam Tiergarten, dọc theo tuyến đường đi làm của Dodd, nơi họ trông thấy những khu vườn, rất nhiều bóng râm, một bầu không khí tĩnh lặng và một dãy những ngôi nhà xinh xắn. Họ biết tên một bất động sản trong khu này đã sẵn sàng để dọn vào ở, nhờ một tùy viên quân sự của Đại sứ quán. Anh ta nghe được thông tin từ chính chủ nhà, Alfred Panofsky, một người Do Thái giàu có sở hữu một ngân hàng tư nhân và là một trong số nhiều người Do Thái sống trong quận này - khoảng mười sáu nghìn người, chiếm gần 9% người Do Thái ở Berlin. Ngay cả cho dù người Do Thái đang bị tước việc làm trên khắp nước Đức, ngân hàng của Panofsky vẫn tiếp tục hoạt động và đáng ngạc nhiên là họ chính thức được xóa tội.
Panofsky đã hứa giá thuê sẽ rất phải chăng. Đến lúc này, dù đang hối hận nhưng vẫn trung thành với lời thề sống bằng đồng lương, Dodd rất thích thú và đến cuối tháng Bảy, ông đã đến xem qua căn nhà.
Nằm ở số 27A, phố Tiergartenstrasse, căn nhà là một dinh thự bốn tầng bằng đá được xây cho Ferdinand Warburg của triều đại Warburg danh tiếng. Công viên nằm bên kia đường. Panofsky cùng mẹ ông ta dẫn gia đình Dodd đi xem nhà, và lúc này Dodd biết rằng thực ra Panofsky không giới thiệu toàn bộ ngôi nhà, mà chỉ ba tầng đầu tiên. Mẹ con ông chủ nhà băng muốn giữ lại tầng trên cùng và quyền được dùng thang máy điện.
Panofsky giàu đến mức ông ta không cần thu tiền cho thuê, nhưng kể từ khi Hitler lên làm Thủ tướng, ông ta đủ lão luyện để hiểu một khi đã là dân Do Thái, không cần biết bạn nổi danh đến đâu cũng không tránh khỏi sự đàn áp của Quốc xã. Giới thiệu căn nhà 27a cho tay đại sứ mới, ông ta không hề giấu giếm ý định muốn dành cho mẹ con mình sự bảo vệ tự nhiên, tính toán rằng chắc chắn ngay cả Sư đoàn Bão tố cũng sẽ không dám tấn công vào nhà của Đại sứ Mỹ, vì thế giới có thể lên tiếng phản đối. Về phần mình, gia đình Dodd sẽ được hưởng tất cả những tiện nghi của một căn nhà độc lập, nhưng giá cả lại phải chăng, trong một kết cấu mặt phố đủ gây ấn tượng, để thể hiện uy tín và sức mạnh Mỹ. Không gian nội thất đủ rộng rãi cho phép các vị khách ngoại giao cũng như Chính phủ được thoải mái giải trí, và không làm mất mặt ngài Đại sứ. Trong lá thư gửi Tổng thống Roosevelt, Dodd hoan hỉ, “Chúng tôi đã thuê được một trong những căn nhà đẹp nhất Berlin, với giá 150 USD một tháng - thực ra chủ nhà là một người Do Thái giàu có, nên sẵn lòng cho chúng tôi thuê.”
Panofsky và Dodd cùng kí vào “thỏa thuận quý ông”, cho dù Dodd vẫn còn băn khoăn về nơi này. Trong khi ông yêu mến khung cảnh tĩnh lặng, cây cối, vườn tược, và có thể tiếp tục đi bộ đến chỗ làm mỗi sáng, ông vẫn cho rằng căn nhà này quá sang trọng, mỉa mai gọi nó là “dinh thự mới của chúng ta”.
Một tấm biển bằng đồng có hình ảnh chim đại bàng Mỹ được gắn trên cánh cổng sắt ngoài lối vào căn nhà. Hôm thứ Bảy, ngày 05 tháng 08 năm 1933, Dodd cùng gia đình ông rời khỏi khách sạn Esplanade, dọn vào căn nhà mới.
Sau này, Dodd thừa nhận giá mà ông biết ý định thật sự khi sử dụng tầng bốn của Panofsky, không chỉ đơn giản cho hai mẹ con ông ta có chỗ ở, hẳn ông sẽ không bao giờ đồng ý thuê nhà.
Cây cối vườn tược choán hết khoảnh sân, bao quanh là hàng rào sắt cao bên trong bức tường gạch chỉ cao đến đầu gối. Ai đi bộ thì vào qua cánh cổng có hình dáng như cửa ra vào, với các chấn song sắt dọc, đến bằng xe hơi thì vào qua cổng chính, phía trên có một mái vòm bằng sắt đẹp lộng lẫy, ở giữa có một quả cầu mờ ảo. Ô cửa trước nhà lúc nào cũng chìm trong bóng râm, tạo thành một hình chữ nhật tối om trên nền mặt tiền hình tròn, cao như ngọn tháp bằng chiều cao tòa nhà. Đường nét kiến trúc lạ kì nhất của dinh thự là phần nhô ra từ mặt trước ngôi nhà gây ấn tượng mạnh mẽ, cao khoảng một tầng rưỡi, tạo nên một đường xe vào nhà có mái che, đóng vai trò như một gian trưng bày các tác phẩm hội họa.
Lối vào chính và tiền sảnh nằm ở tầng trệt, phía sau là trung tâm cho mọi hoạt động của ngôi nhà - các phòng cho người hầu, phòng giặt là, phòng trữ đông, rất nhiều phòng chứa đồ và tủ chẻ, cùng một nhà bếp lớn, mà theo Martha mô tả “nó to gấp đôi một căn hộ bình dân ở New York”. Ngay khi bước chân vào nhà, gia đình Dodd bước vào ngay phòng giữ hành lí nằm hai bên tiền sảnh lớn, sau đó tới cầu thang thiết kế công phu dẫn lên tầng một.
Đây chính là nơi cho thấy sức hấp dẫn thật sự của tòa nhà. Phía ngoài, đằng sau mặt tiền cong, là một phòng khiêu vũ với sàn nhảy hình bầu dục bằng gỗ sáng bóng, với một cây đàn dương cầm được che bằng tấm vải chất lượng xịn, có tua rua, có chiếc ghế dài được nhồi đệm và mạ vàng. Trong phòng này, gia đình Dodd đặt trên đàn dương cầm một cái bình đẹp tuyệt mĩ cắm đầy những bông hoa dài, bên cạnh là bức ảnh chân dung viền khung của Martha, xinh đẹp tuyệt trần, nét gợi cảm lồ lộ, có thể xem là lựa chọn lạ lùng đối với phòng khiêu vũ trong nhà riêng đại sứ. Có hai phòng tiếp tân, trên tường một phòng bọc kín vải damask màu xanh đậm, còn tường phòng kia bọc vải sa tanh hồng. Bốn bức tường trong phòng ăn mênh mông bọc thảm thêu màu đỏ.
Phòng ngủ của gia đình Dodd nằm trên tầng ba. (Panofsky cùng mẹ ông ta sống ở ngay phía trên, tầng áp mái.) Phòng tắm chính to khủng khiếp, trang trí công phu tỉ mỉ và quá cường điệu đến tức cười, ít nhất theo quan điểm của Martha. Các mặt sàn và tường phòng tắm “hoàn toàn được mạ vàng và khảm sặc sỡ”. Một bồn tắm lớn nằm trên sàn nâng, như thể một hiện vật nào đó để trưng bày trong bảo tàng. Martha viết, “Suốt mấy tuần, tôi đều rú lên cười mỗi khi thấy phòng tắm, thi thoảng tôi ham vui dẫn bạn bè tôi lên đó, khi cha tôi đi vắng.”
Cho dù vẫn choáng váng vì ngôi nhà quá xa hoa, nhưng Dodd cũng phải thừa nhận các phòng khiêu vũ và tiếp tân rất thuận tiện cho hoạt động ngoại giao, đối với vài hoạt động trong số này, ông biết - và ghê sợ - khi phải mời cơ số khách sao cho xứng tầm với một vị đại sứ vốn đã không được ai chú ý. Và ông yêu thích Wintergarten đầu phía nam của tầng một, một căn phòng lắp kính dẫn lên sân thượng lát gạch nhìn ra vườn. Trong căn phòng này, ông có thể đọc sách trên ghế đệm thư giãn, vào những ngày đẹp trời, ông ngồi bên ngoài phòng trên ghế trúc, một quyển sách để trong lòng, và tắm mình trong ánh mặt trời phương nam.
Căn phòng được cả gia đình yêu thích là thư viện, hứa hẹn những đêm mùa đông ấm cúng cạnh lò sưởi. Các bức tường thư viện được làm bằng gỗ tối màu, sáng bóng và bọc vải damask, một lò sưởi cũ tuyệt đẹp với mặt lò sưởi tráng lớp men đen bóng, chạm khảm hình rừng và hình người. Các giá chất kín sách, Dodd nhận định nhiều cuốn trong số này là sách cũ từ lâu lắm rồi và rất giá trị. Vào những thời điểm nhất định trong ngày, làn ánh sáng sặc sỡ xuyên qua lớp kính màu nằm trên một bức tường. Một chiếc bàn mặt kính trưng bày nhiều bản thảo và thư từ quý giá do Panofsky để lại. Martha thích mê chiếc ghế đệm da màu nâu cỡ lớn của thư viện, chẳng bao lâu nó trở thành một báu vật trong cuộc sống lãng mạn của cô. Diện tích căn nhà, sự tách biệt của các phòng ngủ, không khí tĩnh lặng của các bức tường bọc vải - những ưu điểm này chứng tỏ giá trị của căn nhà, khi theo thói quen cha mẹ cô sẽ đi nghỉ sớm, bất chấp tập quán thức khuya đang thịnh hành ở Berlin.
Vào ngày thứ Bảy, tháng Tám hôm đó khi gia đình Dodd dọn vào đây, mẹ con Panofsky đã tế nhị đặt những bó hoa tươi khắp ngôi nhà, khiến Dodd phải lật đật viết thư cảm ơn ngay sau đó. “Nhờ nỗ lực và sự chu đáo của ngài, chúng tôi tin rằng mình sẽ rất hạnh phúc trong ngôi nhà đáng yêu của ngài.”
Trong cộng đồng ngoại giao, ngôi nhà ở số 27a trên phố Tiergartenstrasse nhanh chóng nổi tiếng là một chỗ an toàn, nơi người ta có thể nói thẳng ra suy nghĩ của mình mà không phải sợ. “Tôi thích tới đó vì trí tuệ mẫn tiệp của Dodd, khả năng quan sát và miệng lưỡi châm biếm đanh thép, sắc bén của ông ấy,” Bella Fromm, nhà báo phụ trách mảng xã hội đã viết. “Tôi cũng thích bởi vì ở đây không khách sáo, kiểu cách như các nhà ngoại giao khác.” Một vị khách thường xuyên là Vương tử Louis Ferdinand, người đã mô tả nơi đây như “ngôi nhà thứ hai” của mình trong hồi kí. Ông ta thường xuyên đến ăn tối với gia đình Dodd. “Khi những người hầu đã bỏ ra ngoài, chúng tôi có thể dốc bầu tâm sự,” ông ta viết. Đôi khi tính thật thà, thẳng thắn của vương tử khiến ngay cả Đại sứ Dodd cũng không chịu nổi, ông liền cảnh báo, “Nếu ngài không cố gắng cẩn trọng hơn trong lời nói, Vương tử Louis, một ngày nào đó chúng sẽ treo cổ ngài lên. Tôi cũng chẳng phiền đến dự đám tang ngài đâu, nhưng tôi e rằng làm thế chẳng lợi lộc gì cho ngài hết.”
Khi gia đình đã ổn định, Martha cùng cha mình chìm vào không khí dễ chịu của tình bạn. Họ trao đổi với nhau những câu chuyện hài hước và lạc quan. “Cha con em yêu thương nhau,” cô viết trong lá thư gửi Thornton Wilder, “và em được kể cho nghe những bí mật tầm cỡ quốc gia. Cha con em cười nhạo bọn Quốc xã, và hỏi ông quản gia dễ thương của nhà em rằng dòng máu Do Thái có chảy trong huyết quản ông ta không.” Ông quản gia, tên là Fritz - “lùn, tóc vàng, dễ bảo và hiệu quả” - đã làm việc cho vị đại sứ tiền nhiệm của Dodd. “Ở bàn ăn, cha con em chủ yếu nói chuyện chính trị,” cô viết tiếp. “Cha em đọc các chương cuốn sách Miền Nam ngày xưa của ông cho các vị khách nghe. Gần như ai cũng khổ sở vì chán nản và khó hiểu.”
Cô để ý mẹ của cô - người mà cô hay gọi là “Phu nhân” - có sức khỏe tốt “nhưng hơi căng thẳng [và] đang thích thú với mọi thứ”. Cha cô thì “vui vẻ đến không tưởng được” và dường như “hơi ủng hộ nước Đức”. Cô viết thêm, “Mà chúng tôi cũng thuộc dạng không ưa người Do Thái.”
Carl Sandburg gửi tặng cô một lá thư chào đón với nội dung lung tung, được đánh máy trên hai trang giấy mỏng dính, với dấu cách thay cho dấu chấm câu. “Bây giờ hành trình hegira56 bắt đầu những năm du ngoạn qua con đường mòn trên biển, con đường dích dắc qua lục địa, đến trung tâm và ngôi nhà tại Berlin, nơi các cuốn sách số học và chúc thư rách nát bị ném ra cửa, sẽ trở thành đề tài bàn tán trên khắp châu Âu những người Do Thái, người cộng sản, những kẻ theo thuyết vô thần, những ai không thuộc tộc Ary- an thuần chủng và những kẻ bị trục xuất không phải lúc nào cũng đến với tư cách đó, mà họ sẽ đến tromg bộ dạng những kẻ ăn mặc rách rưới... vài người sẽ đến cùng những lời ca lạ lùng và vài người đến với những vần thơ chúng ta đã biết và yêu quý, các phóng viên thông thường và các phóng viên thường trú các điệp viên quốc tế bọt sóng những người lang thang trên bãi biển phi công người hùng...”
56 Hegira: sự kiện năm 622 sau Công nguyên, khi Nhà tiên tri Muhammad rời Mecca và du hành tới Medina. Đây cũng là năm khởi đầu của hệ thống lịch Hồi giáo.
Gia đình Dodd sớm biết rằng mình có một hàng xóm nổi bật, nhiều người khiếp sợ ở đầu kia đường Tiergartenstresse, trên con phố bên cạnh tên là Standartenstrasse. Chính là Đại úy Röhm, tư lệnh Sư đoàn Bão tố. Sáng nào, người ta cũng thấy hắn cưỡi con ngựa ô to dạo trong Tiergarten. Một dinh thự đáng yêu cao hai tầng gần đó từng là dinh thủ tướng của Hitler, không lâu sau trở thành trụ sở cho một chương trình giết người hàng loạt của Quốc xã, nhắm vào những ai có khiếm khuyết cơ thể hoặc mắc bệnh tâm thần, mang mật danh Aktion (Hành động) T-4, viết tắt tên phố và số nhà Tiergartenstrasse 4.
Trước sự kinh hoàng của Tham tán Gordon, Đại sứ Dodd vẫn tiếp tục cuốc bộ đi làm, một mình, không ai bảo vệ, trong bộ đồ công sở giản dị.
Lúc này, chủ nhật, ngày 13 tháng 08 năm 1993, với việc Hindenburg vẫn đang phải dưỡng thương tại tư dinh, Dodd vẫn là một đại sứ không chính thức. Vấn đề tìm nhà cuối cùng đã được giải quyết, và cả gia đình ông cùng một người bạn mới của Martha, phóng viên Quentin Reynolds, lên kế hoạch thăm thú một chút nước Đức. Ban đầu, họ du lịch bằng xe hơi - chiếc Chevrolet của gia đình Dodd - nhưng sau đó chia tay nhau tại Leipzig, cách Berlin khoảng một trăm bốn mươi cây số về phía nam, vì vợ chồng Dodd muốn ở đây lâu hơn một chút, thăm lại những cảnh quan từ hồi Dodd học lấy bằng tiến sĩ ở đây.
Martha, Bill Jr. và Reynolds thì tiếp tục đi về phía nam, với mục đích cuối cùng là sang Áo. Hành trình của họ sẽ đầy biến cố, khiến quan điểm về nước Đức mới đầy màu hồng của Martha lần đầu tiên bị thách thức.