Dodd cố gắng duy trì quan điểm khách quan của mình, dù cho ông sớm phải chạm trán với các du khách từng trải qua một nước Đức rất khác với nước Đức vui vẻ, lấm tấm nắng ông dạo bộ qua mỗi sáng. Một du khách như vậy là Edgar A. Mowrer, vào thời điểm đó là phóng viên nổi tiếng nhất Berlin, nằm trong tâm bão tranh luận. Ngoài việc viết bài cho tờ Chicago Daily News, Mowrer còn viết một cuốn sách bán chạy nhất, Nước Đức thụt lùi. Anh ta chọc giận các quan chức Quốc xã, đến nỗi bạn bè của Mowrer đều tin rằng tính mạng anh ta khó bảo toàn. Chính quyền Hitler muốn anh ta phải cuốn xéo khỏi đất nước. Vì muốn ở lại, Mowrer tìm đến Dodd nhờ can thiệp.
Mowrer từ lâu đã trở thành cái gai trong mắt Quốc xã. Trong các thông điệp gửi nhanh từ nước Đức, anh ta cố gắng đào sâu xuống lớp băng mỏng, nắm bắt các sự kiện thách thức niềm tin, có áp dụng các kĩ nghệ tường thuật của tiểu thuyết. Một trong các nguồn tin cơ bản nhất của anh ta là ông bác sĩ Do Thái, con trai một giáo trưởng Do Thái ở Berlin. Hai tuần một lần, hoặc lâu hơn, Mowrer đều gặp gỡ ông ta, bề ngoài là đi khám họng. Mỗi lần như vậy, anh ta lại nhận một bản báo cáo đánh máy những hành động quá đáng của Quốc xã. Cách này tỏ ra hiệu quả cho đến khi ông ta nghi ngờ Mowrer đang bị theo dõi. Hai người bố trí một điểm hẹn khác: thứ Tư mỗi tuần vào hồi 11 giờ 45 phút, họ gặp nhau trong nhà vệ sinh công cộng dưới quảng trường Potsdamer Platz. Họ đứng bên các bồn tiểu đặt sát cạnh nhau. Ông bác sĩ giả vờ làm rơi báo cáo mới nhất và Mowrer sẽ nhặt.
Putzi Hanfstaengl cố gắng bôi nhọ danh tiếng Mowrer bằng cách tung tin đồn thất thiệt, rằng sở dĩ các báo cáo của anh ta chỉ trích mạnh mẽ như thế, là vì anh ta che giấu “bí mật” xuất thân Do Thái của mình. Thực tế, Martha cũng có suy nghĩ tương tự. “Mình cũng tin rằng anh ta là người Do Thái,” cô viết, “sự thù ghét của anh ta chỉ được thúc đẩy từ việc tự ý thức về chủng tộc của mình.”
Mowrer kinh hoàng khi thấy cả thế giới không hiểu nổi chuyện gì đang thật sự diễn ra tại Đức. Anh ta thấy ngay cả em trai anh ta cũng nghi ngờ tính xác thực trong các báo cáo của mình.
Mowrer mời Dodd đến ăn tối tại căn hộ của anh ta nhìn ra Tiergarten, cố gắng cung cấp cho ông những thực tế nhất định còn ẩn giấu. “Nhưng hoàn toàn vô ích,” Mowrer viết. “Ông ta biết nhiều hơn thế.” Ngay cả những cuộc tấn công định kì nhằm vào người Mỹ có vẻ cũng không làm ông Đại sứ bận tâm. Mowrer nhớ lại, “Dodd tuyên bố rằng mình không muốn làm đảo lộn chuyện nội bộ của Đức.” Về phần mình, Dodd cảm nhận được Mowrer “về mặt nào đó, gần như anh ta cũng dữ dội chẳng kém gì Quốc xã”.
Các mối đe dọa đối với Mowrer tăng dần lên. Trong hệ thống phân cấp của Quốc xã, râm ran câu chuyện tấn công bạo lực tay phóng viên. Trùm Gestapo Ruldolf Diels cảm thấy buộc phải cảnh báo Đại sứ quán Mỹ rằng Hitler nổi điên mỗi khi nghe nhắc đến cái tên Mowrer. Diels lo ngại rằng vài kẻ cuồng tín có thể giết chết Mowrer, hoặc bằng cách khác “loại bỏ anh ta”, rằng họ đã cử một số lính Gestapo nhất định “có trách nhiệm” kín đáo theo dõi tay phóng viên và gia đình anh ta.
Khi sếp của Mowrer, Frank Knox, Tổng Biên tập tờ Chicago Daily News, nghe nói về những mối đe dọa này, ông đã quyết tâm chuyển Mowrer rời khỏi Berlin. Ông giới thiệu anh ta sang làm việc tại Tokyo. Mowrer bất đắc dĩ nhận lời, nhận thức được không sớm thì muộn mình sẽ bị trục xuất khỏi Đức, nhưng anh ta vẫn khăng khăng ở lại cho đến tháng Mười. Một phần vì anh ta muốn chứng minh rằng mình sẽ không cúi đầu trước cường quyền, nhưng chủ yếu là vì anh ta muốn đưa tin về buổi mít tinh của Đảng Quốc xã tại Nuremberg, dự kiến bắt đầu vào ngày 01 tháng 09. Buổi mít tinh tiếp theo này, mang tên “Ngày Chiến thắng của Đảng” hứa hẹn sẽ lớn chưa từng thấy.
Đảng Quốc xã muốn anh ta biến cho khuất mắt ngay lập tức. Sư đoàn Bão tố xuất hiện bên ngoài văn phòng của anh ta. Chúng theo dõi bạn bè anh ta, gửi những lời đe dọa đến cơ quan anh ta. Tại Washington, Đại sứ Đức tại Mỹ thông báo cho Bộ Ngoại giao vì “sự phẫn nộ chính đáng của người dân”, nên chính phủ Đức không còn hi vọng bảo vệ được Mowrer nữa.
Vào lúc này, ngay cả các đồng nghiệp của anh ta cũng lo lắng. H. R. Knickerbocker cùng một phóng viên khác đến gặp Tổng Lãnh sự Messersmith đề nghị ông ta thuyết phục Mowrer ra đi. Messersmith tỏ ra miễn cưỡng. Ông ta biết Mowrer rất rõ và tôn trọng lòng can đảm của anh ta muốn đánh bại mối đe dọa Quốc xã. Ông ta lo sợ rằng Mowrer có thể xem việc ông ta can thiệp như sự phản bội. Tuy thế, ông ta vẫn đồng ý giúp.
Đây là “một trong những cuộc đối thoại khó khăn nhất tôi từng trải qua,” sau này Messersmith viết. “Khi anh ta thấy rằng tôi cùng những người bạn khác cố thuyết phục anh ta ra đi, đôi mắt anh ta ngấn lệ và nhìn tôi đầy trách móc”. Nhưng Messersmith cảm thấy mình có bổn phận phải thuyết phục Mowrer ra đi bằng được.
Mowrer đành bỏ cuộc “bằng một cử chỉ tuyệt vọng”, rời khỏi văn phòng Messersmith.
Lúc này, Mowrer mang trường hợp của mình đến thẳng văn phòng Đại sứ Dodd, nhưng Dodd cũng tin rằng anh ta nên đi, không chỉ vì sự an toàn tính mạng của anh ta, mà còn vì tin tức của anh ta làm tăng thêm mức độ căng thẳng, vốn đang thách thức môi trường ngoại giao.
Dodd nói, “dù sao nếu cậu ra đi vì những bài báo của mình, tôi cũng sẽ phải tranh cải nảy lửa về vấn đề này... Vậy sao cậu không làm thế để tránh phức tạp?”
Mowrer nhượng bộ. Anh ta đồng ý ra đi vào tháng Chín, đúng vào ngày đầu tiên của buổi mít tinh tại Nuremberg, mà anh ta hằng muốn được đưa tin.
Sau này, Martha viết Mowrer “không bao giờ chịu tha thứ cho cha tôi vì lời khuyên này”.
Một trong những vị khách khác Dodd gặp gỡ đầu tiên “có lẽ là nhà hóa học nổi tiếng nhất nước Đức”, như Dodd đã viết, nhưng trông ông ta chẳng hề giống nhà hóa học. Dáng người ông ta nhỏ thó với đầu hói bóng loáng, hàng ria mép đã bạc trên đôi môi đầy đặn. Nước da ông ta vàng vọt, trông già hơn nhiều so với tuổi.
Tên ông ta là Fritz Haber52. Đối với bất kì người Đức nào, cái tên này rất nổi tiếng và được tôn kính, hoặc đã từng như thế trước khi Hitler xuất hiện. Cho đến gần đây, Haber là giám đốc Viện Hóa Lí học Kaiser Wilheim danh tiếng. Ông từng là người hùng trong chiến tranh và được nhận giải Nobel. Hi vọng phá vỡ thế bế tắc trong các con hào trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Haber đã phát minh ra khí Clo độc. Ông có công chỉnh sửa thứ sau này trở thành định lí Haber, một công thức, C × t = k, với khả năng gây chết người nhanh gọn: phơi nhiễm với nồng độ khí độc thấp trong thời gian dài cũng có hiệu quả tương tự phơi nhiễm với nồng độ khí độc cao trong thời gian ngắn. Ông ta còn khám phá ra một phương thức lây truyền khí độc trên chiến trường, và vào năm 1915, đích thân ông ta có mặt trên chiến trường, lần đầu tiên áp dụng công thức này với lực lượng quân Pháp tại Ypres. Trên phương diện cá nhân, chiến tích ngày hôm đó tại Ypres khiến ông ta phải trả giá đắt. Người vợ ba mươi hai tuổi của ông ta, Clara, vốn từ lâu lên án công việc của chồng là vô nhân tính và thất đức, kêu gọi chồng dừng lại, nhưng ông ta không để tâm: chết là chết, không cần biết vì nguyên nhân gì. Chín ngày sau vụ tấn công bằng khí độc tại Ypres, vợ ông ta tự sát. Bất chấp quốc tế la ó phản đối nghiên cứu khí độc của mình, Haber vẫn được trao giải Nobel Hóa học năm 1918, vì phát minh ra phương thức chế biến hợp chất nitrogen từ không khí, qua đó cho phép sản xuất được phân bón giá rẻ, với số lượng lớn - và dĩ nhiên, là cả thuốc súng.
52 Fritz Haber (1868 - 1934): nhà hóa học nổi tiếng người Đức, từng được trao giải Nobel Hóa học vào năm 1918.
Bất chấp cải đạo sang Đạo Tin lành trước chiến tranh, căn cứ theo luật mới của Quốc xã, Haber vẫn không phải là người Aryan thuần chủng53, nhưng vì là cựu chiến binh Do Thái nên ông được hưởng ngoại lệ, vẫn là giám đốc viện. Tuy nhiên, nhiều khoa học gia Do Thái dưới quyền ông không được hưởng quy chế này, vào ngày 21 tháng 04 năm 1933, Haber được lệnh phải sa thải họ. Ông chống lại quyết định ấy nhưng chỉ vài người đứng về phía ông. Ngay cả bạn của ông, Max Planck54, cũng chỉ dành cho ông câu an ủi nhạt thếch. Planck viết, “Trong nỗi buồn đau lớn lao này, tôi chỉ có thể an ủi ông rằng chúng ta sống trong thời đại tai ương, phải chứng kiến từng cuộc cách mạng diễn ra, phải coi phần nhiều những gì xảy ra như các hiện tượng tự nhiên, mà không nên đau đầu tự hỏi rằng liệu mọi chuyện có thể khác đi hay không.”
53 Aryan thực ra là cách các dân tộc ở Iran và Bắc Ấn Độ tự gọi mình. Chính quyền Hitler tự đặt ra giả thuyết rằng chủng tộc Aryan đến từ nước Đức, coi người Aryan ở Đức là thượng đẳng, các chủng tộc khác là hạ đẳng.
54 Max Karl Ernst Ludwig Planck (1858 - 1947): nhà vật lí học người Đức, từng được trao giải Nobel Vật lí vào năm 1918.
Haber không nhìn nhận theo kiểu đó. Thay vì phải sa thải bạn bè và đồng nghiệp, ông nộp đơn xin từ chức.
Giờ đây - thứ Sáu, ngày 28 tháng 07 năm 1933 - khi trong tay chỉ còn vài lựa chọn, ông ta đến văn phòng của Dodd nhờ giúp đỡ, mang theo lá thư của Henry Morgenthau Jr, chủ tịch Ban Nông ng- hiệp Liên bang Roosevelt (sau này là Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ). Morgenthau là người Do Thái và là luật sư cho dân tị nạn Do Thái.
Khi Haber kể câu chuyện của mình, “từ đầu đến chân ông ta run như cầy sấy,” Dodd viết trong nhật kí, gọi bài tường thuật của ông ta “là câu chuyện đàn áp dân Do Thái đau buồn nhất tôi từng được nghe”. Haber đã sáu mươi lăm tuổi, đang mắc bệnh tim, và lúc này đang bị tước mất khoản lương hưu được bảo đảm cho ông theo Luật pháp Cộng hòa Weimar, tên gọi chính phủ Đức ngay trước thời kì Đệ tam Đế chế của Hitler. “Ông ta muốn biết liệu có khả năng dân nhập cư có thành tích khoa học xuất sắc tại Đức được nhập cảnh vào Mỹ hay không,” Dodd viết. “Tôi chỉ có thể nói rằng lúc này luật pháp không cho phép ai nữa cả, hết chỉ tiêu rồi.” Dodd hứa viết thư cho Bộ Lao động Mỹ, cơ quan quản lí các hạn ngạch xuất nhập cảnh, để hỏi xem “có quyết định nào có lợi cho những người này không”.
Họ bắt tay nhau. Haber cảnh báo Dodd phải cẩn thận khi nói về vụ của ông ta với người khác, “vì có thể gặp phải hậu quả tồi tệ”. Nói xong Haber ra về, một nhà hóa học tóc bạc nhỏ thó, từng là một trong những nguồn lực khoa học quan trọng nhất của Đức.
“Tội nghiệp ông già,” Dodd nghĩ lại - giật bắn mình thấy thực ra Haber chỉ hơn ông một tuổi. “Giải quyết kiểu đó,” Dodd viết trong nhật kí, “chỉ tổ khiến Chính phủ chuyên làm điều xấu xa tàn bạo trở nên ác ôn thêm”.
Khi Dodd phát hiện ra những gì mình nói với Haber đơn giản là sai bét thì đã quá trễ. Một tuần sau, vào ngày 05 tháng 08, Dodd viết thư cho Isador Lubin, giám đốc Cục Thống kê Lao động Mỹ, “Biết là hết chỉ tiêu rồi, nhưng ngài có thể thấy rất đông người có trình độ xuất chúng mong được nhập cảnh vào Mỹ, cho dù nếu làm thế họ phải bỏ lại cả gia tài.” Về vấn đề này, Dodd muốn biết liệu Bộ Lao động có nghĩ ra bất kì phương thức nào “giúp nhập cảnh những tài năng xứng đáng nhất trong số này”.
Lubin chuyển thư của Dodd cho Đại tá D. W. MacCormack, ủy viên Hội đồng về Xuất Nhập cảnh và Nhập tịch, vào ngày 23 tháng 08, ông hồi âm thư của Lubin và bảo ông ta, “Có vẻ ngài Đại sứ nắm thông tin sai lệch về chuyện này.” Thực ra căn cứ theo chỉ tiêu của Đức, mới chỉ sử dụng được một nhúm visa theo mức được phân phối, MacCormack nói rõ, lỗi này thuộc về Bộ Ngoại giao và Sở Ngoại vụ, và việc họ quá hăng hái thực thi điều khoản cấm nhập cảnh những người “có thể làm tăng gánh nặng xã hội”. Trong giấy tờ của Dodd chẳng có nội dung nào giải thích làm sao ông tin rằng đã hết chỉ tiêu.
Tất cả những điều này đến với Haber quá muộn. Ông ta bỏ sang Anh giảng dạy tại Trường Đại học Cambridge, một giải pháp có lẽ rất tốt, nhưng ông ta thấy mình lạc lõng trong một nền văn hóa lạ, bị giằng xé bởi quá khứ và khổ sở vì những ảnh hưởng của khí hậu không hợp. Sáu tháng sau khi rời khỏi văn phòng của Dodd, khi đang dưỡng bệnh tại Thụy Sĩ, ông ta bị trận đột quỵ nghiêm trọng. Ở nước Đức mới, chẳng ai buồn khóc thương cho cái chết của ông ta. Tuy nhiên, trong vòng mười năm, Đệ tam Đế Chế tìm ra công dụng mới của định lí Haber, và đối với loại thuốc trừ sâu Haber đã phát minh ra tại viện nghiên cứu của mình, có bao gồm một phần khí xyanua, chủ yếu được sử dụng để xông khói các công trình làm nơi bảo quản ngũ cốc. Ban đầu nó được gọi là Zyklon A, nhưng các nhà hóa học Đức đã tạo ra một biến thể nguy hiểm hơn nhiều: Zyklon B55.
55 Từ phát minh ban đầu của Haber, Zyklon B được tạo ra trở thành công cụ phổ biến của Phát xít Đức trong các phòng hơi ngạt ở Auschwitz.
Bất chấp cuộc chạm trán này, Dodd vẫn tin rằng chính quyền Đức đang ngày càng khiêm nhường hơn, và rằng việc Quốc xã đàn áp dân Do Thái đã kết thúc. Ông nói điều tương tự trong lá thư gửi Rabbi Wise của Hội đồng Người Mỹ gốc Do Thái, người ông đã gặp tại câu lạc bộ Century ở New York, và cùng đồng hành với ông trong chuyến đi sang Đức.
Rabbi Wise giật mình. Trong thư hồi âm ngày 28 tháng 07 từ Geneva, ông ta viết, “Tôi ước gì có thể chia sẻ sự lạc quan với ngài! Tuy nhiên, tôi phải nói với ngài rằng mọi câu chuyện, mọi lời nói của vô số người tị nạn tại London và Paris trong hai tuần qua khiến tôi cảm thấy rằng, sự cải thiện vẫn còn xa mới đạt tới được như ngài tin tưởng. Mọi thứ đang trở nên ngày càng nguy hiểm và ngột ngạt hơn đối với người Do Thái gốc Đức, từ ngày này sang ngày khác. Tôi chắc chắn rằng ấn tượng của tôi sẽ được những người ngài đã gặp tại một hội nghị nhỏ ở câu lạc bộ Century xác nhận.” Ông ta nhắc nhở Dodd về cuộc họp tại New York có sự tham gia của Wise, Felix Warburg và các lãnh đạo Do Thái khác.
Trong lá thư gửi riêng cho con gái ông ta, Wise viết rằng Dodd “đang bị lừa gạt”.
Dodd bảo lưu quan điểm của mình. Trong lá thư trả lời Wise, Dodd viết “dường như đối với tôi, nhiều nguồn thông tin mở tại văn phòng cho thấy rõ mong muốn giảm nhẹ vấn đề Do Thái. Tất nhiên, nhiều vụ tấn công có tính chất dã man tiếp tục được báo cáo. Tôi nghĩ chúng là những rơi rớt lại của sự chống đối trước kia. Trong khi tôi chưa sẵn sàng xin lỗi hay bào chữa cho những điều kiện này, tôi hoàn toàn tin rằng thành phần lãnh đạo trong Chính phủ Đức sẽ đề ra chính sách ôn hòa hơn càng sớm càng tốt.”
Ông nói thêm, “Dĩ nhiên ngài biết Chính phủ của chúng ta không thể can thiệp vào các vấn đề nội bộ như vậy. Tất cả những gì ta có thể làm là đưa ra quan điểm của Mỹ, và nhấn mạnh vào những hậu quả bất hạnh của một chính sách như vậy khi nó được theo đuổi.” Ông nói với Wise mình không ủng hộ phản đối công khai. “Đây là nhận định của tôi... vì một chính sách tử tế, nhân đạo hơn, chúng ta chỉ có thể tác động một cách không chính thức và thông qua các cuộc đối thoại riêng tư với những ai bắt đầu nhận thức được rủi ro của các chính sách hiện tại.”
Quá lo lắng vì rõ ràng Dodd không thể nắm vững chuyện đang xảy ra, Wise ngỏ ý được đến Berlin, ông ta nói với con gái, Justine, “cha muốn cho ông ta biết sự thật mà ông ta sẽ không thể nghe được bằng cách khác”. Vào lúc đó, Wise đang du lịch Thụy Sĩ. Từ Zurich, ông ta “một lần nữa van xin Dodd qua điện thoại, tạo điều kiện cho mình bay sang Berlin”.
Dodd từ chối. Wise quá nổi tiếng tại Đức và bị rất nhiều người căm ghét. Ảnh ông ta lúc nào cũng xuất hiện trên hai tờ Völkischer Beobachter và Der Stürmer. Như Wise thuật lại trong hồi kí, Dodd sợ rằng “tôi có thể bị nhận ra, đặc biệt là vì hộ chiếu rõ rành rành của tôi, và gây ra một ‘tình huống khó chịu’ tại sân bay như ở Nuremberg.” Viên Đại sứ không thay đổi quyết định, dù Wise đã gợi ý rằng một quan chức Đại sứ quán sẽ gặp ông ta tại sân bay và luôn để mắt đến ông ta trong suốt chuyến đi.
Khi đang ở Thụy Sĩ, Wise có tham gia Hội nghị Người Do Thái Thế giới tại Geneva, nơi ông trình bày một nghị quyết kêu gọi cả thế giới hủy bỏ thương mại với Đức. Nghị quyết được thông qua.
Wise hẳn sẽ thấy phấn khởi khi biết quan điểm của Tổng Lãnh sự Messersmith về các sự kiện còn u ám hơn Dodd. Trong khi Messersmith đồng ý rằng các vụ bạo lực tàn bạo đối với dân Do Thái đã giảm hẳn, nhưng thay vào đó là một hình thức đàn áp còn khủng khiếp và lan rộng hơn nhiều. Trong một thông điệp gửi nhanh cho Bộ Ngoại giao, ông viết, “Có thể nói ngắn gọn rằng với dân Do Thái, ngoại trừ an toàn cá nhân được bảo đảm, còn lại tình hình đang ngày càng trở nên khó khăn hơn, rằng các lệnh cấm mới có hiệu lực đang ngày càng được thi hành hiệu quả hơn, và những lệnh mới không ngừng xuất hiện.”
Ông trích dẫn vài diễn biến mới. Các bác sĩ nha khoa Do Thái giờ bị cấm chăm sóc bệnh nhân nằm trong hệ thống bảo hiểm xã hội của Đức, một tiếng vọng của những gì đã xảy ra với các bác sĩ Do Thái hồi đầu năm. Một “văn phòng thời trang mới của Đức” không cho các nhà may mặc Do Thái tham gia vào chương trình thời trang đang bừng nở. Dân Do Thái và bất kì ai mang vẻ ngoài không giống tộc Aryan thuần chủng sẽ không được làm cảnh sát. Messersmith báo cáo, dân Do Thái giờ đây chính thức bị cấm ra tắm ở hồ Wannsee.
Một kiểu đàn áp có hệ thống hơn hẳn sắp được thi hành, Messersmith viết. Ông biết có tồn tại một dự thảo luật mới, có hiệu lực tước quốc tịch và mọi quyền công dân của dân Do Thái. Dân Do Thái ở Đức “xem luật mới này như cú đấm trái đạo đức nghiêm trọng có thể giáng vào họ. Họ đã và đang bị mất hết toàn bộ phương tiện kiếm sống, và họ hiểu rằng luật quốc tịch mới sẽ tước hết mọi quyền công dân của mình.”
Messersmith hiểu lí do duy nhất để dự thảo luật chưa được thông qua, đó là vào lúc này những kẻ đằng sau nó lo sợ “dư luận quốc tế sẽ phản đối”. Dự thảo luật đang được lưu hành trong chín tuần, cho phép Messersmith kết thúc thông điệp gửi nhanh của mình bằng một chút mơ tưởng. “Thực tế là luật này sẽ còn phải cân nhắc rất lâu,” ông viết, “mong rằng luật hoàn chỉnh có thể bớt cực đoan hơn dự thảo đang nằm trên bàn.”
Dodd nhắc lại cam kết của ông là khách quan và thấu hiểu trong lá thư đề ngày 12 tháng 08 gửi Tổng thống Roosevelt. Trong khi ông phản đối đàn áp dân Do Thái ở Đức, hay tham vọng phục hồi sức mạnh quân sự quốc gia của Hitler, “nhưng về cơ bản, tôi tin rằng một dân tộc có quyền tự quyết định số phận của mình, và các dân tộc khác phải kiên nhẫn, ngay cả khi tồn tại bạo tàn và bất công. Hãy cho họ một cơ hội để thử các kế hoạch của mình.”