Họ đi về phía nam qua vùng thôn quê tươi đẹp, những ngôi làng nhỏ xinh, mọi thứ rất giống ba mươi lăm năm trước, khi Dodd từng đi qua con đường này. Điểm khác biệt rõ ràng là các mặt tiền công trình nhà nước, từ thành phố này qua thành phố khác, treo đầy băng rôn có phù hiệu ba màu đỏ, trắng, đen của Đảng Quốc xã, và tất nhiên là dấu thập ngoặc ở giữa. Vào lúc mười một giờ, họ đến điểm dừng đầu tiên, Schlosskirche, hay Nhà thờ Castle tại Wittenberg, nơi Mục sư Martin Luther57 đóng đinh “Chính đề 95” lên cửa ra vào và tiến hành Cải cách. Khi còn là sinh viên Dodd đã đến Wittenberg từ Leipzig và đã ngồi phụng sự trong nhà thờ, nhưng lúc này, ông thấy các cửa ra vào bị khóa kín. Một đoàn diễu hành của Quốc xã đi qua các con phố.
57 Martin Luther (1483 - 1546): nhà thần học, mục sư và tác giả người Đức. Ông là người khởi xướng cuộc Cải cách Tin Lành, phản đối những sai lầm của giáo hội Công giáo La Mã.
Mọi người tạm nghỉ tại Wittenberg chỉ chừng một tiếng rồi tiếp tục đến Leipzig, họ đến nơi lúc một giờ chiều, ăn uống ngay tại một trong các nhà hàng nổi tiếng nhất nước Đức, Auerbachs Keller, nhà hàng yêu thích của Goethe58. Đây từng là điểm gặp gỡ giữa Mephistopheles59 và Faust60, trong cuộc gặp này rượu vang của Mephisto đã bốc cháy. Dodd thưởng thức bữa ăn ngon tuyệt trần, đặc biệt với cái giá chỉ ba mark. Ông không uống rượu, cũng chẳng uống bia. Martha, Bill và Reynolds lại nốc hết cốc bia này đến cốc bia khác.
58 Johann Wolfgang von Goethe (1749 - 1832): nhà văn nổi tiếng người Đức.
59 Mephistopheles: một con quỷ trong truyện dân gian Đức.
60 Faust: nhân vật chính diện trong một truyện dân gian của Đức.
Lúc này, gia đình ông chia thành hai nhóm. Các thanh niên đi xe thẳng tiến về Nuremberg, còn Dodd cùng vợ đặt phòng khách sạn, nghỉ ngơi vài tiếng rồi đi ăn tối, hưởng thụ thêm bữa ăn tuyệt vời nữa, thậm chí với cái giá còn thấp hơn, một mark. Họ tiếp tục đi tham quan vào ngày hôm sau, rồi bắt tàu hỏa quay về Berlin và đến nơi lúc năm giờ. Sau đó, họ bắt taxi quay về ngôi nhà mới của họ ở số 27a, phố Tiergartenstrasse.
Dodd vừa về nhà chưa đầy hai mươi tư tiếng thì một vụ tấn công khác nhằm vào người Mỹ lại xảy ra. Nạn nhân lần này là một bác sĩ phẫu thuật ba mươi tuổi tên là Daniel Mulvihill, sống tại Man- hattan nhưng hành nghề y tại một bệnh viện ở Long Island. Anh ta đến Berlin với mục đích học hỏi các kĩ năng của một bác sĩ phẫu thuật danh tiếng người Đức. Messersmith, trong một thông điệp gửi nhanh về vụ này, đã nói rằng Mulvihill là “một công dân Mỹ tốt bụng, không phải người Do Thái”.
Vụ tấn công theo một khuôn mẫu rất quen thuộc: Tối hôm thứ Ba, ngày 15 tháng 08, Mulvihill đang đi bộ trên đường Unter den Linden đến tiệm thuốc thì dừng lại xem một đoàn diễu hành của các thành viên SA đang đến gần. Sư đoàn Bão tố đang diễn lại cảnh duyệt binh hoành tráng qua cổng Brandenburg, vào đêm Hitler lên làm Thủ tướng trong một bộ phim tuyên truyền. Mulvihill đứng xem mê mải, không hề biết một tên SA đã rời khỏi đoàn diễu hành, tiến thẳng đến chỗ mình. Chẳng buồn nói câu nào, tên lính giáng xuống thái dương bên trái của Mulvihill một cú trời giáng, rồi bình thản quay lại đoàn diễu hành. Những người đứng bên cạnh bảo anh ta, lúc ấy còn đang choáng váng, rằng có thể nguyên nhân cuộc tấn công là vì Mulvihill đã không chào theo kiểu Hitler, khi đoàn diễu hành đi ngang qua. Đây là vụ tấn công bạo lực thứ mười hai nhắm vào người Mỹ, kể từ ngày 04 tháng 03.
Đại sứ quán Mỹ ngay lập tức lên tiếng phản đối, vào tối thứ Sáu, phía Gestapo tuyên bố đã bắt được kẻ tấn công. Hôm sau, thứ Bảy ngày 19 tháng 08, một quan chức chính phủ cao cấp thông báo cho Phó Lãnh sự Raymond Geist rằng các lực lượng SA và SS đã nhận chỉ đạo, rằng người nước ngoài không cần phải chào, hoặc đáp lại kiểu chào của Hitler. Ông ta còn nói rằng người đứng đầu chi nhánh của SA tại Berlin, một sĩ quan trẻ tên là Karl Ernst, sẽ đích thân đến gặp Dodd đầu tuần sau để xin lỗi về vụ này. Tổng Lãnh sự Messersmith, người từng gặp gỡ Enrst, đã viết rằng hắn “rất trẻ tuổi, tràn đầy năng lượng, thẳng thắn và nhiệt tình” nhưng “từ hắn tỏa ra sự tàn bạo và sức mạnh đặc trưng của SA”.
Ernst đến như đã hứa. Anh ta giậm mạnh gót giày chào theo lối Quốc xã và hô to “Hitler Vạn tuế.” Dodd hiểu lối chào đó nhưng không chào đáp lại. Ông lắng nghe “những lời thú nhận hối tiếc” của Ernst, lời hứa hẹn của hắn rằng sẽ không xảy ra những vụ tấn công như vậy nữa. Ernst có vẻ nghĩ rằng hắn đã làm tất cả những gì hắn cần làm, nhưng lúc này Dodd mời hắn ngồi, và với vai trò quen thuộc của ông như một người cha và một giáo sư, ông thuyết giảng cho Ernst một hồi về hành vi tồi tệ của lính dưới quyền hắn, cùng những hậu quả tiềm tàng của hành vi đó.
Ernst khó chịu, một mực cho rằng hắn thực sự đã cố gắng ngăn chặn các vụ tấn công. Nói rồi, hắn đứng dậy, giậm chân thu hút sự chú ý, chào theo kiểu Quốc xã lần nữa, “lịch sự cúi đầu chào”, rồi bỏ đi.
“Mình chẳng vui một chút nào cả,” Dodd viết.
Chiều hôm đó, ông bảo Messersmith rằng Ernst đã có lời xin lỗi thích hợp.
Messersmith đáp, “Các vụ tấn công sẽ còn tiếp tục.”
Trên khắp các tuyến đường đến Nuremberg, Martha cùng những người bạn đồng hành gặp phải các nhóm mặc đồng phục áo nâu của SA, trẻ già, béo gầy đủ cả, diễu hành, hát hò và tay giơ cao những tấm băng rôn Quốc xã. Khi chiếc xe chạy chậm lại qua các con đường làng chật hẹp, người dân đứng xem thường xuyên quay lại nhìn họ và chào theo kiểu Quốc xã, hô to lên “Hitler Vạn tuế”. Rõ ràng họ cho rằng con số dưới cùng trên biển số - theo truyền thống Đại sứ Mỹ tại Đức đều mang số 13 - chứng minh rằng những kẻ ngồi trong xe chắc là gia đình của tên quan chức Quốc xã nào đó từ Berlin. “Sự phấn khích của họ thật dễ lây lan, tôi đã chào ‘Hitler Vạn tuế’ một cách đầy vinh quang như bất kì tên Quốc xã nào,” Martha viết trong nhật kí. Hành vi của cô khiến anh trai và Reynolds khiếp đảm, nhưng cô tảng lờ những lời chế giễu sâu cay của họ. “Tôi cảm thấy mình như đứa trẻ, sôi nổi, nhiệt huyết và vô tư, thứ chất độc của chế độ mới ngấm vào tôi như rượu vang.”
Gần nửa đêm, họ ghé vào một trạm dừng chân trước cửa khách sạn mà họ đặt phòng tại Nuremberg. Đã từng đến Nuremberg, Reynolds biết về đêm nơi này im lặng như chết, nhưng lúc này, anh viết, “họ thấy một đám đông phấn khích, vui vẻ”. Suy nghĩ đầu tiên của anh là những kẻ này đang tham gia liên hoan ngành đồ chơi huyền thoại của thành phố.
Vào khách sạn, Reynolds hỏi nhân viên tiếp tân, “Sắp có đoàn diễu hành đi qua đây à?”
Tay nhân viên vui vẻ và dễ chịu, phá lên cười sung sướng đến mức râu của anh ta rung lên, Reynolds nhớ lại. “Đúng là sẽ có diễu hành,” anh ta đáp. “Họ sắp dạy ai đó một bài học.”
Sau khi mang hành lí lên phòng, họ ra ngoài ngắm thành phố và tìm quán ăn.
Bên ngoài ngày càng đông lên, không khí hân hoan tràn ngập. “Ai ai cũng kích động, cười nói,” Reynolds chứng kiến. Điều khiến anh kinh ngạc đó là mọi người thân thiện làm sao - chắc chắn thân thiện hơn nhiều đám đông ở Berlin. Anh ghi lại rằng ở đây nếu bạn có vô tình va phải ai đó, họ sẽ nở nụ cười lịch thiệp và tha thứ cho bạn.
Từ khoảng cách xa, họ nghe thấy tiếng la hét thô tục khàn khàn, tăng dần cường độ của một đám đông ầm ĩ hơn đang tiến vào con phố. Vẳng lại từ xa là âm thanh của một ban nhạc đường phố, tất cả đều là tiếng kèn đồng ầm ĩ. Đám đông tiến đến trông háo hức vui vẻ, Reynolds viết. “Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng hò reo của đám đông từ cách ba khu phố, thanh âm ấy ùa đến chỗ chúng tôi cùng tiếng nhạc.”
Tiếng ồn ngày càng tăng, đi kèm với đó là chùm ánh sáng lung linh màu cam, rung rinh trên mặt tiền các tòa nhà. Một lúc sau đoàn diễu hành xuất hiện trong tầm nhìn, một đội ngũ SA xếp hàng dọc mặc đồng phục nâu mang theo đuốc và băng rôn. “Thì ra là Sư đoàn Bão tố,” Reynolds để ý. “Không phải là thợ làm búp bê.”
Ngay sau đội đầu tiên là hai toán lính rất đông, đi ở giữa là một tù nhân nhỏ con hơn nhiều, cho dù Reynolds ban đầu không thể đoán chắc là nam hay nữ. Chúng “nửa dìu, nửa kéo lê” cái bóng đó trên phố. “Đầu người đó bị cạo trọc lốc,” Reynolds viết, “mặt và đầu bị phủ đầy bột trắng.” Martha mô tả gương mặt này mang “sắc màu của rượu absinth pha loãng.”
Họ tiến vào gần hơn theo đám đông xung quanh, giờ thì Reynolds và Martha đã nhận ra bóng người đó là một phụ nữ trẻ - mặc dù Reynolds vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn. “Ngay cả cho dù bóng người đó mặc váy, nhưng vẫn có thể là một người đàn ông ăn mặc như thằng hề,” Reynolds viết. “Đám đông quanh tôi gào thét khi trông thấy bóng người đó bị kéo lê.”
Người dân thành Nuremberg đang vui vẻ quanh họ bỗng biến đổi, to mồm mắng nhiếc và sỉ nhục người phụ nữ. Đám lính đứng hai bên cô ta đột ngột bắt cô ta đứng thẳng dậy, làm lộ ra một bức tranh áp phích đeo trên cổ. Tiếng cười thô tục vang lên từ khắp xung quanh. Martha, Bill và Reynolds vận dụng hết vốn tiếng Đức còm của họ hỏi người xung quanh xem chuyện gì đang diễn ra và biết lõm bõm rằng cô gái có quan hệ với một người đàn ông Do Thái. Cố gắng hết sức, Martha mới hiểu dòng chữ trên tấm áp phích, “TÔI ĐÃ DÂNG HIẾN CHO MỘT TÊN DO THÁI”.
Khi Sư đoàn Bão tố đi qua, đám đông từ trên vỉa hè tràn xuống con phố phía sau và đi theo chúng. Một chiếc xe buýt hai tầng mắc kẹt giữa đám đông. Ông tài xế giơ hai tay lên giả đầu hàng. Hành khách trên hàng ghế đầu chỉ trỏ vào cô gái và cười. Đám lính một lần nữa bắt cô gái đứng thẳng dậy - như một món “đồ chơi của chúng,” Reynolds khẳng định - để những người trên xe nhìn được rõ hơn. “Rồi ai đó nảy ra ý tưởng đem diễu cái thứ đó vào hành lang khách sạn chúng tôi,” Reynolds viết. Anh biết rằng “cái thứ” đó có tên: Anna Rath.
Ban nhạc dừng lại trên phố, vẫn tiếp tục chơi nhạc một cách ầm ĩ, cay độc. Sư đoàn Bão tố xuất hiện từ hành lang, kéo lê cô gái đến một khách sạn khác. Ban nhạc chơi bài “Horst Wessel Song”, và bất chợt từ khắp các hướng dọc con phố, đám đông chú ý đến những cánh tay phải vươn dài theo kiểu chào Quốc xã, tất cả cùng mạnh mẽ cất tiếng hát.
Hát xong, đám rước tiếp tục đi. “Tôi muốn đi theo họ,” Martha viết, “nhưng hai người bạn của tôi ghê tởm đến mức họ kéo tôi ra chỗ khác”. Bản thân cô cũng bị chấn động trước hình ảnh đó, nhưng cô không cho phép nó vấy bẩn toàn bộ quan điểm của cô về đất nước này và sự hồi phục tinh thần do cuộc Cách mạng Quốc xã đem lại. “Tôi đã cố gắng tự nhủ biện minh cho hành động của Quốc xã, khăng khăng cho rằng chúng ta không nên vội lên án khi chưa hiểu rõ toàn bộ câu chuyện.”
Bộ ba bước vào quán bar trong khách sạn, Reynolds thề sẽ uống đến say mèm. Thật khẽ khàng, anh hỏi cậu phục vụ quầy bar về chuyện vừa xảy ra. Cậu ta thì thầm kể chuyện. Bất chấp những cảnh báo của Quốc xã cấm tiệt hôn nhân giữa dân Do Thái và người Aryan thuần chủng, cô gái đã lên kế hoạch kết hôn với vị hôn phu Do Thái. Việc này ở bất kì đâu trên đất Đức cũng đều mạo hiểm, cậu ta giải thích, nhưng chẳng nơi nào chuyện đó nguy hiểm hơn ở Nuremberg. “Anh đã từng nghe nói đến ngài S, người có nhà ở đây chưa?” Cậu ta hỏi.
Reynolds đã hiểu. Cậu ta muốn nói đến Julius Streicher, người mà Reynolds đã mô tả là “nhà tư tưởng bài Do Thái của Hitler ”. Theo lời nhà tiểu sử của Hitler, Ian Kershaw, Streicher “có dáng người béo lùn, là kẻ du côn mày râu nhẵn nhụi... cực kì bị ám ảnh bởi những hình tượng ma quỷ về người Do Thái.” Hắn là người sáng lập tờ báo bài Do Thái hiểm độc Der Stürmer.
Reynolds nhận ra rằng những gì anh, Martha và Bill vừa chứng kiến là một sự kiện có ý nghĩa hơn cả các chi tiết thực tế của nó. Các phóng viên nước ngoài tại Đức đã báo cáo các vụ lạm dụng người Do Thái, nhưng cho đến giờ các câu chuyện của họ chỉ dựa trên cuộc điều tra sau khi sự việc đã xảy ra, chỉ dựa vào mô tả của những người chứng kiến. Còn ở đây là một hành động tàn bạo chống người Do Thái mà một phóng viên đã chứng kiến tận mắt. “Bọn Quốc xã bấy lâu nay toàn phủ nhận những hành động tàn bạo đôi khi được báo cáo ở nước ngoài, nhưng đây là bằng chứng xác thực,” Reynolds viết. “Không một phóng viên nào được chứng kiến tận mắt một hành động như thế,” anh thốt lên Biên tập viên của anh đồng ý rằng đây là câu chuyện quan trọng, nhưng lo sợ rằng nếu Reynolds cố gắng gửi đi, điện tín sẽ bị những kẻ theo dõi của Quốc xã chặn lại. Ông bảo Reynolds gửi theo đường thư tín, khuyến cáo bỏ hết phần ám chỉ đến lũ trẻ nhà Dodd, nhằm tránh gây rắc rối cho Đại sứ mới.
Martha van xin anh đừng viết hết câu chuyện này ra. “Đó là một vụ riêng biệt,” cô tranh luận. “Không thực sự nghiêm trọng, không để lại ấn tượng xấu, thực sự chẳng cho thấy chuyện gì đang diễn ra ở Đức, không phủ bóng đen lên công cuộc kiến thiết của họ.”
Martha, Bill và Reynolds tiếp tục nam tiến sang Áo, nơi họ nghỉ thêm một tuần nữa trước khi về Đức, quay lại dọc theo sông Rhine. Khi trở về văn phòng, Reynolds thấy các lệnh triệu tập khẩn của trùm thông tấn nước ngoài Ernst Hanfstaengl.
Hanfstaengl rất tức tối, đến giờ vẫn chưa nhận thức được cả Martha và Bill đều là người chứng kiến vụ này.
“Chẳng có tí sự thật khốn kiếp nào trong câu chuyện của anh!” Anh ta gầm lên. “Tôi đã nói chuyện với mọi người ở Nuremberg, họ chẳng nói gì về sự việc xảy ra ở đó.”
Reynolds nhẹ nhàng thông báo cho Hanfstaengl rằng mình đã xem đoàn diễu hành cùng hai nhân chứng quan trọng, anh không ghi tên họ vào câu chuyện, nhưng lời làm chứng của họ không thể chối cãi được. Rồi Reynolds nói ra tên hai người đó.
Hanfstaengl ngồi thụp xuống ghế và gục đầu. Anh ta phàn nàn rằng lẽ ra Reynolds phải nói cho anh ta biết sớm hơn. Reynolds muốn anh ta phải gọi cho gia đình Dodd để xác nhận về sự có mặt của họ, nhưng Hanfstaengl xua tay phản đối.
Tại buổi họp báo không lâu sau đó, Goebbels, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, đã không đợi phóng viên nêu ra vấn đề lạm dụng người Do Thái, mà lão đã tự mình làm điều đó. Lão trấn an bốn mươi hoặc hơn thế các phóng viên trong phòng rằng những vụ như thế chỉ là hiếm hoi, do những kẻ “không có trách nhiệm” gây ra.
Một phóng viên, Norman Ebbutt, người đứng đầu chi nhánh London Times tại Berlin, ngắt lời. “Nhưng thưa Bộ trưởng, chắc ngài đã nghe nói đến cô gái Aryan đó, Anna Rath, người bị đem diễu quanh Nuremberg, chỉ vì muốn kết hôn với một người Do Thái?”
Goebbels mỉm cười. Nụ cười làm gương mặt lão biến dạng kinh khủng, cho dù nét biểu cảm này chẳng hấp dẫn gì. Nhiều người trong phòng đã từng gặp phải hiệu ứng này rồi. Có điều gì đó dị hợm về mức độ các cơ nửa dưới gương mặt lão nặn ra nụ cười đó và những thay đổi rất nhanh trên nét mặt lão.
“Hãy để tôi giải thích làm sao một chuyện như thế có thể thi thoảng xảy ra,” Goebbels đáp. “Trong suốt mười hai năm của nền Cộng hòa Weimar, người dân chúng tôi gần như bị cầm tù. Giờ đây, đảng của chúng tôi nắm quyền và họ đã có lại tự do. Khi một người đã bị cầm tù suốt mười hai năm rồi bất ngờ được tự do, vì vui quá anh ta có thể làm chuyện gì đó vô lí, thậm chí có lẽ là tàn bạo. Chẳng phải chuyện này cũng có thể xảy ra ở nước bạn sao?”
Ebbutt, với giọng điềm đạm lưu ý sự khác biệt cơ bản trong cách người Anh tiếp cận viễn cảnh đó. “Nếu thực sự có chuyện này,” anh đáp, “chúng tôi sẽ lập tức tống hắn vào tù lần nữa.”
Nụ cười của Goebbels tắt lịm, rồi hiện ra gần như ngay lập tức. Lão nhìn quanh phòng. “Còn câu hỏi nào khác không?”
Các phóng viên Mỹ không chính thức phản đối sự việc này, một quan chức Bộ Ngoại giao Đức gửi lời xin lỗi đến Martha. Anh ta không cho rằng đây là một vụ cá biệt và vụ này sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Martha sẵn sàng chấp nhận quan điểm của anh ta. Cô vẫn còn bị mê hoặc trước cuộc sống tại nước Đức mới. Trong lá thư gửi Thornton Wilder, cô bộc lộ một hồi, “Tuổi trẻ với gương mặt sáng ngời và đầy hi vọng, họ hát tụng ca bóng ma quý tộc của Horst Wessel với đôi mắt rực sáng và miệng lưỡi dẻo như kẹo. Những anh chàng người Đức này thật mạnh mẽ và đẹp trai, tốt bụng, chân thành, khỏe mạnh, tàn bạo một cách bí ẩn, đẹp đẽ, đầy hi vọng, có thể chết và yêu, sâu sắc, là những con người kì lạ và phi thường - những thanh niên của nước Đức Quốc xã hiện đại.”
Trong khi đó, Dodd nhận được lời mời tham dự tiệc mít tinh sắp tới tại Nuremberg của văn phòng ngoại giao Đức, dự kiến bắt đầu sớm nhất vào ngày 01 tháng 09. Lời mời làm ông bối rối.
Ông đã đọc về thiên hướng của Đảng Quốc xã hay dàn dựng các màn phô diễn sức mạnh và tiềm năng của Đảng. Ông xem chúng không phải là các sự kiện chính thức được Nhà nước tài trợ mà là chuyện riêng của Đảng, chẳng liên quan gì đến các quan hệ quốc tế. Ông không thể tưởng tượng bản thân mình tham dự một buổi mít tinh như thế, cũng tương tự như hình dung ông Đại sứ Đức sang Mỹ tham dự hội nghị của đảng Cộng hòa hay Dân chủ. Hơn nữa, ông sợ rằng Goebbels cùng Bộ Tuyên truyền của lão sẽ nắm chặt lấy thực tế sự hiện diện của ông và khắc họa nó như một sự chứng thực các chính sách và hành vi của Quốc xã.
Thứ Ba, ngày 22 tháng 08, Dodd đánh điện về Bộ Ngoại giao xin lời khuyên. “Tôi nhận được một câu trả lời lấp lửng,” ông viết trong nhật kí. Bộ Ngoại giao hứa hẹn ủng hộ bất kì quyết định gì ông đưa ra. “Ngay lập tức, tôi hạ quyết tâm sẽ không đi, ngay cả nếu tất cả các đại sứ khác đều tới”. Đến thứ Bảy, ông thông báo cho văn phòng ngoại giao Đức rằng mình sẽ không tham dự. “Tôi từ chối lời mời lấy cớ vì sức ép công việc, cho dù lí do chính là vì tôi không ủng hộ lời mời của Chính phủ đến dự một hội nghị của Đảng,” ông viết. “Tôi cũng chắc chắn rằng hành vi của nhóm thống trị thật đáng xấu hổ.”
Dodd chợt lóe lên một ý tưởng: Nếu ông có thể thuyết phục các đồng nghiệp của ông từ Anh, Tây Ban Nha và Pháp cùng từ chối lời mời, hành động nhất trí của họ sẽ gửi một thông điệp gián tiếp, thích hợp nhưng hiệu quả về sự đoàn kết và phản đối.
Ban đầu Dodd gặp gỡ Đại sứ Tây Ban Nha, theo Dodd mô tả là một cuộc gặp “dân dã dễ chịu”, vì Đại sứ Tây Ban Nha cũng chưa được công nhận chính thức. Ngay cả như thế, cả hai cùng tiếp cận vấn đề với sự thận trọng. “Tôi đã ngụ ý rằng mình sẽ không đi,” Dodd viết. Ông cung cấp cho Đại sứ Tây Ban Nha một chút sự kiện lịch sử là lí do khiến lời mời mất giá trị. Đại sứ Tây Ban Nha đồng ý rằng buổi mít tinh là chuyện riêng của Đảng, không phải sự kiện của nhà nước, nhưng không cho biết ông ta sẽ làm gì.
Tuy nhiên, Dodd biết rằng cuối cùng ông chỉ nhận được những lời xin lỗi của họ, như các đại sứ Pháp và Anh, mỗi người đều viện ra những lí do này kia không từ chối được.
Bộ Ngoại giao chính thức phê chuẩn lời từ chối nhẹ nhàng, không chính thức của Dodd, quyết định của ông khiến một số quan chức cao cấp bực bội, bao gồm Thứ trưởng Phillips và Trưởng phòng Phụ trách Các Vấn đề Tây Âu Jay Pierrepont Moffat. Họ xem quyết định của Dodd như sự khiêu khích không cần thiết, càng chứng minh rằng việc bổ nhiệm ông làm Đại sứ là một sai lầm. Sức ép bắt đầu đè nặng lên vai Dodd.