Cuối tháng Tám, Tổng thống Hindenburg rốt cuộc cũng trở về Berlin từ nơi dưỡng bệnh ở tư dinh quê nhà. Đến thứ Tư, ngày 30 tháng 08 năm 1933, Dodd diện áo vest cổ mở kiểu Ý, đầu đội mũ chóp cao, lái xe đến phủ tổng thống đệ trình quốc thư.
Tổng thống có dáng người to lớn với bộ râu uốn cong màu xám trắng như đôi cánh bạc. Cổ áo bộ đồng phục của ông ta cao và cứng ngắc, chiếc áo trùm hông với những tấm huy chương tạo điểm nhấn, vài tấm trong số này có hình dạng ngôi sao tỏa sáng rực rỡ, to bằng những quả cầu trang trí trên cây thông Noel. Xét toàn diện, ông ta muốn người khác cảm nhận được sức mạnh cùng vẻ nam tính khỏe khoắn, trái ngược với cái tuổi tám mươi lăm. Hitler, cũng như Goebbels và Göring đều vắng mặt, bộ ba này được cho là đang chuẩn bị cho buổi mít tinh của Đảng sẽ bắt đầu hai ngày sau đó.
Dodd đọc một bài diễn văn ngắn gọn, nhấn mạnh sự cảm thông của ông dành cho nước Đức, lịch sử và văn hóa của quốc gia này. Trong bài viết, không có một dòng nào ám chỉ đến Chính phủ, hi vọng qua đó nêu bật quan điểm không cảm thông với chế độ Hitler.
Trong mười lăm phút tiếp theo, ông cùng Quý Ông Già ngồi bên nhau trên chiếc “ghế bành ưa thích”, nói chuyện trên trời dưới biển, từ trải nghiệm ở trường đại học của Dodd tại Leipzig đến những nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc kinh tế. Về sau, Dodd ghi lại trong nhật kí, Hindenburg “nhấn mạnh chủ đề các quan hệ quốc tế rất sâu sắc, đến mức tôi nghĩ ông ấy có ý phê phán gián tiếp những kẻ cực đoan Quốc xã”. Dodd giới thiệu các nhân viên sứ quán chủ chốt của ông, sau đó tất cả cùng rời khỏi tòa nhà đến gặp những người lính của đội quân chính quy, Quân Phòng vệ Đế chế, đang sống ở cả hai bên con phố.
Lần này, Dodd không đi bộ về nhà. Khi các xe của Đại sứ quán lăn bánh rời đi, những người lính đứng nghiêm im lặng. “Tất cả đã kết thúc,” Dodd viết, “cuối cùng cũng trở thành Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền của Mỹ tại Berlin.” Hai ngày sau, ông thấy mình phải đương đầu với cuộc khủng hoảng chính thức đầu tiên.
Sáng ngày 01 tháng 09 năm 1933, thứ Sáu, H. V. Kaltenborn, bình luận viên đài phát thanh Mỹ, gọi điện cho Tổng Lãnh sự Messersmith bày tỏ hối tiếc rằng mình không thể ghé qua thăm, vì anh ta cùng gia đình đã kết thúc chuyến du lịch châu Âu và đang sắp quay về nhà. Chuyến xe lửa đưa họ đến bến tàu thủy theo kế hoạch sẽ khởi hành vào nửa đêm.
Anh ta nói rằng mình vẫn chẳng thấy bằng chứng gì cho những chỉ trích của Tổng Lãnh sự về nước Đức, anh ta buộc tội ông “thực sự đang sai lầm, khi không khắc họa hình ảnh nước Đức như nó vốn thế.”
Không lâu sau cuộc gọi này, Kaltenborn cùng gia đình anh ta - vợ, con gái và con trai - rời khách sạn Adlon đi mua sắm vào phút cuối. Con trai họ, Rolf, lúc đó mười sáu tuổi. Bà Kaltenborn thực sự muốn đến thăm cửa hàng vàng bạc đá quý trên đường Unter den Linden, nhưng chuyến phiêu lưu của họ đi xa hơn về phía nam thêm bảy khu phố nữa đến Leipziger Strasse. Đây là một đại lộ đông - tây nhộn nhịp đầy xe ô tô, xe điện và hai bên là những tòa nhà tuyệt đẹp, vô số cửa hàng nhỏ bán đồng, đồ sứ Trung Quốc Dresden, lụa, thời trang đồ da, và hầu như bán mọi thứ đáng thèm muốn. Đây cũng là khu chợ Wertheim’s Emporium nổi tiếng, một cửa hàng bách hóa khổng lồ - Warenhaus - bên trong đông nghịt khách hàng, đi hết tầng này đến tầng khác bằng tám mươi ba chiếc thang máy.
Khi gia đình anh ta từ cửa hàng đi ra, họ trông thấy một đội hình Sư đoàn Bão tố đang diễu hành dọc đại lộ về phía họ. Lúc này là 9 giờ 20 phút sáng.
Khách bộ hành bu lại trên mép vỉa hè, chào theo kiểu Quốc xã. Bất chấp quan điểm đồng cảm, nhưng Kaltenborn không muốn làm theo và biết rằng một trong các phó tướng hàng đầu của Hitler, Ru- dolf Hess, đã tuyên bố công khai rằng người nước ngoài không cần phải chào theo. “Chuyện này từ nay như làm dấu Thánh giá,” Hess tuyên bố, “khi bạn bước vào một Nhà thờ Cơ Đốc giáo.” Tuy nhiên, Kaltenborn dặn cả gia đình quay nhìn cửa kính quầy hàng như thể đang xem món hàng nào đó.
Vài tên lính bước đến chỗ gia đình Kaltenborn, gặng hỏi tại sao họ quay lưng lại đoàn diễu hành và tại sao họ lại không chào. Bằng tiếng Đức thật trau chuốt, Kaltenborn trả lời rằng anh ta là người Mỹ, rằng anh ta cùng gia đình đang trên đường về khách sạn.
Đám đông bắt đầu sỉ nhục Kaltenborn và trở nên đầy đe dọa, đến mức mà tay bình luận viên phải lên tiếng gọi hai cảnh sát đang đứng cách đó ba mét. Nhưng họ không phản ứng.
Kaltenborn cùng gia đình bắt đầu đi bộ về khách sạn. Một thanh niên tiến đến từ phía sau, không nói một lời, túm chặt lấy con trai của Kaltenborn, đánh thật mạnh vào mặt thằng bé làm nó ngã gục xuống vỉa hè. Nhưng cảnh sát vẫn chẳng làm gì. Một trong hai tên còn mỉm cười.
Không bình tĩnh được nữa, Kaltenborn túm chặt cánh tay tên thanh niên, kéo hắn đến chỗ hai cảnh sát. Đám đông ngày càng kích động hơn, Kaltenborn nhận ra mình càng cố gắng đòi hỏi công bằng bao nhiêu sẽ càng ăn đòn thêm bấy nhiêu.
Cuối cùng, một thường dân đứng ra can thiệp và thuyết phục đám đông để yên cho gia đình Kaltenborn, vì rõ ràng họ là người Mỹ. Đoàn diễu hành tiếp tục đi.
Sau khi an toàn về đến khách sạn Adlon, Kaltenborn gọi điện cho Messersmith. Anh ta khó chịu và gần như líu cả lưỡi. Anh ta đề nghị Messersmith đến khách sạn Adlon ngay lập tức.
Đối với Messersmith, đây là một khoảnh khắc cực kì đáng lo ngại nhưng mơ hồ. Ông trả lời không thể đến khách sạn được. “Thật tình cờ là tôi cũng có việc trong vài tiếng nữa,” ông nhớ lại. Nhưng ông cũng phái Phó Lãnh sự, Raymond Geist đến khách sạn Adlon, bố trí hộ tống gia đình Kaltenborn đến nhà ga tối hôm đó.
“Thật mỉa mai khi đây chính là một trong những điều Kaltenborn cho rằng không thể xảy ra,” Sau này Messersmith viết, rõ ràng thấy hài lòng. “Một trong những chuyện anh ta đặc biệt cho rằng tôi đã báo cáo không chính xác, đó là cảnh sát chẳng làm gì bảo vệ người dân trước các cuộc tấn công.” Messersmith nhận thức rằng vụ này chắc phải là kinh nghiệm xương máu đối với nhà Kaltenborn, đặc biệt là với con trai họ. “Tuy nhiên, chuyện đã xảy ra lại là một điều tốt, bởi nếu không có vụ này, Kaltenborn hẳn sẽ về nước, kể lể với khán thính giả của anh ta rằng mọi thứ ở Đức tốt đẹp ra sao, rằng các quan chức người Mỹ đang báo cáo với Chính phủ chúng ta những điều tồi tệ đến thế nào, và các phóng viên tại Berlin đang hình dung các diễn biến ở đất nước này sai lầm thế nào.”
Messersmith gặp Dodd và hỏi phải chăng đã đến lúc Bộ Ngoại giao đưa ra lời cảnh báo đáng tin cậy đừng du lịch đến Đức. Cả hai đều biết, một lời cảnh báo như thế này sẽ tạo ra ảnh hưởng gây tổn hại uy tín của Quốc xã.
Dodd đồng ý hạn chế. Xuất phát từ quan điểm của một đại sứ, ông thấy những cuộc tấn công này gây phiền nhiễu hơn là một tình huống khẩn cấp đáng sợ, và trên thực tế, vào bất kì lúc nào có thể, ông đều muốn hạn chế báo chí thò mũi vào. Trong nhật kí, ông nói rõ sẽ cố xoay sở không để báo chí đánh hơi thấy mấy vụ tấn công nhằm vào người Mỹ, và “đồng thời ngăn chặn những biểu hiện không thân thiện.”
Tuy nhiên, trên phương diện cá nhân, Dodd thấy những sự kiện này thật ghê tởm, cực kì xa lạ với trải nghiệm ông đã từng có khi còn học tiến sĩ ở Leipzig. Trong các bữa ăn của gia đình, ông lên án các vụ tấn công, tuy nhiên nét mặt con gái ông không hề cho thấy vẻ phẫn nộ nào hết.
Martha vẫn giữ thiên hướng nghĩ đến điều tốt đẹp nhất của nước Đức mới, như cô thừa nhận sau này, một phần vì tính ngoan cố đơn giản của một đứa con gái đang cố gắng định nghĩa bản thân. “Tôi đang cố biện minh cho những hành vi quá đáng của họ, và cha tôi nếu tha thứ sẽ nhìn tôi lạnh lùng một chút, vừa thầm lặng vừa công khai, ông nhẹ nhàng dán nhãn tôi là thanh niên Quốc xã,” cô viết. “Điều này khiến tôi rơi vào thế khép mình một thời gian, và tôi tạm thời trở thành người bào chữa mạnh mẽ cho mọi chuyện đang diễn ra.”
Cô biện hộ rằng còn nhiều điều tốt đẹp khác về nước Đức. Đặc biệt, cô tán dương sự nhiệt tình của lớp trẻ tại quốc gia này, về những biện pháp Hitler đang thi hành nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp. “Tôi cảm thấy điều gì đó cao cả trên những gương mặt trẻ trung, tươi tắn, sôi nổi, mạnh mẽ ở khắp nơi, và tôi sẽ nói lên điều đó một cách hùng hồn ngay khi có cơ hội.” Trong những lá thư gửi về Mỹ, cô tuyên bố nước Đức đang trải qua một cuộc tái sinh li kì, “rằng các bài viết của báo chí và các câu chuyện tàn bạo đều chỉ là những ví dụ cá biệt, do những kẻ cay đắng, hẹp hòi nói quá lên.”
Cái ngày thứ sáu ầm ĩ với cuộc tấn công gia đình Kaltenborn đã kết thúc, khiến tâm trạng Dodd hài lòng hơn rất nhiều.
Tối hôm đó, phóng viên Edgar Mowrer lên đường đến nhà ga Zoo, bắt đầu chuyến đi dài tới Tokyo. Vợ và con gái anh đi cùng đến nhà ga nhưng chỉ để tiễn chồng: họ sẽ ở lại giám sát, gói ghém đồ đạc của gia đình và sẽ sớm đi Tokyo.
Hầu hết các phóng viên nước ngoài trong thành phố đều tề tựu ở nhà ga, vài người Đức đủ bạo gan cũng làm tương tự, chẳng quan tâm có thể bị nhìn thấy và nhận diện bởi đám mật vụ, những kẻ vẫn không ngừng theo dõi Mowrer.
Tên quan chức Quốc xã được lệnh phải chắc chắn Mowrer thực sự lên tàu, bằng giọng thẽ thọt, hắn hỏi, “Khi nào ngài trở về Đức, thưa ngài Mowrer?”
Ánh mắt bừng lửa giận, Mowrer đáp. “Nếu tôi có thể quay lại với hai triệu người dân nước tôi thì thế nào?”
Messersmith ôm chầm lấy anh ta, cho thấy sự ủng hộ của ông, trước con mắt đám mật vụ. Bằng giọng đủ to để chúng nghe thấy, Messersmith hứa rằng vợ con của Mowrer sẽ đi theo mà không bị cản trở. Mowrer cảm kích nhưng vẫn không tha thứ cho Messersmith, vì không lên tiếng cho anh ta được ở lại Đức. Khi Mowrer lên tàu, anh ta quay lại khẽ mỉm cười với Messersmith và nói, “Ngài cũng vậy nhé, Brutus.”61
61 Nguyên văn “You too, Brutus.” là cách chơi chữ của Mowrer. Anh ta ám chỉ đến câu “Et tu, Brute?” của Julius Caesar hỏi bạn ông Marcus Junius Brutus, trong vở kịch Julius Caesar của Shakespeare. Câu này nghĩa là “Cả cậu nữa sao, Brutus?”. Brutus đã phản bội Julius Caesar và ám sát ông.
Đối với Messersmith đây là lời nhận xét hạ nhục. “Tôi cảm thấy đau khổ và tuyệt vọng,” ông nói. “Tôi biết cậu ấy ra đi là điều cần thiết, nhưng tôi căm ghét bản thân mình cũng là nguyên nhân khiến cậu ấy phải bỏ đi.”
Dodd không ra ga tiễn. Ông thấy mừng khi Mowrer đã đi rồi. Trong lá thư gửi một người bạn ở Chicago, ông viết rằng “bạn cũng biết có thời gian Mowrer gây chút rắc rối ở đây”. Dodd thừa nhận rằng Mowrer là một cây bút tài năng. “Tuy nhiên, những trải nghiệm của anh ta sau khi xuất bản cuốn sách” - tai tiếng và một giải Pulitzer - “khiến anh ta trở nên sắc sảo và dễ bị kích động, không thèm uốn mình làm hài lòng tất cả.”
Mowrer cùng gia đình anh ta đã an toàn đến Tokyo. Vợ anh ta, Lillian, nhớ lại nỗi đau buồn to lớn của cô khi phải rời khỏi Berlin. “Tôi chẳng tìm thấy ở đâu những người bạn đáng yêu như ở Đức,” cô viết. “Nhìn lại tất cả như thể chứng kiến người bạn yêu thương hóa điên rồ - và làm những chuyện khủng khiếp.”
Những đòi hỏi về nghi thức ngoại giao - theo tiếng Đức là Protokoll - ám ảnh những tháng ngày của Dodd như một lớp sương mù đen kịt, tước đi thời gian được làm công việc ông yêu thích nhất, hoàn thành cuốn sách Miền Nam ngày xưa. Với địa vị là Đại sứ hiện được chính thức công nhận, các trách nhiệm ngoại giao theo thông lệ của ông bất ngờ nhiều lên, đến mức khiến ông hoang mang. Trong lá thư gửi Ngoại trưởng Hull, ông viết, “Nghi thức ngoại giao phán xử hành vi xã hội của ai đó theo tiền lệ, bắt ai đó phải tham gia các trò giải trí vô bổ, ngay sau khi người ta vừa ổn định nơi cư trú, và nó trao cho các bộ và từng đại sứ quán cái quyền “xã hội” được tổ chức những bữa tiệc tối hoành tráng.”
Tất cả gần như bắt đầu ngay lập tức. Nghi thức ngoại giao yêu cầu ông phải đón tiếp các ngoại giao đoàn. Ông đã tính nhiều lắm chỉ gần bốn mươi, năm mươi vị khách, nhưng rồi ông biết mỗi đoàn đều cử một hoặc vài nhân viên đến, khiến số người tham dự cuối cùng hơn hai trăm người. “Thế là buổi biểu diễn hôm nay bắt đầu vào lúc năm giờ,” Dodd viết trong nhật kí. “Các phòng của Đại sứ quán đã được chuẩn bị, hoa hoét bày ở khắp nơi, một bát to để pha rượu punch đã đổ đầy loại rượu quen thuộc.” Ngoại trưởng Neurath đến, rồi chủ tịch Ngân hàng Trung ương của Đệ tam Đế chế Schacht, một trong vài quan chức khác của chính quyền Hitler mà Dodd xem là người sáng suốt và biết điều. Schacht sẽ trở thành vị khách thường xuyên đến nhà Dodd, được bà Dodd rất quý mến, bà thường xuyên lợi dụng ông ta để lấp chỗ trống những cuộc gặp gỡ xã hội không thành, khi một vị khách tưởng sẽ đến nhưng bỗng dưng đổi ý. Bà rất thích nói rằng, “Chà, nếu mà vào phút cuối vị khách đó không đến được, chúng ta lúc nào cũng có thể mời Tiến sĩ Schacht”. Dodd quyết định, rốt cuộc “chuyện này cũng không tồi,” - và có một chi tiết ông đặc biệt hài lòng - “chỉ tốn 700 mác.”
Nhưng giờ đây, cơn lũ những lời mời đáp lễ, cả ngoại giao lẫn xã hội, tới tấp bay đến bàn làm việc rồi nhà riêng của Dodd. Tùy thuộc vào tầm quan trọng của sự kiện, thường kèm theo những lời mời này là trao đổi về sơ đồ xếp chỗ ngồi, được trao cho các nhân viên ngoại giao nhằm bảo đảm không sắp xếp nhầm lẫn họ hàng, tránh làm hỏng cả buổi tối. Số lượng các bữa tiệc, những cuộc đón tiếp phải tham dự nhiều đến mức ngay cả các nhà ngoại giao kì cựu cũng thấy phiền hà và mệt mỏi. Một quan chức mới ở Văn phòng Ngoại giao Đức nói với Dodd, “Người của ngài trong Ngoại giao đoàn nên hạn chế các công tác xã hội đi, bằng không chúng tôi sẽ không nhận lời mời nữa.” Một quan chức Anh cũng phàn nàn, “đơn giản là chúng tôi không thể kham nổi.”
Dĩ nhiên, không phải lúc nào cũng mệt nhọc. Các bữa tiệc và buổi đón tiếp này có rất nhiều những phút vui vẻ và hài hước. Goebbels nổi tiếng vì sự hóm hỉnh, từng có dạo Martha thấy lão quyến rũ. “Vui vẻ và dễ làm người khác vui lây, ánh mắt lấp lánh, giọng nói mềm mại, cách ăn nói của ông ta dí dỏm và nhẹ nhàng. Thật khó nhớ sự tàn bạo và những biệt tài hủy diệt xảo quyệt của ông ta”. Mẹ cô, Mattie, lúc nào cũng thích được xếp ngồi cạnh Goebbels trên bàn tiệc. Dodd xem lão “như một trong số vài người có khiếu hài hước ở Đức” và thường xuyên đối đáp với Goebbels bằng những câu nói dí dỏm ứng biến nhanh và những nhận xét mỉa mai. Một bức ảnh báo chí lạ thường chụp Dodd, Goebbels và Sigrid Schultz tại một bữa tiệc trang trọng, trong một khoảnh khắc có thể được xem là thân thiện, sôi nổi, vô tư. Cho dù bức ảnh rõ ràng có lợi cho bộ máy tuyên truyền của Quốc xã, khung cảnh diễn ra trong đại sảnh đãi tiệc còn phức tạp hơn trên ảnh chụp. Thực ra, như Schultz sau này giải thích trong cuộc phỏng vấn lịch sử truyền miệng, cô ta đang cố không nói chuyện với Goebbels nhưng trong quá trình này “chắc chắn trông như thể đang tán tỉnh”. Cô giải thích (dùng ngôi thứ ba): “Trong bức hình này, Sigrid chẳng buồn để ý đến lão ta, anh thấy đấy. Lão ta đang ra sức dùng đủ chiêu trò quyến rũ, nhưng lão ta biết rằng cô ấy chẳng ưa gì mình.” Cô nói khi Dodd xem bức ảnh gây chuyện kia, ông đã “phá lên cười sằng sặc.”
Dường như Göring cũng có nhân cách khá tốt, ít nhất so với Hitler. Sigrid Schultz thấy gã là người dễ chịu nhất trong số các quan chức Quốc xã, vì ít nhất “bạn cảm thấy bạn có thể ở chung phòng với gã,” cô nói, trái lại, Hitler “thuộc kiểu người khiến bụng tôi quặn lên”. Một trong số các nhân viên đại sứ quán Mỹ, John C. White, nhiều năm sau cho biết, “Tôi đã luôn luôn có ấn tượng tốt đẹp với Göring.… Nếu bất kì quan chức Quốc xã nào có thể thương được, tôi cho rằng ông ta là người gần đạt tiêu chuẩn nhất.”
Ban đầu, các nhà ngoại giao và những người khác thấy chẳng cần thiết phải đề phòng Göring. Gã giống một thằng nhóc giỏi giang, mặc dù cực kì nguy hiểm, vui sướng sáng tạo và mặc lên người những đồng phục mới. Khổ người to lớn khiến gã hứng chịu những trò đùa, cho dù những lời đùa cợt này không đến được tai gã.
Một đêm, Đại sứ Dodd cùng vợ đi xem một buổi hòa nhạc tại Đại sứ quán Italia, Göring cũng tham dự. Trong bộ đồng phục trắng cỡ lớn tự thiết kế, trông gã rất to béo - “gấp ba lần người bình thường,” như Martha kể trong câu chuyện. Ghế dành cho buổi hòa nhạc là những chiếc ghế cổ, dường như quá yếu ớt so với Göring.
Bị mê hoặc và không có một chút băn khoăn, bà Dodd nhìn Göring chọn ghế ngồi ngay trước mặt. Bà ngay lập tức thấy mình chết sững, khi Göring cố gắng nhét vừa cái mông “hình trái tim” bự tổ chảng xuống cái ghế bé tí. Trong suốt buổi hòa nhạc, bà cứ lo sợ cái ghế sẽ sụp đổ bất kì lúc nào, và tấm thân ục ịch của Göring sẽ đổ thẳng vào lòng bà. Martha viết, “Bà bị phân tâm trước hình ảnh cặp mông khổng lồ đang thò ra khỏi hai bên và mép ghế, ngay sát người bà rất nguy hiểm, bà không thể nhớ nổi một chút gì về vở kịch trên sân khấu.”
Lời than phiền nổi bật nhất của Dodd về các bữa tiệc ngoại giao do nhiều đại sứ quán tổ chức là hao tiền tốn của, thậm chí cả các quốc gia đang chìm sâu trong Đại Khủng hoảng cũng vung tay quá trán.
“Để minh họa,” ông viết cho Ngoại trưởng Hull, “tối qua vào lúc 20 giờ 30 phút, chúng tôi đi ăn tại ngôi nhà năm mươi ba phòng của công sứ Bỉ (quốc gia của ông ta được cho là không đáp ứng nổi các nghĩa vụ hợp pháp của chính họ).’’ Có hai người hầu mặc đồng phục đón xe của ông. Bốn người hầu đứng trên cầu thang, mặc trang phục theo phong cách người hầu của vua Louis XIV62. Ba người hầu khác mặc quần ống túm, phụ trách trông giữ áo choàng cho chúng tôi. Hai mươi chín người ngồi trong phòng ăn tối trang hoàng xa hoa hơn bất kì căn phòng nào trong Nhà Trắng tôi từng thấy. Tám món ăn đựng trên các đĩa bằng bạc do bốn hầu bàn không mặc đồng phục bưng lên. Có ba chai rượu vang đựng trên từng cái đĩa, và khi đứng lên, tôi nhận ra rất nhiều cốc rượu còn hẳn một nửa bị bỏ phí. Mọi người tại bữa tiệc đều có tính cách thoải mái, dễ chịu, nhưng đối với tôi chẳng có màn đối thoại nào để nghe tại bàn cả (điều này tôi cũng nhận thấy tại nhiều bữa tiệc lớn khác)... Chẳng có lấy bất cứ một thông tin hữu ích nào, hay thậm chí một cuộc chuyện trò hóm hỉnh nào sau bữa tối.” Martha cũng tham dự, cô mô tả “trên người các quý bà phủ đầy kim cương, đá quý - tôi chưa từng thấy một màn khoe của nào hợm hĩnh đến thế”. Cô cũng để ý việc cô cùng cha mẹ rời buổi tiệc lúc 22 giờ 30 phút đã gây ra một rắc rối nhỏ. “Rất nhiều quý ông, quý bà lịch lãm nhướng mày bối rối, nhưng chúng tôi vẫn mặc kệ tất cả và bỏ về”. Sau này cô mới hiểu, rời khỏi một buổi họp mặt ngoại giao quan trọng trước 23 giờ là sai nghi thức.
62 Vua Louis XIV (1638 - 1715): một vị vua của triều đại Bourbon, nước Pháp. Ông là nhân vật chính trong tiểu thuyết về lính ngự lâm của Alexandre Dumas, với tựa đề “Tử tước thành Bragelonne”.
Dodd choáng váng khi biết các đại sứ tiền nhiệm giàu có, sung túc của ông tại Berlin đã từng chi 100.000 USD một năm vào giải trí, nhiều gấp năm lần tổng mức lương của Dodd. Thi thoảng họ còn boa cho người hầu nhiều hơn hẳn tiền thuê nhà của Dodd mỗi tháng. “Tuy nhiên,” ông thề với Hull, “chúng tôi sẽ không đáp lại lòng hiếu khách này bằng những bữa tiệc mời quá mười hoặc mười hai khách, với bốn người hầu là tối đa, đều mặc quần áo bình thường” - có thể đoán chừng, ý ông muốn nói là họ mặc quần áo đầy đủ, nhưng không mặc quần ống túm như người Bỉ. Gia đình Dodd có nuôi ba người hầu, có một tài xế riêng và thuê thêm một, hai người hầu nữa phục vụ các bữa tiệc, với sự tham gia của nhiều hơn chục khách mời.
Theo bản tóm tắt chính thức về bất động sản thuộc sở hữu của Chính phủ trong “Báo cáo Cập nhật” hằng năm, trong tủ bát của đại sứ quán có bao gồm:
“Chúng tôi sẽ không dùng khay bạc, không dùng hàng đống rượu vang hay đặt các bàn chơi bài khắp nơi,” Dodd nói với Hull. “Chúng tôi sẽ luôn cố gắng mời vài học giả, nhà khoa học hay nhà văn đến dự để có những buổi trò chuyện hữu ích, và xin hiểu rằng chúng tôi sẽ giải tán từ 22 giờ 30 phút đến 23 giờ. Chúng tôi nói những điều này không để quảng bá, nhưng hãy hiểu cho rằng chúng tôi sẽ không ở đây nữa, nếu biết rằng chúng tôi không thể sống nổi bằng đồng lương.”
Trong lá thư gửi cho Carl Sandburg, ông viết, “Bản thân tôi không bao giờ thích nghi được với thói quen thông thường là nốc cho lắm mà chẳng hé môi nói câu nào, chưa kể đến chuyện trò, suốt ba tiếng đồng hồ dài dằng dặc”. Ông lo sợ rằng mình là nỗi thất vọng đối với những người giàu có nhất, những người bỏ tiền túi tổ chức các bữa tiệc xa hoa. “Họ không thể hiểu được tôi,” ông viết, “và tôi thấy tiếc cho họ”. Ông chúc Sandburg chóng hoàn thành tác phẩm của ông ta về Lincoln, sau đó than phiền, “Có lẽ tôi phải ôm cuốn Miền Nam ngày xưa mới hoàn thành được một nửa xuống mồ mất thôi.”
Ông kết thư bằng một dòng buồn bã, “Một lần nữa: Gửi lời chào thân ái từ Berlin!”
Dù sao thì sức khỏe của ông vẫn tốt, cho dù ông thường bị hành hạ bởi cơn sốt mùa hè, chứng khó tiêu và các bệnh đường ruột. Nhưng như thể báo trước những gì sắp đến, bác sĩ của ông tại Chica- go, Wilber E. Post gửi cho Dodd một biên bản ghi nhớ ông ta đã viết, sau lần khám tổng thể cuối cùng mười năm trước, để Dodd làm cơ sở so sánh với các lần khám sau này. Dodd có tiền sử đau tiền đình. Post viết, “với những cuộc tấn công của đau đầu, chóng mặt, mệt nhọc, xuống tinh thần và tính dễ bị kích thích của đường ruột”. Triệu chứng cuối cùng đang được điều trị theo phương pháp tốt nhất “là thể dục ngoài trời, tránh căng thẳng và mệt mỏi”. Huyết áp của ông rất tuyệt, 100 huyết áp tâm thu/60 huyết áp tâm trương, một người đàn ông ở tuổi cuối trung niên mà còn khỏe hơn cả vận động viên. “Đặc điểm lâm sàng nổi bật đó là sức khỏe của ông Dodd rất tốt, vì ông ấy có cơ hội tập thể dục ngoài trời nhiều và chế độ ăn tương đối lành mạnh, không ăn quá nhiều thịt.”
Trong lá thư bổ sung vào báo cáo, bác sĩ Post viết, “Tôi tin rằng ông sẽ không cần phải dùng đến nó, nhưng báo cáo có thể hữu ích trong trường hợp cần dùng.”
Tối thứ sáu hôm ấy, một chuyến tàu đặc biệt, tên là Sonderzug, xuyên màn đêm tiến về phía Nuremberg từ Berlin. Chuyến tàu chở các đại sứ của một chùm các quốc gia nhỏ, trong số này là các công sứ Haiti, Xiêm và Ba Tư. Ngoài ra là các nhân viên nghi thức ngoại giao, nhân viên tốc kí, một bác sĩ và một thành viên có vũ trang của Sư đoàn Bão tố. Đây là chuyến tàu đã chở Dodd cùng các đại sứ của Pháp, Tây Ban Nha và Anh. Ban đầu người Đức đã lên kế hoạch dùng đến mười bốn toa tàu, nhưng rồi khi nghĩ lại, họ rút xuống còn chín toa.
Hitler đã có mặt tại Nuremberg. Hắn đến đây từ đêm hôm trước, tham dự một lễ chúc mừng. Từng chi tiết buổi lễ của hắn được dàn xếp tỉ mỉ đâu vào đấy, kể cả món quà do thị trường thành phố tặng cho hắn - một bức tranh nổi tiếng của họa sĩ Albrecht Dürer có tựa đề Hiệp sĩ, Tử thần và Ác quỷ.