Thời tiết lạnh buốt, mỗi ngày ánh hoàng hôn phương bắc dường như xuất hiện sớm hơn hẳn. Có gió, mưa và sương mù. Tháng Mười một ấy, trạm quan trắc khí tượng tại sân bay Tempelhof ghi nhận trong ba mươi ngày thì mười ba ngày có sương mù. Thư viện tại số nhà 27a Tiergartenstrasse trở nên ấm áp đến không thể cưỡng nổi. Lửa trong lò sưởi lớn hắt ánh hổ phách lên những cuốn sách và các bức tường bọc vải damask. Ngày 04 tháng 11, một ngày thứ Bảy đặt dấu chấm hết cho một tuần gió mưa cực kì u ám. Martha đến tòa nhà Quốc hội, nơi một phòng xử án tạm thời ở Berlin được chuẩn bị để xử vụ cố tình phóng hỏa. Cô mang theo tấm vé tham dự Rudolf Diels tặng.
Cảnh sát cầm các khẩu carbine và kiếm vây quanh tòa nhà - “nhung nhúc” cảnh sát, theo lời một nhà quan sát. Ai cố gắng vào trong tòa án sẽ bị chặn lại khám xét. Tám mươi hai phóng viên nước ngoài bu kín nơi trưng bày báo chí, phía sau căn phòng. Năm thẩm phán, dẫn đầu là chủ tọa phiên tòa, Wilhelm Bünger, mặc áo choàng tím. Phần lớn người tham dự nằm trong đội ngũ SS và SA Áo Nâu, cũng như các thường dân, quan chức Chính phủ và nhà ngoại giao. Martha giật mình khi thấy vé của cô không chỉ đưa cô vào ngay sảnh chính, mà còn ở ngay phía trước phòng xử giữa nhiều nhân vật quyền cao chức trọng. “Tôi bước vào, tim đập thình thịch vì tôi ngồi quá gần phía trước,” cô nhớ lại.
Phiên xử trong ngày theo kế hoạch sẽ bắt đầu lúc chín giờ mười lăm, nhưng nhân chứng quan trọng nhất, Hermann Göring, đến muộn. Dường như, đây là lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu nghe lời làm chứng vào tháng Chín, mới có sự mong chờ thực sự trong phòng xử án. Phiên xử được cho là sẽ rất ngắn gọn và cung cấp cho Quốc xã một sân khấu tầm cỡ thế giới, để chúng có thể lên tiếng thách thức những ai giữ vững niềm tin rằng chính Quốc xã mới là bên phóng hỏa. Bất chấp có bằng chứng rõ ràng cho rằng chủ tọa ủng hộ bên nguyên, phiên xử vẫn diễn ra như một tòa án thực sự, với cả hai bên trình diện trước đông đảo người xem. Nhà nước hi vọng chứng minh được tất cả năm bị cáo đều tham gia vào vụ phóng hỏa, bất chấp Marinus van der Lubbe khăng khăng cho rằng chỉ mình anh ta là chủ mưu chính. Các bên nguyên mang theo vô số chuyên gia, hòng cố gắng chứng minh rằng thiệt hại cho tòa nhà nặng nề hơn nhiều, với quá nhiều đám cháy nhỏ ở nhiều nơi, nên không thể là tác phẩm của một tên phóng hỏa duy nhất. Theo lời Fritz Tobias, tác giả bài tường thuật ấn tượng về vụ phóng hỏa và dư âm của nó, trong quá trình này, phiên tòa lẽ ra phải hấp dẫn, gợi mở được nhiều thứ thì lại thành “một vực thẳm buồn tẻ, chán ngắt”.
Cho đến lúc này.
Göring sẽ đến vào bất kì lúc nào. Nổi tiếng dễ thay đổi và nói thẳng nói thật, ưa thích trang phục lòe loẹt và luôn thu hút sự chú ý, Göring được mong đợi sẽ tăng thêm sự sinh động cho phiên tòa. Khắp phòng xử vang lên tiếng quần áo sột soạt, khi mọi người cùng quay lại, nhìn ra lối vào.
Nửa tiếng trôi qua, thế nhưng Göring vẫn không xuất hiện. Diels cũng chẳng thấy tăm hơi.
Để giết thời gian, Martha ngắm nhìn các bị đơn. Có Ernst Torgler, một đại diện của Đảng Cộng sản trong Quốc hội trước khi Hitler thăng chức, trông nhợt nhạt và mệt mỏi. Có các nhà cộng sản Bulgaria - Georgi Dimitrov, Simon Popov và Vassili Tanev - trông họ đều “mạnh mẽ, cứng rắn và lãnh đạm”. Bị đơn quan trọng nhất, Marinus van der Lubbe, thể hiện “một trong những dấu hiệu xấu xí nhất tôi từng thấy ở con người. To lớn, đồ sộ, gương mặt và cơ thể như không phải của con người, trông anh ta thật ghê tởm, đáng ghét đến mức tôi gần như không thể chịu nổi khi nhìn anh ta.”
Một tiếng trôi qua. Sự căng thẳng trong phòng xử ngày càng lớn hơn. Sự sốt ruột và trông ngóng hòa vào nhau.
Phía sau khán phòng chợt ồn ào - tiếng ủng và tiếng ra lệnh, khi Göring cùng Diels bước vào, đứng giữa một nhóm xung kích mặc thường phục. Göring, bốn mươi tuổi, nặng 113 cân hoặc hơn, tự tin sải bước đến phía trước khán phòng, trong bộ áo jacket săn bắn màu nâu, quần cưỡi ngựa và đôi ủng nâu sáng lóe, cao đến đầu gối. Chẳng thứ nào có thể che lấp đi vòng bụng phì nộn của lão, hoặc khiến lão bớt “trông như mông voi”, như một nhà ngoại giao Mỹ đã mô tả. Diels, bảnh trai với bộ trang phục tối màu, trông như một cái bóng mảnh mai.
“Ai cũng nhảy dựng lên như thể bị điện giật,” một phóng viên người Mỹ quan sát, “và tất cả những người Đức, gồm cả các thẩm phán, đều giơ tay lên chào kiểu Hitler.”
Diels và Göring đứng bên nhau phía trước phòng xử, rất gần với Martha. Hai tên kín đáo trò chuyện.
Chủ tọa mời Göring lên tiếng. Lão bước lên phía trước. Martha nhớ lại, lão có vẻ phô trương và ngạo mạn, nhưng cô cũng cảm nhận được một làn sóng khó chịu ngầm.
Göring đọc bài diễn văn đã chuẩn bị trước, kéo dài gần ba tiếng. Bằng chất giọng cứng và phô, thi thoảng hét lên, lão giận dữ phản đối chủ nghĩa Cộng sản, các bị đơn và hành động phóng hỏa chúng phạm phải, chống nước Đức. Những tiếng hét “Hoan hô!” và tiếng vỗ tay vang dội khắp khán phòng.
“Lão cuồng loạn ra hiệu bằng một tay,” Hans Gisevius84 viết trong hồi kí Gestapo của mỉnh, “tay kia cầm chiếc khăn tay thấm nước hoa, lão lau mồ hôi trên lông mày.” Cố gắng ghi lại từng khoảnh khắc, Gisevius mô tả gương mặt của ba diễn viên quan trọng nhất trong phòng - “Dimitrov đầy khinh miệt, Göring nhăn nhó vì giận dữ, Chủ tọa phiên tòa Blinger tái mặt và sợ hãi.”
84 Hans Bernd Gisevius (1904 - 1974): nhà ngoại giao và sĩ quan tình báo của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông từng là thành viên của Gestapo.
Và rồi Diels, mảnh mai, đen tối, không đọc được gì trên nét mặt hắn. Diels giúp thẩm vấn Marinus van der Lubbe vào đêm xảy ra vụ cháy và kết luận rằng nghi phạm là một “kẻ điên”, thực sự chính anh ta là kẻ phóng hỏa. Tuy nhiên, Hitler và Göring, ngay lập tức quyết định rằng Đảng Cộng sản đứng đằng sau chuyện này, rằng vụ hỏa hoạn là cú đấm công khai, nằm trong một âm mưu nổi dậy lớn hơn. Đúng vào đêm đầu tiên ấy, Diels đã chứng kiến gương mặt Hitler tím ngắt vì phẫn nộ khi gào lên rằng, từng tên quan chức và thuộc cấp cộng sản sẽ phải bị bắn chết. Lệnh này sau đó được hủy bỏ, thay vào đó là bắt giữ và các hành động bạo lực tùy hứng của Sư đoàn Bão tố.
Lúc này, Diels đứng tựa khuỷu tay vào chiếc ghế dài của thẩm phán. Đôi lúc, hắn thay đổi tư thế như muốn quan sát Göring kĩ hơn. Martha có niềm tin rằng Diels đạo diễn màn thể hiện của Göring, thậm chí có lẽ đã viết ra bài diễn văn của lão. Cô nhớ lại Diels từng “đặc biệt háo hức muốn cô có mặt vào ngày này, gần như muốn khoe tay nghề khéo léo của mình”.
Diels đã cảnh báo đừng mở phiên tòa xử bất kì ai ngoài Marinus van der Lubbe, hắn đã dự đoán các bị đơn khác sẽ được tuyên trắng án. Nhưng Göring không nghe, cho dù lão đã nhận ra những rủi ro. “Một nước cờ đi sai,” Göring thừa nhận, “có thể gây ra hậu quả không thể sửa chữa được.”
Giờ đến lượt Dimitrov đứng lên phát biểu. Áp dụng lối chế nhạo và logic thận trọng, anh ta hi vọng kích động cá tính nóng nảy trứ danh của Göring. Anh ta cáo buộc những sắc lệnh chính trị từ Göring đã chi phối cuộc điều tra vụ hỏa hoạn của cảnh sát, và việc tòa án xem xét bằng chứng, “qua đó ngăn người ta biết được chân tướng kẻ phóng hỏa thật sự”.
“Nếu cảnh sát được phép bị chi phối bởi một sắc lệnh đặc biệt,” Göring đáp, “vậy thì trong bất cứ trường hợp nào, họ chỉ chịu chi phối bởi một sắc lệnh đúng đắn.”
“Đó là ngài nói thôi,” Dimitrov phản pháo. “Ý kiến của tôi khác hoàn toàn.”
Göring ngắt lời, “Nhưng ý kiến của ta mới quan trọng.” Dimitrov nêu rõ chủ nghĩa Cộng sản, thứ mà Göring đã gọi là “tư duy tội phạm”, đã kiểm soát Liên bang Xô Viết, nhà nước “có các quan hệ ngoại giao, chính trị và kinh tế với nước Đức. Các sắc lệnh của Xô Viết mang lại việc làm cho hàng trăm nghìn công nhân Đức. Ngài Bộ trưởng có biết điều đó không?”
“Có, ta biết,” Göring đáp. Nhưng lão nói cuộc tranh luận này không liên quan đến chủ đề đó. “Ở đây, ta chỉ nói đến Đảng Cộng sản Đức và những kẻ cộng sản nước ngoài lừa đảo đến đây để phóng hỏa Tòa nhà Quốc hội.”
Hai người tiếp tục đấu khẩu, chủ tọa phiên tòa thi thoảng làm trung gian hòa giải, cảnh báo Dimitrov không được “tuyên truyền về chủ nghĩa Cộng sản”.
Göring, vốn không quen bị bất kì ai lão xem là kẻ dưới thách thức, càng lúc càng tức giận hơn.
Dimitrov bình tĩnh quan sát, “Ngài cực kì sợ hãi trước những câu hỏi của tôi, đúng không ngài Bộ trưởng?”
Nghe câu này, Göring không còn kiểm soát được bản thân. Lão hét lên, “Khi tao bắt mày thì mày sẽ biết thế nào là sợ. Mày cứ đợi đến lúc tòa án không bảo vệ được mày nữa, thằng lừa đảo!”
Thẩm phán ra lệnh trục xuất Dimitrov, khán thính giả vỗ tay vang dội, nhưng lời đe dọa cuối cùng của Göring mới là điều nổi bật. Giây phút ấy được nhìn nhận theo hai mặt - thứ nhất, nó cho thấy Göring lo sợ rằng Dimitrov có thể thực sự được xử trắng án, và thứ hai, nó là cái nhìn sắc sảo vào trái tim nguy hiểm, phi lí của Göring và chế độ Hitler.
Ngày hôm đó cũng làm xói mòn thêm sự đồng cảm của Martha đối với cuộc cách mạng Quốc xã. Göring thì ngạo mạn và đầy đe dọa, trong khi đó Dimitrov thì lạnh lùng và có sức lôi cuốn. Martha bị ấn tượng. Cô viết, Dimitrov là “người đàn ông tuyệt vời, quyến rũ, sâu lắng thể hiện một sức sống, lòng quả cảm kì diệu nhất tôi từng thấy ở những người phải chịu sức ép. Anh ấy thật sống động, anh ấy đang rực sáng.”
Phiên tòa rơi vào trạng thái vô hồn như trước kia, nhưng thiệt hại đã rõ ràng. Tay phóng viên người Thụy Sĩ, như hàng tá phóng viên nước ngoài khác trong phòng, nhận ra rằng sự bùng nổ của Göring đã làm thay đổi phiên tòa. “Đối với cả thế giới xem phiên xử này, không cần biết bị cáo bị tuyên án hay được phóng thích theo quyết định của Tòa, thì số phận của anh ta đã được định đoạt.”