Giáng sinh đã cận kề. Mặt trời mùa đông, dù ở thời điểm rực rỡ nhất, cũng chỉ rọi sáng được một phần bầu trời phía nam, hắt những bóng chiều vào lúc giữa ngày. Những cơn gió lạnh lẽo thổi từ bên kia các bình nguyên. “Berlin là một bộ xương khô tê tái vì lạnh,” Christopher Isherwood viết, mô tả những mùa đông ông đã trải qua trong thời gian làm việc tại Berlin những năm 1930. “Bộ xương của chính tôi đang đau nhức. Tôi cảm thấy trong xương cốt mình, cơn đau buốt của sương giá trong các thanh rầm đường sắt trên đầu, trong các ban công bằng sắt, trong các cây cầu, các tuyến xe điện, các cột đèn và nhà vệ sinh. Đồ sắt run rẩy và co ngót, đá và những viên gạch nhức nhối, xám xịt, lớp thạch cao tê liệt.”
Khung cảnh ảm đạm bằng cách nào đó bị xua tan nhờ ánh sáng nhấp nháy trên các con phố ẩm ướt - những ngọn đèn đường, biển hiệu cửa hàng, đèn pha, không gian ấm áp trong vô số xe ô tô - và nhờ thông lệ đón Giáng sinh khắp thành phố. Các ngọn nến xuất hiện trên từng ô cửa sổ, những cái cây to được thắp sáng bằng đèn điện làm lung linh thêm các quảng trường, công viên và những góc phố thương mại sầm uất. Tất cả phản ánh cảm xúc nồng nàn dành cho một mùa, mà ngay cả Sư đoàn Bão tố cũng không thể ra tay đàn áp, thực ra thường vì lợi ích tài chính của chúng. Lính SA bao thầu kinh doanh cây thông Noel. Chúng bán tại các bãi ghép tàu, bề ngoài vì lợi ích của Winterhilfe - tức là Winter Help - quỹ từ thiện của SA dành cho người nghèo và người thất nghiệp. Nhưng nhiều người Berlin hoài nghi rằng quỹ này được dùng hết cho các buổi tiệc và bữa ăn sang trọng của Sư đoàn Bão tố - vốn đã trở thành huyền thoại vì sự xa hoa, trác táng và lượng sâm banh chúng tiêu thụ. Các lính SA gõ cửa từng nhà, mang theo các hộp đựng tiền quyên góp màu đỏ. Ai quyên góp thì được gắn các phù hiệu nhỏ lên quần áo chứng tỏ hoàn thành nghĩa vụ, họ phải mang những phù hiệu ấy, hòng gây sức ép gián tiếp lên những linh hồn dũng cảm, hoặc liều lĩnh nào còn chưa móc hầu bao.
Một người Mỹ khác lâm vào thế đối đầu với Chính phủ, do bị “những người có thù oán với anh ta” vu khống, căn cứ theo một báo cáo của Lãnh sự quán. Đây chính là sự việc mà nhiều thập niên sau sẽ trở thành mô típ lặp đi lặp lại, trong các phim về kỉ nguyên Quốc xã.
Vào khoảng bốn rưỡi sáng thứ Ba, ngày 12 tháng 12 năm 1933, một công dân Mỹ tên là Erwin Wollstein đứng trên một sân ga tại Breslau, đợi chuyến tàu đến Oppels ở Upper Silenia, nơi anh ta dự định sẽ làm kinh doanh. Anh ta lên đường sớm vì hi vọng sẽ quay về được cùng ngày hôm đó. Tại Breslau, anh ta ở chung với cha mình, là một công dân Đức.
Hai người đàn ông mặc âu phục đến gần gọi tên anh ta. Họ tự xưng là các sĩ quan Gestapo, đề nghị anh ta đi cùng họ đến đồn cảnh sát ở nhà ga.
“Tôi được lệnh cởi hết áo choàng, áo jacket, giày, ghệt, nới cổ áo và cà vạt,” Wollstein viết trong bản tuyên thệ. Sau đó, các mật vụ khám người và đồ tùy thân của anh ta. Việc này mất gần nửa tiếng.
Họ tìm thấy hộ chiếu của anh ta, thẩm vấn về tư cách công dân của anh ta. Anh ta khẳng định rằng mình là một công dân Mỹ, và đề nghị họ thông báo cho Lãnh sự quán Mỹ tại Breslau về vụ bắt giữ mình.
Tiếp theo, các mật vụ chở anh ta đến Đồn Cảnh sát Trung ương Breslau, nơi họ nhốt anh ta vào xà lim. Anh ta được ăn một “bữa sáng đạm bạc” và bị nhốt chín giờ đồng hồ sau đó. Trong lúc ấy, cha anh ta bị bắt giữ và căn hộ của họ bị lục soát. Gestapo tịch thu thư từ cá nhân và thư thương mại, cùng các tài liệu khác của hai cha con, bao gồm hai hộ chiếu Mỹ đã hết hạn và bị hủy bỏ.
Vào lúc năm giờ mười lăm phút chiều, hai mật vụ Gestapo đưa Wollstein lên gác, và cuối cùng cũng đọc cho anh ta nghe những lời buộc tội chống lại mình, có trích dẫn những lời tố cáo của ba người mà Wollstein quen biết: bà chủ nhà của anh ta, một người phụ nữ khác và một người ở nam giới dọn dẹp căn hộ. Bà chủ nhà tên là Bleicher, buộc tội rằng hai tháng trước anh ta đã nói, “Tất cả bọn Đức là lũ chó.” Tay người ở, Richard Kuhne, buộc tội Wollstein đã tuyên bố rằng nếu một cuộc chiến nữa có diễn ra, anh ta sẽ tham gia chiến đấu chống Đức. Người thứ ba, bà Strauz, buộc tội Wollstein đã cho chồng bà ta “mượn một cuốn sách cộng sản”. Ngẫu nhiên làm sao, cuốn sách mang tên là Dầu mỏ! của Upton Sinclair86.
86 Upton Sinclair Jr. (1878 - 1968): nhà văn nổi tiếng người Mỹ, từng đoạt giải Pulitzer năm 1943.
Wollstein bị giam cả đêm trong tù. Sáng hôm sau, anh ta được phép đối chất trực tiếp với những kẻ tố cáo mình. Anh ta buộc tội họ nói dối. Lúc này, không còn nấp sau bức màn nặc danh nữa, những nhân chứng liền nao núng. “Bản thân chúng lại có vẻ bối rối, không dám tự tin vào lí lẽ của mình,” Wollstein thuật lại trong bản tuyên thệ.
Vào lúc này, Lãnh sự quán Mỹ tại Breslau báo cáo vụ bắt giữ về Đại sứ quán ở Berlin. Đến lượt mình, Phó Lãnh sự Raymond Geist khiếu nại với trùm Gestapo Ruldolf Diels và đề nghị một báo cáo đầy đủ về vụ bắt giữ Wollstein. Tối hôm đó, Diels gọi điện thoại, trả lời Geist rằng mình sẽ ra lệnh thả Wollstein.
Quay lại Breslau, hai tên Gestapo ra lệnh cho Wollstein kí vào bản tường trình, cam đoan rằng mình không bao giờ “là kẻ thù của Nhà nước Đức”. Văn bàn này có bao gồm một đề nghị cao thượng: rằng nếu bao giờ anh ta cảm thấy sự an toàn của mình bị đe dọa, anh ta có thể báo cáo và được chăm sóc dưới dạng “giam giữ bảo hộ”.
Và anh ta được thả.
Martha tự lĩnh nhiệm vụ cắt tỉa cây thông gia đình, một cây linh sam to đùng nằm trong phòng khiêu vũ trên tầng hai. Cô kêu gọi Boris, Bill, quản gia Fritz, người lái xe của gia đình và nhiều người bạn đi ngang qua giúp đỡ. Cô quyết tâm trang trí cây chỉ toàn màu trắng và bạc, nên cô mua các quả chuông bạc, kim tuyến bạc, một ngôi sao bạc cỡ lớn và các ngọn nến bạc. Cô tránh dùng đèn điện vì nó không được truyền thống cho lắm và chắc chắn là dễ gây chết người hơn. “Vào thời đó,” cô viết, “ dùng đèn điện cho cây thông đúng là ý nghĩ khác người”. Cô cùng mọi người đặt mấy cái xô nước gần đó.
Cô viết, cha cô “phát chán với mấy trò ngu ngốc này” và tránh xa khỏi kế hoạch, mẹ cô cũng vậy, bà còn bận rộn với vô số những việc khác, chuẩn bị cho ngày lễ. Bill có lúc tỏ ra hữu ích, nhưng anh ấy cứ chực lẩn đi tìm kiếm những thú vui hấp dẫn hơn. Kế hoạch mất hai ngày và hai tối mới hoàn thành.
Martha vui sướng khi Boris sẵn sàng giúp, xét đến chuyện anh tuyên bố không tin vào sự tồn tại của Chúa. Cô mỉm cười khi nhìn anh đang vắt vẻo trên thang tận tình giúp đỡ, trang trí một biểu tượng của ngày đức tin Giáng sinh thiêng liêng bậc nhất.
“Người tình vô thần của em,” cô nhớ mình đã nói với anh, “tại sao anh lại giúp em trang trí cây thông Noel, kỉ niệm ngày sinh của Chúa?”
Anh bật cười. “Không phải là vì Giáng sinh hay vì Chúa, em yêu,” anh nói, “mà chỉ vì những kẻ ngoại giáo như anh và em. Vả lại trông nó rất đẹp. Thế em thích gì?” Anh ngồi trên đầu thang. “Em có muốn để mấy nhành phong lan trắng lên ngọn cây không? Hay em thích một ngôi sao đỏ lộng lẫy hơn?”
Cô khăng khăng chỉ dùng màu trắng.
Anh phản đối. “Nhưng màu đỏ đẹp hơn trắng nhiều chứ, em yêu.”
Mặc dù có cây thông Noel, Boris, cùng toàn bộ niềm vui trong mùa Giáng sinh ấy, Martha vẫn cảm thấy cuộc đời mình tại Berlin thiếu một yếu tố cơ bản. Cô nhớ bạn bè - Sandburg, Wilder cùng các đồng nghiệp báo Tribune - và ngôi nhà thoải mái của cô tại Hyde Park. Giờ này, bạn bè và hàng xóm của cô chắc đang quây quần bên những bàn tiệc ấm cúng, tham dự những lễ hát mừng Giáng sinh và thưởng thức rượu vang nóng.
Thứ Năm, ngày 14 tháng 12, cô viết một bức thư dài gửi Wilder. Cô cảm thấy liên lạc với anh đang thưa dần. Nhờ có anh truyền cho cô sự tự tin, mà cô tin rằng mình cũng có biệt tài văn chương. Nhưng sau khi gửi cho anh một truyện ngắn của mình, cô không nhận được hồi âm. “Phải chăng anh thậm chí chẳng buồn quan tâm em về mặt văn chương nữa (dẫu chỉ còn một chút nào đó). Và chuyến đi của anh sang Đức. Phải chăng đó là lời từ chối dứt khoát. Lạ thật, chắc chắn anh đã thoát khỏi em, và lúc này em lại quay về với ngôn ngữ bỗ bã của Berlin!”
Cô ít viết về những chủ đề khác, dù cô cảm thấy có chút hài lòng khi nói chuyện và viết về sách, nhờ tình bạn mới của cô với Arvid và Mildred Harnack. Cô nói với Wilder, cùng nhau “bọn em đã rút ra kết luận: bọn em là những người duy nhất ở Berlin quan tâm nghiêm túc chuyện muốn trở thành nhà văn”. Mildred và cô đã bắt đầu chuyên mục sách của họ. “Cô ấy cao ráo và xinh đẹp, với mái tóc đẫm màu mật ong - có xen lẫn mấy chỗ nhạt màu... Rất tội nghiệp, chân thành, tốt bụng, không được ưu ái cho lắm, mặc dù nhà cô ấy là danh gia thế tộc. Một ốc đảo thực sự làm em phát điên vì khát.”
Cô nói bóng gió cha cô cảm thấy đang có một âm mưu chống lại ông từ trong Bộ Ngoại giao. “Các mê cung căm ghét và âm mưu ngầm trong Đại sứ quán đến nay vẫn chưa khiến cha em mắc bẫy,” cô viết.
Những thù hận mang tính cá nhân hơn cũng khiến cô xúc động. Tại Mỹ, cuộc hôn nhân bí mật của cô với Basett và nỗ lực li hôn cũng bí mật không kém đã bị công khai. “Ghê tởm làm sao những gì các kẻ thù của em thêu dệt về em tại Chicago,” cô kể cho Wilder. Đặc biệt có một người phụ nữ, mà Martha hay gọi là Fanny, đã bắt đầu lan truyền những tin đồn khó chịu, Martha cho rằng vì bà ta ghen tị khi thấy cô xuất bản được truyện ngắn. “Bà ta khăng khăng cho rằng em và anh đang yêu nhau, chuyện này em có nghe hai người kể lại. Hôm kia, em viết cho bà ta, chỉ rõ sự nguy hiểm của lời vu cáo vô căn cứ, báo trước đống hỗn độn bà ta có thể mắc vào”. Cô nói thêm, “Em cảm thấy tiếc cho bà ta, nhưng không làm thay đổi được thực tế rằng bà ta đúng là con mụ thối mồm bẩn thỉu.”
Cô cố gắng kể tóm tắt cho Wilder nghe về mùa đông bên ngoài ô cửa nhà mình, thế giới mới mẻ cô thấy mình trong đó. “Tuyết ở đây mềm mại và nằm rất sâu - ban ngày Berlin chìm trong làn khói màu đồng và tắm dưới ánh trăng đẹp như dát vàng về đêm. Sỏi kêu lạo xạo dưới cửa sổ phòng em khi đêm xuống - Diels gầy còm hốc hác, với đôi môi đáng yêu và gương mặt xảo quyệt của lực lượng Cảnh sát Mật vụ Phổ chắc đang theo dõi. Viên sỏi văng ra từ dưới đôi giày mềm mại của hắn, như cảnh cáo em. Hắn mang những vết sẹo hằn sâu đầy kiêu hãnh, như khi em nhảy lên đón lấy vòng hoa cưới.”
Cô bày tỏ nỗi u buồn sâu sắc tràn ngập lòng mình. “Mùi hương của sự thanh bình ấy đã xa rồi, không khí thì giá buốt, những bầu trời trong xanh như sắp vỡ tan, những chiếc lá cuối cùng cũng rụng. Em mặc chiếc áo khoác mùa đông với lớp da như lông cừu và lụa có vân sáng. Những ngón tay em chìm sâu trong mấy lớp găng ấm áp. Em có chiếc áo jacket gắn kim tuyến bạc và những vòng tay nặng chịch bằng san hô. Em đeo trên cổ một dây chuyền như sợi chỉ ba lớp bằng đá lưu ly và ngọc trai. Vẻ dịu dàng và an yên trên gương mặt em như ánh trăng dát vàng. Và trong suốt cuộc đời mình, em chưa bao giờ thấy cô đơn đến thế.”
Cho dù lời ám chỉ của Martha về “những mê cung thù ghét” có đôi chút phóng đại, Dodd đã thực sự bắt đầu cảm nhận thấy một chiến dịch đang hình thành chống lại ông trong Bộ Ngoại giao, rằng những kẻ tham gia đều giàu có và bảo thủ. Ông cũng nghi ngờ chúng nhận được sự hỗ trợ của một hoặc nhiều kẻ trong đội ngũ nhân viên của ông, cung cấp thông tin tình báo về ông và hoạt động của Đại sứ quán. Dodd ngày càng nghi ngờ và đề phòng, đến nỗi bắt đầu viết những lá thư nhạy cảm bằng chữ viết tay thường, vì ông không tin tưởng các nhân viên tốc kí của Đại sứ quán sẽ bảo mật nội dung thư.
Ông có lí do để lo lắng. Messersmith tiếp tục thư từ với Thứ trưởng Ngoại giao Phillips. Sau lưng ông, Raymond Geist, quan chức thứ hai của Messersmith (thêm một người nữa đến từ Harvard) cũng không ngừng theo dõi các hoạt động của Dodd và Đại sứ quán. Trong thời gian dừng lại ở Washington, Geist đã có cuộc nói chuyện dài và bí mật với Wilbur Carr, Trưởng phòng Dịch vụ Lãnh sự quán. Trong thời gian đó, Geist cung cấp một phạm vi rộng thông tin tình báo, bao gồm thông tin chi tiết về các bữa tiệc sôi động, phóng túng do Martha và Bill tổ chức, đôi khi kéo dài đến tận năm giờ sáng hôm sau. “Có lần họ đã vui vẻ quá trớn,” Geist nói với Carr, rằng Lãnh sự quán đã nhận được một khiếu nại bằng văn bản. Điều này khiến Geist phải gọi Bill vào văn phòng mình và cảnh cáo cậu ta, “Nếu chuyện này còn tái diễn, sẽ phải có báo cáo chính thức ngay lập tức.” Geist cũng chỉ trích năng lực của Đại sứ Dodd, “Ngài Đại sứ có tính cách hiền lành và không gây ấn tượng sâu sắc, trong khi người có thể đối phó thành công với chính quyền Quốc xã phải là người thông minh, mạnh mẽ, sẵn sàng giữ thái độ độc tài đối với chính quyền và khăng khăng đòi hỏi các yêu cầu của mình phải được đáp ứng. Ngài Dodd không có khả năng làm được chuyện này.”
Chuyện cử người khác đến Berlin, John C. White, thay thế George Gordon làm Cố vấn Đại sứ quán chỉ khiến Dodd thêm lo ngại. Không chỉ là người giàu có và hay có thiên hướng tổ chức các bữa tiệc xa hoa, White còn là chồng của em gái Trưởng phòng Phụ trách Các Vấn đề Tây Âu Jay Pierrepont Moffat. Hai anh em tiếp tục trao đổi thư từ thân mật, gọi nhau là “Jack” và “Pierrepont”. Dodd hẳn sẽ không thấy dòng mở đầu của một trong các lá thư của White từ Berlin lại bình thản đến khủng khiếp như vậy, “Có vẻ như còn một máy đánh chữ không ai dùng ở đây, vậy là tôi có thể viết thư cho ngài mà không ai chứng kiến.” Trong thư hồi âm, Moffat đã gọi Dodd là “một kẻ lạ lùng mà tôi thấy gần như không thể lí giải nổi.”
Như muốn khiến Dodd cảm thấy ngày càng tù túng hơn, thêm một quan chức mới Orme Wilson, người đến gần như cùng lúc, giữ chức bí thư của Đại sứ quán, lại là cháu trai của Thứ trưởng Phillips.
Khi tờ Chicago Tribune đăng bài viết về đề nghị nghỉ phép vào năm sau của Dodd, cùng với phỏng đoán rằng ông có thể từ chức, Dodd phàn nàn với Phillips rằng ai đó trong Bộ Ngoại giao có thể đã làm lộ đề nghị của ông, với dụng ý xấu. Dodd đặc biệt cảm thấy cay đắng trước một nhận xét trong bài viết của một nhà phát ngôn vô danh ở Bộ Ngoại giao. Bài viết nêu rõ, “Nghỉ hưu lâu dài khỏi chức vụ Đại sứ tại Đức vốn không nằm trong dự tính của Đại sứ Dodd, mà điều đó lại được khẳng định ở đây.” Với logic công khai vô lí, lời phủ nhận thực sự làm dấy lên câu hỏi về số phận của Dodd - phải chăng ông về hưu hay bị buộc phải từ chức? Không có suy đoán này thì tình hình tại Berlin đã đủ khó khăn rồi, Dodd nói với Phillips, “Tôi tin rằng von Neurath và các đồng nghiệp của ông ấy sẽ cực kì khó chịu, nếu báo cáo này được gửi đến cho họ.”
Với giọng điệu tự mãn đã trở nên quen thuộc, Phillips trả lời, “Tôi không thể tưởng tượng có kẻ cung cấp cho tờ Tribune thông tin rằng có thể ngài nghỉ phép mùa xuân sang năm,” ông ta viết, “Chắc chắn chẳng có ai hỏi han tôi như thế... Một trong những niềm sung sướng của giới báo chí đó là bắt đầu bàn tán về những vụ từ chức. Đôi khi, tất cả chúng ta đều phải đương đầu với nỗi ám ảnh đó và không xem nó là nghiêm trọng.”
Kết thư, Phillips lưu ý rằng Messersmith, người lúc ấy đang về Washington nghỉ phép, đã đến thăm Bộ Ngoại giao. “Messerm- sith đã ở bên chúng tôi vài ngày, và chúng tôi đã có những cuộc nói chuyện thú vị về nhiều giai đoạn của tình hình nước Đức.”
Dodd hẳn đã đúng khi đọc những dòng cuối với nỗi lo âu. Vào một trong những lần ghé thăm văn phòng của Phillips, Messersmith đã bày tỏ một thái độ mà Phillips mô tả trong nhật kí là “cái nhìn thấu suốt vào những điều kiện trong Đại sứ quán ở Berlin”. Cả ở đây, vấn đề Martha và Bill cũng bị xới lên. Phillips viết, “Rõ ràng, hai đứa con của ngài Đại sứ chẳng hề hỗ trợ Đại sứ quán, vì quá mê mải tổ chức các hộp đêm với giới báo chí và những tên người Đức đặc biệt đáng ngờ.”
Messersmith cũng gặp gỡ vợ chồng Moffat. Ba người đã dành cả buổi chiều nói chuyện về nước Đức. “Chúng tôi đã bàn bạc từ mọi góc độ,” Moffat viết trong nhật kí. Ngày hôm sau, ông ta cùng Messersmith ăn trưa, và vài tuần sau họ lại gặp nhau. Theo nhật kí của Moffat, trong một lần trò chuyện, Messersmith phàn nàn “rất lo lắng với những lá thư Dodd gửi đến nêu rõ ông ta đang chống lại nhân viên của mình”.
Cố vấn mới bỏ đi của Dodd, George Gordon, tình cờ đang có kì nghỉ dài ở Mỹ, cùng thời điểm với Messersmith. Cho dù quan hệ của Gordon với Dodd từ đầu đã không tốt đẹp gì, vào lúc này, Dodd miễn cưỡng phải xem Gordon như một tài sản quý giá. Gordon viết thư cho Dodd, “Người bạn chung của chúng ta G.S.M” - tức là Messersmith - “đang chỉ đạo một chiến dịch tích cực nhất, ủng hộ ông ta ứng cử vào vị trí Công sứ Prague87.” (Messersmith từ lâu đã hi vọng rời khỏi Bộ Ngoại giao, và giờ đây ông ta muốn trở thành nhà ngoại giao tâm huyết, với việc Đại sứ quán Prague đang thiếu người, ông ta nhìn thấy cơ hội của mình.) Gordon lưu ý một tràng những lá thư và bài viết trên báo chứng nhận “chân giá trị” của Messersmith, đang bắt đầu tràn vào Bộ Ngoại giao. “Tất cả đều nghe như một câu chuyện quen thuộc,” Gordon viết, “khi tôi biết ông ta đã nói với một trong các quan chức cao cấp, rằng ông ta thực sự hơi xấu hổ trước những lời tán dương của báo chí dành cho mình, vì ông ta không thích thế!!!” Gordon nói thêm bằng chữ viết thường, “O sancta virginitas simplicitasque,” tiếng Latin nghĩa là “Đúng kiểu e thẹn giả nhân giả nghĩa.”
87 Prague: thủ đô của Cộng hòa Séc, thời đó là Cộng hòa Tiệp Khắc.
Ngày 22 tháng 12, thứ Sáu, Louis Lochner đến thăm Dodd, mang theo một tin tức đáng lo ngại. Bản thân chuyến thăm này không phải bất thường, vì vào lúc này, Dodd và trưởng hãng thông tấn AP đã là bạn của nhau, thường xuyên gặp gỡ, thảo luận về các sự kiện và trao đổi thông tin. Lochner cho Dodd biết rằng một quan chức cao cấp trong hệ thống của Quốc xã đã báo tin cho ông ta, sáng hôm sau, phiên tòa xử vụ cháy Nhà Quốc hội sẽ tuyên án, rằng tất cả mọi người trừ Marinus van der Lubbe sẽ trắng án. Bản thân tin tức này sẽ gây sốc, tạo thành cú đấm mạnh vào uy tín của chính quyền Hitler và đặc biệt là vào danh tiếng của Göring. Đây chính xác là “thất bại” mà Göring đã lo sợ. Nhưng người đưa tin của Loch-ner cũng biết rằng Göring, vẫn chưa nguôi giận trước hành động láo xược của Dimitrov, khi hai bên đối đầu trong phòng xử, giờ lão muốn Dimitrov phải chết. Cái chết của anh ta sẽ diễn ra, ngay sau khi phiên xử kết thúc. Lochner từ chối xác nhận nguồn tin, nhưng bảo Dodd rằng bằng cách truyền đạt thông tin này, ông ta hi vọng giúp cho danh tiếng trên trường quốc tế của Đức vốn đã thấp, không bị thiệt hại thêm. Dodd nghĩ rằng người đưa tin là Rudolf Diels.
Lochner đã có kế hoạch chặn trước vụ ám sát bằng cách công khai nó, nhưng trước hết ông ta muốn bàn ý kiến này với Dodd, trong trường hợp Dodd cảm thấy những ảnh hưởng ngoại giao là quá lớn. Dodd phê chuẩn nhưng sau đó ông hỏi ý kiến Hiệp sĩ Eric Phipps, Đại sứ Anh, người cũng đồng ý rằng Lochner nên ra tay trước.
Lochner cân nhắc một cách chính xác nên thực thi kế hoạch thế nào. Lạ làm sao ý tưởng công khai đe dọa ám sát ban đầu lại nảy ra với ông ta nhờ tùy viên báo chí của chính Göring, Martin Sommerfieldt, người cũng biết về vụ giết người sắp tới. Có người cho biết, nguồn tin của anh ta là Putzi Hanfstaengl, cho dù hoàn toàn có khả năng rằng Hanfstaengl biết chuyện này từ Diels. Sommerfieldt nói với Lochner rằng, theo kinh nghiệm của anh ta thì “chẳng có cách nào khuyên răn được ông tướng ấy. Khi báo chí nước ngoài tuyên bố một điều về lão ta, thì lập tức lão đều ngang bướng làm ngược lại.” Sommerfeildt đề xuất với Lochner câu chuyện này bắt nguồn từ “nguồn tin không thể nghi ngờ!” và nhấn mạnh rằng, vụ án mạng “không chỉ gây hậu quả ở tầm quốc tế”. Tuy nhiên, Lochner phải đối mặt với tình huống tiến thoái lưỡng nan. Nếu ông ta đăng tải một báo cáo qua hãng thông tấn AP một cách kích động, ông ta có thể mạo hiểm chọc giận Göring đến mức lão có thể đóng cửa chi nhánh AP tại Berlin. Lochner lí luận, để câu chuyện này bùng nổ trên báo chí Anh còn tốt hơn nhiều. Ông ta, Sommerfeildt và Hanfstaengl cùng chỉnh sửa kế hoạch.
Lochner biết một phóng viên rất trẻ trung vừa tham gia chi nhánh Reuters tại Berlin. Ông ta mời cậu ta đi uống cà phê tại khách sạn Adlon, nơi Hanfstaengl và Sommerfeildt cùng đến không lâu sau đó. Tay phóng viên tin tức trẻ chộp ngay lấy cơ hội vàng, trước sự tập hợp rõ ràng của các quan chức cấp cao.
Một lúc sau, Lochner đề cập với Sommerfeildt tiếng đồn về lời đe dọa đối với Dimitrov. Theo đúng kế hoạch, Sommerfeildt giả vờ ngạc nhiên - chắc chắn Lochner tính sai rồi, vì Göring là người trọng danh dự và nước Đức là một xứ sở văn minh.
Tay phóng viên Reuters biết đây là chuyện lớn, nên xin phép Sommerfeldt cho cậu ta trích dẫn lời phủ nhận của ông ta. Với vẻ rất là miễn cưỡng, Sommerfeildt đồng ý.
Tay phóng viên ba chân bốn cẳng lao đi chuẩn bị câu chuyện. Cuối buổi chiều hôm đó, bài viết được đăng trên các tờ báo tại Anh. Lochner báo cho Dodd. Ông ta cũng cho Dodd xem bức điện tín Goebbels gửi hãng thông tấn nước ngoài, trong bức điện tín, với vai trò là người phát ngôn của Chính phủ, Goebbels phủ nhận sự tồn tại của bất kì âm mưu ám sát nào đối với Dimitrov. Göring đưa ra lời phủ nhận của lão, phản đối lí lẽ buộc tội, cho là “lời đồn vô căn cứ”.
Ngày 23 tháng 12, đúng như Lochner dự đoán, chủ tọa của phiên xử Nhà Quốc hội đọc phán quyết của tòa, tuyên trắng án cho Dimitrov, Torgler, Popov và Tanev, nhưng cho rằng Marinus van der Lubbe phạm tội “phản quốc, cố tình phóng hỏa làm loạn và cố ý phóng hỏa nói chung”. Tòa tuyên anh ta án tử hình - bất chấp hàng đống lời làm chứng ngược lại - trong khi vẫn tuyên bố “phải tìm ra những kẻ đồng lõa với van der Lubbe trong hàng ngũ Đảng Cộng sản. Do đó, tòa kết luận chủ nghĩa Cộng sản có tội trong vụ hỏa hoạn Nhà Quốc hội, rằng người dân Đức bước sang năm 1933, trên bờ vực hỗn loạn mà chủ nghĩa Cộng sản cố gắng dẫn họ lao vào, và rằng người Đức đã được cứu vào phút chót.”
Tuy nhiên, số phận cuối cùng của Dimitrov vẫn chưa rõ ràng. Cuối cùng ngày giáng sinh cũng đến. Hitler đang ở Munich.
Göring, Neurath cũng như nhiều quan chức cao cấp khác đều rời Berlin. Thành phố chìm trong tĩnh lặng, thực sự thanh bình. Những chiếc xe điện trông như đồ chơi dưới bóng cây.
Vào buổi trưa, cả gia đình Dodd ra ngoài trong chiếc Chevrolet, có chuyến thăm viếng đầy ngạc nhiên đến nhà Lochner. Louis Lochner viết trong lá thư luân chuyển gửi con gái du học ở Mỹ, “Cha mẹ đang ngồi bên nhau uống cà phê, thì bất thình lình cả gia đình Dodd - Ngài Đại sứ, phu nhân Dodd, Martha và cậu Dodd trẻ trung - đã cầm chân cha mẹ chỉ để chúc cha mẹ Giáng sinh vui vẻ. Họ thật là quá tử tế đúng không? Càng làm việc với ngài Dodd cha càng thích ngài ấy, một người có phông văn hóa sâu sắc, và là một trong những người được trời phú cho trí tuệ sắc sảo nhất cha từng tiếp xúc.” Lochner mô tả phu nhân Dodd là “người ngọt ngào, nữ tính... cũng như chồng, bà chỉ ưa thích đến thăm gia đình bạn bè hơn là tham gia mấy cái nghi lễ ngoại giao vớ vẩn. Gia đình Dodd không giả vờ tỏ ra là những người nổi tiếng, cha ngưỡng mộ họ vì điều đó.”
Dodd dành vài phút chiêm ngưỡng cây thông Noel và nhiều đồ trang trí khác trong nhà Lochner, rồi ông kéo Lochner sang một bên, hỏi thăm tin tức mới nhất về Dimitrov.
Lochner nói, Dimitrov đến lúc này có vẻ đã thoát khỏi hiểm nguy. Ông ta cho biết nguồn tin rất đáng tin cậy của mình đã cảm ơn ông ta vì giải quyết vấn đề thật khéo léo, mặc dù Dodd vẫn không biết danh tính nguồn tin.
Tuy nhiên, Dodd lo sợ những hậu quả xa hơn. Ông một mực tin rằng Diels chính là kẻ tiết lộ âm mưu. Hắn ta vẫn tiếp tục làm Dodd ngạc nhiên. Ông biết Diels nổi tiếng là kẻ hoài nghi và cơ hội vào hạng nhất, nhưng thi thoảng ông thấy hắn ta là một người liêm chính và đáng được tôn trọng. Thực chất, mới đầu tháng, chính Diels đã thuyết phục Göring và Hitler ra sắc lệnh ân xá dịp Giáng sinh, đối với các tù nhân trong trại tập trung, những người không phải là các tội phạm sừng sỏ, hoặc gây nguy hiểm đối với an ninh nhà nước. Chưa rõ động cơ thực sự của Diels là gì, nhưng ông cho rằng lần đó, khi ông đi từ trại này sang trại khác lựa chọn tù nhân để ân xá, chính là những giây phút tuyệt vời nhất trong sự nghiệp của ông.
Dodd lo sợ Diels có thể đã đi quá xa. Ở mục Ngày Giáng sinh trong nhật kí, Dodd viết, “Trùm Mật vụ đã làm một việc nguy hiểm nhất, và sau này tôi sẽ không ngạc nhiên khi nghe nói hắn ta bị tống giam.”
Trong chuyến đi quanh thành phố ngày hôm đó, Dodd choáng váng lần nữa trước thú vui trang hoàng Giáng sinh “rất khác thường” của người dân Đức. Đâu đâu, ông cũng thấy cây thông Noel, tại từng quảng trường công cộng và trên từng cửa sổ.
Ông viết, “Người ta có thể nghĩ rằng, người Đức tin vào Chúa Jesus và đang thực hiện những lời răn của Người!”