Cứ vào tháng Mười một hằng năm, Hiệp hội Báo chí Nước ngoài tại Berlin đều tổ chức tiệc tối và vũ hội tại khách sạn Adlon, một sự kiện hấp dẫn khi tất cả các quan chức, nhà ngoại giao và nhân vật nổi tiếng nhất đều được mời. Sự kiện này được đặt biệt danh là Dạ vũ Báo chí Nhỏ, vì có quy mô nhỏ hơn và tự nhiên hơn bữa tiệc hằng năm do giới báo chí Đức tổ chức - vốn ngày càng trở nên ngột ngạt, trước thực tế các tờ báo trong nước giờ đây hầu hết nằm dưới sự kiểm soát của Joseph Goebbels và Bộ Khai sáng Công chúng của lão. Đối với các phóng viên nước ngoài, Dạ vũ Báo chí Nhỏ có giá trị thực tế vô cùng lớn. Sigrid Schultz đã viết, “Chuyện trò với đàn ông khi anh ta dẫn vợ đến dự bữa tiệc dạ vũ của bạn luôn dễ hơn hẳn khi gặp anh ta trong giờ hành chính.” Năm 1933, Dạ vũ Báo chí Nhỏ được tổ chức vào tối thứ Sáu, ngày 24 tháng 11, sáu ngày trước lễ Tạ ơn tại Mỹ.
Chưa đến tám giờ, khách sạn Adlon bắt đầu tiếp đoàn khách đầu tiên với những chiếc xe to, nhiều xe có đèn pha cỡ bằng quả dưa hấu bổ nửa. Xuống xe là một nhóm các quan chức Quốc xã cao cấp, các đại sứ, nghệ sĩ, nhà làm phim, diễn viên, nhà văn và dĩ nhiên cả các phóng viên nước ngoài, đến từ các nước lớn nhỏ. Tất cả đều khoác áo choàng và áo lông to sụ, chống lại bầu không khí ẩm thấp, gần đạt nhiệt độ đóng băng. Trong số các vị khách có Quốc Vụ khanh Bernhard von Bülow, Ngoại trưởng Neurath, Đại sứ Pháp François-Poncet, Hiệp sĩ Eric Phipps, Đại sứ Anh, và dĩ nhiên là Putzi Hanfstaengl to lớn, đâu cũng có mặt. Một nhân vật nữa là Bella Fromm, “Dì Voss”, nữ phóng viên phụ trách mục xã hội. Theo cô ta, bao trùm bữa tiệc sẽ là bi kịch đen tối nhất, mặc dù chuyện người dân chẳng biết gì đang ngày càng phổ biến ở Berlin. Gia đình Dodd - cả bốn người - đến bằng chiếc Chevrolet cũ kĩ. Phó Thủ tướng của Hitler, Franz von Papen, đi chiếc xe to và đẹp hơn hẳn, giống gia đình Dodd, ông ta cũng đến cùng vợ, con gái và con trai. Louis Adlon, rực sáng trong bộ áo đuôi tôm, chào đón từng vị khách VIP, trong khi nhân viên trực tầng cất áo khoác, áo lông và mũ mãng cho khách.
Như Dodd sắp phát hiện ra, trong môi trường sống luôn cuồng nhiệt như Berlin, nơi từng hành động công khai của một nhà ngoại giao sẽ tích lại thành hình tượng bị thổi phồng, ngay cả một mẩu đối thoại ở bàn tiệc thôi cũng có thể trở thành một giai thoại nhỏ.
Khách khứa bước vào khách sạn, đầu tiên là đến các phòng tiếp khách trang nhã uống cocktail và dùng món nguội khai vị, tiếp theo là đến sảnh khu vườn mùa đông, bao quanh là hàng ngàn bông hoa cúc trồng trong nhà kính. Căn phòng luôn luôn “chật chội đến khó chịu”, theo lối nói của Schultz, nhưng theo truyền thống, buổi vũ hội luôn được tổ chức tại khách sạn Adlon. Theo quy định, khách dự tiệc phải ăn mặc sang trọng, nhưng “không phô trương phẩm tước quan chức”, như Fromm ghi trong nhật kí, dù một vài vị khách rất háo hức được chứng tỏ lòng nhiệt tình với Đảng Quốc xã, nên đã mặc trang phục nâu xám xịt của Sư đoàn Bão tố. Một vị khách, ngài công tước tên là Eduard von Koburg, tư lệnh các Lực lượng Mô tô của SA, bước đi khắp nơi, hông giắt thanh đoản kiếm do Mussolini85 trao tặng.
85 Benito Amilcare Andrea Mussolini (1883 - 1945): Cựu Thủ tướng của nước Ý, lãnh đạo của phát xít Ý.
Các vị khách được dẫn vào chỗ ngồi tại bàn tiệc theo kiểu các nhà tổ chức tiệc tại Berlin mong muốn, chen vai thích cánh đầy khó chịu. Khách khứa chỉ cách nhau một tầm tay ở hai bên bàn. Sự gần gũi này có nguy cơ tạo ra những tình huống xã hội và chính trị trớ trêu - như kiểu xếp ả nhân tình của một nhà tư bản công nghiệp đối mặt vợ ông ta - nên chủ xị của từng bàn phải chắc chắn rằng sơ đồ chỗ ngồi được các nhân viên phụ trách lễ nghi xem xét rất kĩ. Vài vị trí sát kề nhau đơn giản là không thể tránh khỏi. Các quan chức người Đức quan trọng nhất không chỉ được ngồi tại bàn trung tâm, năm nay do các phóng viên người Mỹ xếp đặt, mà còn được ngồi gần những người chủ xị của bàn - Schultz và Louis Lochner, sếp Hãng Thông tấn AP của Berlin, cùng người Mỹ nổi bật nhất ở bàn, Đại sứ Dodd. Cho nên cuối cùng, Phó Thủ tướng Papen lại ngồi ngay trước mặt Schultz, bất chấp thực tế Papen và Schultz vốn được biết đến là chẳng ưa gì nhau.
Bà Dodd cũng được ngồi chỗ tốt, như Quốc vụ khanh Bülow và Putzi Hanfstaengl, Martha, Bill Jr., cùng nhiều vị khách khác ngồi kín quanh bàn. Các thợ ảnh chạy vòng xung quanh chụp hình liên hồi, ánh đèn “flash” của họ rọi sáng những làn khói xì gà.
Papen là một người đẹp trai - trông lão ta giống nhân vật phim truyền hình Topper, nhiều năm sau do diễn viên Leo G. Carroll thủ diễn. Nhưng lão ta có tiếng xấu là kẻ cơ hội, bội tín và bị nhiều người xem là cực kì ngạo mạn. Bella Fromm đã gọi lão ta là “Kẻ Đào Huyệt Chôn Nền Cộng hòa Weimar ”, ám chỉ vai trò của Papen trong việc thiết kế bổ nhiệm Hitler làm Thủ tướng. Papen là người được Tổng thống Hindenburg đỡ đầu, Tổng thống đã từng âu yếm gọi lão ta là Fränzchen, hay Franz Bé bỏng. Với Hindenburg đứng về phía mình, Papen và những kẻ đồng mưu đã hình dung rằng chúng có thể kiểm soát Hitler. “Hindenburg tin tưởng ta,” có lần Papen huênh hoang. “Trong vòng hai tháng, chúng ta sẽ dồn Hitler vào chân tường, khiến hắn kêu lên the thé.” Có khả năng đây là tính toán sai lầm lớn nhất thế kỷ Hai mươi. Như sử gia John Wheeler-Bennett nêu rõ, “Phải đến khi cổ tay chúng bị trói nghiến, chúng mới nhận ra ai mới thực sự bị giam cầm và ai mới là kẻ đi bắt giữ.”
Dodd cũng căm ghét Papen, nhưng vì nhiều lí do bắt nguồn từ sự phản bội có tính chất rõ ràng hơn. Không lâu trước khi Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, Papen từng là một tùy viên quân sự được phái đến Đại sứ quán Đức tại Washington, nơi lão ta lên kế hoạch và xúi giục rất nhiều hành động phá hoại, bao gồm đặt thuốc nổ các tuyến đường sắt. Lão ta từng bị bắt và trục xuất về nước.
Sau khi tất cả đã yên vị, tiếng trò chuyện như pháo ran vang khắp bàn. Dodd và bà Papen nói chuyện về hệ thống trường đại học của Mỹ, bà Papen tán dương về sự tuyệt vời của nó trong thời gian được bổ nhiệm làm giáo viên tại Washington, con trai của bà theo học trường Đại học Georgetown. Putzi vẫn giữ nguyên bản tính huyên náo vốn có, ngay cả khi anh ta cao hơn tất cả mọi người xung quanh. Một sự im lặng căng thẳng xâm chiếm ranh giới được ngăn cách bởi khăn trải bàn bằng vải lanh, đồ pha lê, đồ sứ giữa Schultz và Papen. Không khí băng giá giữa họ rõ ràng đến mức ai cũng thấy. “Khi mới đến thì lão ta ngọt ngào, lịch thiệp vì danh tiếng của lão đòi hỏi điều đó,” Schultz viết, “nhưng qua suốt bốn món ăn đầu tiên của bữa tối, thật đáng nể khi lão quý ông này trước sau như một đều ngó lơ [tôi].” Cô lưu ý, “Việc này không phải dễ làm vì bàn thì hẹp và tôi chỉ ngồi cách lão có một mét.”
Cô đã làm tất cả những gì có thể để nói chuyện được với Papen, nhưng vẫn bị cự tuyệt. Cô thầm hứa sẽ “cố gắng chứng tỏ mình là nữ chủ nhân hoàn hảo, tránh xa những chủ đề gây tranh cãi”, nhưng Papen càng làm ngơ cô bao nhiêu, cô càng không muốn làm thế bấy nhiêu. Cô viết, lòng quyết tâm của cô “ngày càng phai nhạt trước cách cư xử tồi tệ rõ nét của Papen”.
Sau khi món ăn thứ tư được dọn lên, khi đã chịu đựng hết nổi, cô nhìn Papen, và vận dụng thứ mà cô miêu tả là “tông giọng ngây thơ nhất” có thể, cô lên tiếng, “Ngài Phó Thủ tướng, có một chi tiết trong Hồi kí của Tổng thống Hindenburg, mà tôi chắc chắn ngài có thể giải thích cho tôi hiểu.”
Papen chú ý đến cô. Đôi lông mày của lão ta nhướng lên ở hai đầu như những sợi lông, ánh mắt lão ta vì thế có sự tập trung lạnh lẽo của thú săn mồi.
Vẫn giữ vẻ mặt dịu dàng, Schultz nói tiếp, “Ông ta phàn nàn rằng trong cuộc chiến trước kia, năm 1917, Bộ Chỉ huy Tối cao Đức chưa từng nghe gì về các gợi ý hòa bình của Tổng thống Wilson, và rằng nếu ông ta biết về chúng thì chiến dịch tàu ngầm nguy hiểm ấy hẳn sẽ không được triển khai. Chuyện này có không thưa ngài?”
Dù giọng cô rất bình thản, nhưng tất cả mọi người quanh bàn nằm trong tầm nghe đều bất ngờ im lặng và chú ý. Dodd nhìn Papen, Quốc vụ khanh Bülow nghiêng người lắng nghe cuộc trò chuyện, với thái độ như Schultz mô tả là “vẻ thích thú giảo hoạt ánh lên trong đôi mắt ông ta.”
Papen cộc cằn đáp, “Tổng thống Wilson chẳng có gợi ý hòa bình nào cả.”
Schultz biết nói vậy là rất ngu xuẩn, nhất là khi có sự hiện diện của Đại sứ Dodd, một chuyên gia nghiên cứu về Wilson và giai đoạn được nói đến.
Lặng lẽ nhưng kiên quyết, giọng Dodd phảng phất lớp sương mù ngôn ngữ vùng Bắc Carolina - “đúng chất một quý ông miền Nam về mọi mặt,” Schultz nhớ lại - Dodd nhìn Papen và nói, “Thế mà có đấy.” Và ông nêu ra ngày, tháng chính xác.
Schultz vui sướng. “Cái răng ngựa dài của Papen như dài ra thêm,” cô viết. “Lão thậm chí còn không dám to mồm át giọng bình thản của Đại sứ Dodd.”
Thay vào đó, Papen “chỉ càu nhàu” trả lời, “Dù sao đi nữa, tôi chẳng bao giờ hiểu được tại sao người Mỹ và người Đức cứ bám chặt cuộc chiến ấy thế.” Lão nhìn các gương mặt xung quanh, “dương dương tự đắc vì cái giọng ngạo mạn của lão,” Schultz viết.
Ngay lập tức, Dodd giành được “sự ngưỡng mộ và biết ơn mãi mãi” của Schultz.
Trong khi đó, ở bàn khác, Bella Fromm trải qua một sự hồi hộp chẳng liên quan gì đến các nội dung đối thoại quanh mình. Cô đến dự vũ hội vì lúc nào ở đó cũng đầy niềm vui và rất hữu ích cho chuyên mục về cộng đồng ngoại giao ở Berlin của cô, nhưng năm nay cô đến với cõi lòng trĩu nặng nỗi phiền muộn sâu sắc. Cho dù hiện giờ cô đang tự làm mình vui, nhưng có những lúc tâm trí cô quay về với người bạn thân nhất, Wera von Huhn, cũng là một phóng viên chuyên mục nổi bật - một người mà ai ai cũng biết đến nhờ biệt danh “Poulette”, tiếng Pháp nghĩa là “con chim mái non”, trích từ họ của cô ấy, Huhn, tiếng Đức nghĩa là “con gà”.
Mười ngày trước, Fromm và Poulette lái xe qua Grunewald, một khu bảo tồn rừng rộng 4450 héc ta, phía tây Berlin. Giống công viên Tiergarten, nơi này cũng trở thành thiên đường của các nhà ngoại giao và những ai muốn trốn tránh sự theo dõi của Quốc xã. Lái xe vào rừng mang lại cho Fromm vài giây phút thật sự bình yên. “Tiếng động cơ càng lớn bao nhiêu, tôi càng thấy dễ chịu bấy nhiêu,” cô viết trong nhật kí.
Tuy nhiên, chuyến đi mới nhất này chẳng có gì vô tư hết. Cuộc trò chuyện của họ tập trung vào bộ luật mới ban hành tháng trước, cấm người Do Thái không được biên tập và viết bài cho báo chí Đức. Các thành viên hãng thông tấn trong nước theo quy định phải trình hồ sơ từ các ghi chép của giáo hội và dân sự chứng tỏ mình là “người Aryan thuần chủng”. Những người Do Thái nhất định có thể giữ được việc làm, với điều kiện họ phải tham gia cuộc chiến trước kia, hoặc mất con trai trong chiến tranh hoặc là người viết bài cho báo chí Do Thái, nhưng chỉ một số ít đủ tiêu chuẩn hưởng những sự miễn trừ này. Bất kì phóng viên chưa đăng kí nào bị bắt quả tang đang viết bài, hoặc biên tập đều phải đối mặt với án một năm tù. Hạn chót là ngày 01 tháng 01 năm 1934.
Poulette rất đỗi phiền muộn khiến Fromm bối rối. Tất nhiên bản thân cô biết quy định này. Là người Do Thái, cô chấp nhận thực tế rằng mình sẽ mất việc vào năm mới. Nhưng còn Poulette? “Sao cậu lo lắng vậy?” Fromm hỏi.
“Tớ có lí do, Bella yêu dấu ạ. Tớ đã viết bài cho mấy tờ báo của tớ, rồi chạy long tóc gáy để kiếm tờ báo có bài mình. Cuối cùng tớ phát hiện bà tớ là người Do Thái.”
Với tin tức ấy, cuộc đời cô ấy đột ngột thay đổi không thể cứu vãn. Đến tháng Một, cô ấy gia nhập một giai cấp xã hội hoàn toàn mới, gồm hàng nghìn người choáng váng khi biết mình có họ hàng là người Do Thái, ở thời điểm nào đó trong quá khứ. Không cần biết họ tự xem bản thân mình hoàn toàn là người Đức đến thế nào, họ sẽ tự động bị tái phân loại không thuộc giống người Aryan thuần chủng và bị gắn chặt với những mảnh đời mới mẻ, nghèo nàn, sống bên lề của thế giới chỉ thuộc về người Aryan, do chính quyền của Hitler dựng lên.
“Chẳng ai biết chuyện này hết,” Poulette nói với Fromm. “Giờ thì mình đang mất cần câu cơm.”
Chính bản thân chuyện này đã đủ tệ, nhưng Dạ vũ lại còn vô tình trùng với tưởng niệm ngày mất của chồng Poulette. Trước sự ngạc nhiên của Fromm, Poulette quyết định không tham dự Dạ vũ Báo chí Nhỏ ,vì cô cảm thấy buồn đến mức không đi nổi.
Fromm ghét phải bỏ bạn một mình mà đi vũ hội, nhưng dù sao đi nữa, cô quyết định ngày hôm sau sẽ đến thăm Poulette và đưa cô ấy về nhà mình, vì Poulette rất thích chơi với lũ chó của Fromm.
Suốt cả buổi tối, vào những lúc không còn để tâm đến trò hề của những người ngồi xung quanh, Fromm thấy mình bị ám ảnh khi suy nghĩ về cảm giác chán nản thường thấy ở cô bạn.
Đối với Dodd, nhận xét của Papen được xem là một trong những lời ngu xuẩn nhất ông từng nghe, kể từ khi đến Berlin. Và ông đã được nghe nhiều lời như vậy. Một kiểu tư duy không thực tế đến kì lạ dường như làm kinh ngạc cả nước Đức, ngay cả các cấp cao nhất của Chính phủ. Chẳng hạn hồi đầu năm, Göring cực kì bình thản tuyên bố rằng ba trăm người Mỹ gốc Đức đã bị giết ngay trước Tòa nhà Độc lập tại Philadelphia, vào thời điểm bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong một thông điệp của mình, Messersmith nhận xét rằng thậm chí cả những người Đức thông minh, đã đi nhiều biết nhiều cũng sẽ “ngồi xuống, từ tốn kể bạn nghe những câu chuyện thần tiên phi thường nhất.”
Lúc này đây, ngài Phó Thủ tướng của đất nước tuyên bố mình chẳng hiểu tại sao Mỹ lại tham chiến chống Đức trong Thế Chiến.
Dodd nhìn Papen. “Tôi có thể cho ngài biết lí do,” ông nói, giọng ông đều đều thậm chí còn hơn lúc nãy. “Vì sự ngu ngốc không thể đỡ nổi của các nhà ngoại giao Đức đấy.”
Trông Papen kinh ngạc. Vợ lão ta, theo lời Sigrid Schultz, trông thích thú đến lạ lùng. Khắp bàn ăn lại chìm trong câm lặng - không phải là sự dò xét như lúc trước, mà là sự trống trải tăng lên - cho đến khi mọi người bỗng cố gắng lấp đầy khoảng trống bằng những mẩu đối thoại khôi hài.
Ở một thế giới khác, một bối cảnh khác, đây hẳn sẽ là một chuyện nhỏ chẳng đáng để tâm, một màn đối thoại hài hước, sâu cay, sẵn sàng bị quên lãng. Tuy nhiên, vào giữa thời điểm Đức Quốc xã đang tiến hành đàn áp và Đồng bộ hóa, thì chuyện này còn quan trọng và có tính tượng trưng hơn nhiều. Sau buổi dạ hội, như đã thành thông lệ, một nhóm các vị khách quan trọng rút về căn hộ của Schultz, nơi mẹ cô đã chuẩn bị hàng chồng bánh sandwich. Ở đó, câu chuyện về màn đấu khẩu của Dodd được tường thuật lại với những điệu bộ mạnh mẽ, và hẳn nhiên là say mèm. Bản thân Dodd không có mặt, ông có thiên hướng rời khỏi các bữa tiệc càng sớm càng tốt theo nghi thức ngoại giao, thẳng tiến về nhà, khép lại đêm nay bằng một cốc sữa, một bát đào hầm và sự dễ chịu đến từ một cuốn sách hay.
Bất chấp những lúc lo âu trỗi dậy, Bella Fromm thấy buổi dạ hội rất vui. Thật vui làm sao khi chứng kiến cảnh đám quan chức Quốc xã hành xử sau khi nốc vài ly rượu và lắng nghe chúng ngắt lời nhau, ghé tai nhau những lời nhận xét, chỉ trích. Có lúc viên công tước mang kiếm, Koburg, vô tình bước khệnh khạng ngang qua Fromm, khi cô đang nói chuyện với Kurt Daluege, một quan chức cảnh sát được cô miêu tả là kẻ “tàn bạo và máu lạnh”. Viên công tước có vẻ muốn chứng tỏ sự ngạo mạn, nhưng như Fromm để ý, ông ta tự biến mình thành trò cười do “vẻ ngoài lom khom, như thằng lùn”. Daluege nói với Fromm, “Lão Koburg đó bước đi như thể đang đi cà kheo ấy,” rồi nói thêm đầy đe dọa, “Có tin rò rỉ cho rằng bà của lão ta đã cắm sừng Đại Công tước, ngoại tình với một chủ nhà băng Do Thái.”
Vào lúc mười giờ sáng hôm sau, Fromm gọi điện cho Poulette nhưng chỉ gặp được bà hầu gái già, bà ta nói, “Nam tước phu nhân để lại mẩu giấy trong bếp nói rằng không được quấy rầy bà.”
Poulette không bao giờ ngủ muộn thế này. “Bất ngờ tôi đã hiểu ra,” Fromm viết.
Poulette không phải là người Do Thái đầu tiên, hay là người bị phân loại không phải dân Aryan thuần chủng đầu tiên, cố gắng tự sát khi Hitler trỗi dậy. Người ta đồn đại rằng các vụ tự sát trở nên phổ biến, và thực sự một nghiên cứu của Cộng đồng Người Do Thái ở Berlin phát hiện, từ năm 1932 đến năm 1934, đã có 70,2 vụ tự sát trên 100.000 dân Do Thái ở Berlin, tăng mạnh so với 50,4 vụ từ năm 1924 đến năm 1926.
Fromm lao vào gara của mình, phóng xe nhanh hết tốc lực đến nhà Poulette.
Ngoài cửa, người hầu bảo cô rằng Poulette vẫn đang ngủ. Fromm lao qua bà ta, tiếp tục đi vào trong đến khi tới được phòng ngủ của Poulette. Căn phòng tối om. Fromm mở hết rèm cửa. Cô phát hiện Poulette đang nằm trên giường, vẫn còn thở, nhưng khó khăn. Bên cạnh giường, trên chiếc bàn ngủ, là hai ống thuốc an thần Veronal đã trống rỗng.
Fromm cũng tìm thấy một mẩu giấy gửi cho mình. “Tớ không thể sống nổi nữa, vì tớ biết mình sẽ bị ép buộc phải bỏ việc. Cậu là người bạn thân nhất của tớ, Bella. Làm ơn hãy lấy hết các hồ sơ của tớ và sử dụng chúng. Cảm ơn cậu vì tất cả tình yêu cậu dành cho tớ. Tớ biết cậu là người quả cảm, cậu dũng cảm hơn tớ, và cậu phải sống vì cậu còn phải nuôi con. Tớ chắc chắn rằng cậu sẽ chiến đấu mạnh mẽ hơn tớ…”
Cả ngôi nhà như bừng tỉnh. Các bác sĩ đã đến, nhưng không làm gì được nữa.
Hôm sau, một quan chức văn phòng ngoại giao gọi cho Bella bày tỏ nỗi đau buồn và gửi một thông điệp quanh co. “Cô Bella,” ông ta nói, “Tôi hết sức choáng váng. Tôi hiểu mất mát của cô khủng khiếp đến thế nào. Cô von Huhn đã chết vì viêm phổi.”
“Vớ vẩn!” Fromm ngắt lời “Ai bảo ông thế? Cô ấy tự...”
“Cô Bella, làm ơn hãy hiểu, bạn chúng ta bị viêm phổi. Những lời giải thích thêm nữa có thể gây rắc rối. Cũng vì cả lợi ích của cô nữa.”
Hầu hết các vị khách đều thấy buổi dạ hội là sự sao lãng đáng yêu. “Tất cả mọi người đã có khoảng thời gian vui vẻ,” Louis Loch- ner đã viết trong lá thư gửi con gái đang du học Mỹ. Đại sứ Dodd, đúng như dự đoán, đã có một đánh giá khác, “Bữa tối chán ngắt, cho dù nếu vào hoàn cảnh khác, đám khách khứa có mặt hẳn sẽ cung cấp những thông tin giá trị nhất.”
Nhưng có một kết quả không ai ngờ tới. Giữa Dodd và Papen, thay vì tồn tại mối bất hòa cay đắng, sự hợp tác, liên kết nồng ấm và lâu dài lại ngày càng phát triển. “Từ hôm đó trở đi,” Sigrid Schultz nhận xét, “Đích thân Papen nuôi dưỡng tình bạn với Đại sứ Dodd hết sức ân cần.” Hành vi của Papen với Schultz cũng được cải thiện. Cô viết, dường như lão ta đã quyết định rằng “tốt hơn hết nên bày tỏ thái độ dễ chịu đối với tôi”. Cô phát hiện lão ta đúng kiểu một người Đức điển hình. “Hễ khi nào gặp phải ai đó thách thức sự ngạo mạn của mình, họ sẽ đều xuống nước và hành xử đàng hoàng,” cô viết. “Họ tôn trọng cá tính của những người họ gặp gỡ, và nếu thêm nhiều người bày tỏ sự cứng rắn, đối với những kẻ sai vặt của Hitler như Papen và đồng bọn của lão ta trong từng cuộc chuyện phiếm mỗi ngày, hay trong những vấn đề lớn của đất nước, sự phát triển của Quốc xã có lẽ đã chậm lại.”
Lời đồn đại về nguyên nhân thực sự cái chết của Poulette lan rộng. Sau đám tang, Fromm cùng về nhà với một người bạn tốt mà cô coi như người mẹ thứ hai - “Mammi” von Carnap, vợ một cựu thị thần của hoàng đế Đức và từ lâu là một nguồn cấp tin tuyệt vời cho chuyên mục của Fromm. Cho dù trung thành với nước Đức xưa, gia đình Carnap lại đồng cảm với Hitler và chiến dịch khôi phục sức mạnh quốc gia của hắn.
Mammi dường như có chuyện muốn nói. Một lúc sau, bà ta lên tiếng, “Bellachen, tất cả chúng tôi đều sốc vì các quy định mới chắc đã gây ra chuyện này!”
Fromm giật mình. “Nhưng Mammi,” Fromm nói, “bà không nhận ra sao? Đây mới chỉ là bắt đầu. Thứ này rồi sẽ trở mặt chống lại tất cả những ai đã giúp tạo ra nó.”
Mammi không để tâm đến lời nhận xét. “Bà von Neurath khu- yên cô nên nhanh chóng làm lễ rửa tội,” bà ta nói. “Văn phòng ngoại giao đang rất muốn tránh một vụ Poulette thứ hai.”
Người đàn bà này khiến Fromm kinh ngạc - bà ta quá thờ ơ trước những thực tế mới tại Đức, đến nỗi thản nhiên cho rằng chỉ cần làm lễ rửa tội là có thể hô biến ai đó thành người Aryan thuần chủng.
“Bà già ngu ngốc tội nghiệp!” Fromm viết trong nhật kí.