Lúc này, cả Martha và Boris đều cảm thấy tự do hơn khi tiết lộ quan hệ của họ cho thế giới, dù cả hai hiểu rằng vẫn cần thiết phải kín đáo, xét đến chuyện cả cấp trên của Boris, lẫn cha mẹ của Martha vẫn không ủng hộ. Chuyện tình của họ ngày càng nghiêm túc hơn, cho dù Martha đã nỗ lực hết sức để có chuyện tình nhẹ nhàng và mập mờ. Cô tiếp tục cặp kè Armand Berard của Đại sứ quán Pháp, và có khả năng là Diels, chấp nhận hẹn hò với những kẻ theo đuổi mới mẻ, tiềm năng khác khiến Boris phát điên vì ghen. Anh tấn công cô với cơ man nào là thư từ, hoa hoét, âm nhạc và gọi điện cho cô liên tục. “Mình chỉ muốn yêu anh ấy thật nhẹ nhàng thôi,” Martha viết, trong một miêu tả không được xuất bản. “Mình đã cố gắng coi anh ấy như bạn thôi. Mình tự ép bản thân thờ ơ với anh ấy trong một tuần, rồi tuần sau lại ghen tuông một cách ngu ngốc. Mình đã quên hẳn anh ấy, thế rồi lại quấn lấy anh ấy. Đúng là một sự mâu thuẫn khó chịu, khiến cả hai ta đều khốn khổ và tức giận.”
Martha vẫn giữ nguyên quan điểm màu hồng về cách mạng Quốc xã, nhưng Boris không ảo tưởng về những gì đang diễn ra quanh họ. Bất chấp Martha bực mình, anh luôn tìm kiếm những động cơ ngầm chi phối hành động của các lãnh đạo Quốc xã, và nhiều nhân vật đến thăm Đại sứ quán Mỹ.
“Anh lúc nào cũng chỉ thấy điều xấu xa,” cô giận dữ nói. “Anh nên cố gắng nhìn ra những điều tích cực tại Đức, và ở những vị khách của chúng ta, chứ đừng lúc nào cũng nghi ngờ họ có âm mưu ngầm.”
Có lúc, cô cho rằng anh cũng đang che giấu những âm mưu. “Em nghĩ anh ghen tị với Armand,” cô nói, “hoặc bất kì ai đưa em đi chơi.”
Hôm sau, cô nhận được một gói quà của Boris. Bên trong cô thấy ba con khỉ bằng gốm và một bưu thiếp ghi, “Không Nhìn Thấy Điều Ác, Không Nghe Thấy Điều Ác, Không Nói Đến Điều Ác,” Cuối thư Boris viết, “Anh yêu em.”
Martha bật cười. Đáp lại, cô gửi cho anh một bức tượng gỗ chạm khảm hình một nữ tu, kèm theo mẩu giấy trấn an anh rằng cô đang làm theo mệnh lệnh của lũ khỉ.
Đằng sau chuyện này hiện ra lờ mờ một câu hỏi: Mối quan hệ của họ có thể đi tới đâu? “Tôi không thể chịu nổi khi nghĩ đến một tương lai, có hoặc không có anh ấy,” cô viết. “Tôi yêu gia đình tôi, đất nước tôi và không muốn đối mặt với khả năng phải chia xa cả hai điều đó.”
Sự căng thẳng này dẫn đến những hiểu lầm và đau khổ Boris phải chịu đựng.
“Martha!” Anh viết trong lá thư chứa đầy nỗi đau. “Anh buồn đến mức không thể tìm được từ nào để nói về mọi chuyện đã xảy ra. Hãy tha thứ cho anh, nếu anh đã làm gì ích kỉ hoặc xấu xa với em. Anh không cố ý hay mong muốn làm thế. Anh hiểu em nhưng không hoàn toàn hiểu hết, và anh không biết mình nên làm gì. Anh nên làm gì đây? Vĩnh biệt, Martha, hãy hạnh phúc mà không có anh và đừng nghĩ xấu về anh.”
Họ luôn quay lại với nhau. Mỗi lần chia tay dường như chỉ càng khiến họ bị hút về phía nhau hơn trước, đồng thời làm tăng thêm những giây phút hiểu lầm và giận hờn - cho đến một buổi chiều Chủ nhật cuối tháng Mười một, mối quan hệ của họ trải qua sự thay đổi quan trọng. Cô nhớ lại hết từng chi tiết một.
Một ngày ảm đạm, bầu trời trông như một hòn than xám xịt, trời se lạnh, nhưng không quá lạnh, nên Boris vẫn bật mui xe Ford. Họ lên đường đến một nhà hàng ấm cúng cả hai cùng yêu thích, nằm trong một nhà thuyền nổi trên hồ ở quận Wannsee. Một khu rừng thông thơm nức bao xung quanh mép nước.
Họ thấy nhà hàng gần như trống trải nhưng vẫn quyến rũ. Những chiếc bàn gỗ vây quanh một sàn nhảy nhỏ. Khi máy nghe nhạc tự động không chơi nhạc, tiếng nước nhẹ vỗ vào hàng cọc bên ngoài nghe rõ mồn một.
Martha gọi món súp hành, salat và bia. Boris gọi vodka, thịt xiên nướng kiểu Nga, cá trích nhúng kem chua và hành. Anh gọi thêm vodka. Martha để ý Boris yêu thích đồ ăn, nhưng dường như chẳng lên được cân nào cả.
Sau bữa trưa, hai người khiêu vũ. Boris đang cải thiện dần nhưng vẫn xem nhảy và đi bộ là hai hiện tượng có thể giao thoa với nhau. Có lúc cơ thể họ sát gần nhau, cả hai vẫn bất động, Martha nhớ lại, bất chợt cô cảm thấy hơi nóng bừng lên.
Boris đột ngột tránh ra. Anh nắm lấy tay cô, dẫn cô ra ngoài, bước lên một sàn gỗ nhô ra trên mặt nước. Cô nhìn anh và nhận thấy nỗi đau - hai lông mày nhíu lại, môi mím chặt. Dường như anh bị kích động. Họ đứng bên nhau cạnh hàng lan can, ngắm nhìn một bầy thiên nga trắng.
Anh quay sang cô, nét mặt gần như buồn rười rượi. “Martha,” anh nói, “Anh yêu em.” Lúc này, anh thú nhận mình đã cảm thấy thế, kể từ lần đầu tiên nhìn thấy cô tại căn hộ của Sigrid Schultz. Anh giữ cô đứng trước mặt mình, hai bàn tay nắm chắc khuỷu tay cô. Sự vui vẻ liều lĩnh đã không còn.
Anh bước lùi lại và ngắm cô. “Đừng đùa giỡn với anh nữa, em yêu,” anh nói. “Em có quá nhiều kẻ theo đuổi. Em không nên quyết định ngay. Nhưng đừng xem nhẹ anh nhé. Anh không chịu nổi đâu.”
Cô nhìn đi chỗ khác. “Em yêu anh, Boris. Anh biết mà. Và anh biết em đã cố gắng rất nhiều để không yêu anh.”
Boris quay ra nhìn mặt nước. “Phải, anh biết,” anh buồn bã đáp. “Với anh cũng chẳng dễ dàng gì.”
Tuy nhiên, Boris không bao giờ có thể buồn bã được lâu. Nụ cười của anh đã xuất hiện trở lại - nụ cười bất ngờ ấy. “Có điều,” anh nói, “đất nước của em và của anh giờ là bạn bè, chính thức rồi, và điều đó khiến mọi chuyện tốt hơn nhiều, khiến điều gì cũng có thể xảy ra, đúng không?”
Đúng vậy, nhưng…
Còn một vật cản khác. Boris đang giữ một bí mật. Martha biết điều đó nhưng vẫn chưa nói với anh. Giờ đây khi đối mặt anh, cô nói bằng giọng rất chậm rãi.
“Thêm nữa,” cô nói, “anh đã kết hôn rồi.”
Một lần nữa Boris lại lùi ra xa. Nước da của anh, vốn đã đỏ lựng vì lạnh, ngày càng đỏ rần. Anh bước đến hàng lan can, tì người trên khuỷu tay. Dáng người cao của anh tạo nên hình vòng cung mỏng manh và duyên dáng. Cả hai không nói gì.
“Anh xin lỗi,” anh đáp. “Lẽ ra anh nên nói với em. Anh tưởng em đã biết. Hãy tha thứ cho anh.”
Cô nói rằng lúc đầu cô cũng không biết, cho đến khi Armand cùng cha mẹ cô cho cô xem thông tin về Boris, trên thư mục ngoại giao của văn phòng ngoại giao Đức. Ngay sau tên của Boris là phần nhắc đến vợ anh, ghi dòng chữ “abwesend”, có nghĩa là vắng mặt.
“Không phải cô ấy ‘vắng mặt’ đâu,” Boris nói. “Vợ chồng anh li thân rồi. Anh và cô ấy khủng khẳng với nhau đã lâu rồi. Trong danh mục ngoại giao tiếp theo phần ấy sẽ để trống.” Anh cũng tiết lộ thêm rằng mình có một con gái, anh rất yêu thương cô bé. Anh nói chính con bé là nhịp cầu để anh tiếp tục giữ quan hệ với vợ.
Martha nhận thấy mắt anh rưng rưng lệ. Anh đã từng khóc trước mặt cô, và cô luôn thấy thật cảm động nhưng cũng không thoải mái. Một người đàn ông khóc lóc - điều này mới mẻ với cô. Ở Mỹ, đàn ông không khóc bao giờ. Cô chưa thấy. Cho đến giờ, cô mới thấy cha mình rưng rưng nước mắt một lần duy nhất, vì cái chết của Woodrow Wilson, người mà ông xem như bạn thân. Thế rồi cha cô lại khóc một lần nữa, nhưng việc ấy phải vài năm nữa mới xảy ra.
Họ lại vào trong nhà hàng, trở về bàn mình. Boris gọi một ly vodka nữa. Anh có vẻ nhẹ nhõm. Hai người nắm tay nhau qua bàn.
Nhưng lúc này, Martha tiết lộ bí mật của riêng mình. “Em cũng kết hôn rồi,” cô nói.
Âm vực câu trả lời của anh làm cô giật nảy mình. Giọng anh trầm xuống, u sầu. “Martha, không!” Anh tiếp tục nắm hai tay cô, nhưng nét mặt chuyển sang trạng thái bối rối và đau đớn. “Sao em không nói với anh?”
Cô giải thích rằng cuộc hôn nhân của mình ngay từ đầu đã là bí mật, không ai biết hết trừ gia đình cô - rằng chồng cô là một chủ nhà băng ở New York, cô đã từng yêu hắn ta và yêu sâu sắc, nhưng lúc này về mặt pháp lí, họ đã li thân, chỉ còn vài vấn đề thủ tục li dị.
Boris gục đầu xuống hai tay. Anh nói điều gì đó theo hơi thở bằng tiếng Nga. Cô xoa đầu anh.
Anh đột ngột đứng dậy, lại bước ra ngoài. Martha vẫn ngồi yên chỗ cũ. Một lúc sau, Boris trở lại.
“Ach, trời ạ,” anh nói, phá lên cười. Anh hôn lên trán cô. “Ôi, xem mớ hỗn độn chúng ta lâm vào kìa. Một phụ nữ đã kết hôn, một chủ nhà băng, một cô con gái của nhà ngoại giao nước ngoài - Anh không nghĩ còn chuyện gì tệ hơn thế. Nhưng chúng ta rồi sẽ tìm ra cách thôi. Các nhà cộng sản thường làm được điều không thể mà. Nhưng em phải giúp anh.”
Mặt trời đã sắp lặn khi họ rời nhà hàng và bắt đầu quay về thành phố, hoàng hôn vẫn đang dần buông. Hôm nay là một ngày quan trọng. Martha nhớ lại từng chi tiết nhỏ - ngọn gió lao tới xổ tung tóc cô khỏi búi sau gáy. Thói quen của Boris khi lái xe là cánh tay phải của anh khoác vai cô, bàn tay anh ấp lên ngực cô. Những cánh rừng rậm dọc đường ngày càng tối hơn trong ánh sáng nhợt nhạt, tỏa hương thơm ngào ngạt của mùa thu. Mái tóc cô tung bay phía sau trong những sợi vàng.
Cho dù chẳng ai nói thẳng ra, cả hai đều hiểu rằng điều gì đó nghiêm trọng đã xảy đến. Cô đã yêu sâu sắc người đàn ông này, và không thể đối xử với anh như những kẻ theo đuổi khác. Cô không muốn điều này xảy ra, nhưng nó đã xảy ra với người đàn ông mà cả phần còn lại của thế giới đều xem là cực kì không hợp.