Ngày 09 tháng 01, bị cáo quan trọng nhất trong phiên xử vụ cháy nhà Quốc hội, Marinus van der Lubbe, lắng nghe ủy viên công tố tuyên bố chặt đầu anh ta vào hôm sau.
“Cảm ơn đã cho tôi biết,” van der Lubbe nói, “Tôi sẽ gặp ngài vào ngày mai.”
Viên đao phủ đội mũ chóp dài và mặc áo đuôi tôm, với một chi tiết nhỏ đặc biệt cầu kì, đôi găng tay trắng. Ông ta vận hành một chiếc máy chém.
Cuộc hành hình van der Lubbe đặt dấu chấm hết rõ ràng nhưng đẫm máu cho loạt sự kiện vụ cháy Nhà Quốc hội, qua đó dập tắt cội nguồn phản kháng làm vẩn đục nước Đức, từ tháng Hai năm ngoái. Giờ đây, bất kì ai cũng cảm thấy Nhà nước cần có hành động chính thức chấm dứt nó, van der Lubbe là kẻ phóng hỏa, và bây giờ hắn phải chết. Dimitrov vẫn còn sống và sẽ bay sang Moscow. Con đường khôi phục nước Đức giờ đã thênh thang.
Khi tháng năm mở rộng trước mắt, bề ngoài nước Đức dường như ngày càng ổn định hơn, khiến các nhà quan sát và nhà ngoại giao nước ngoài thất vọng, vì họ vẫn giữ niềm tin rằng các sức ép kinh tế sẽ làm sụp đổ chế độ Hitler. Vào cuối năm đầu tiên của nhiệm kì Thủ tướng, Hitler có vẻ sáng suốt hơn, gần như là có tinh thần hòa giải, và đi xa đến mức gợi ý rằng hắn ta có thể ủng hộ vài kiểu hiệp ước không quá đáng với Pháp và Anh. Anthony Eden, Người Giữ Ấn của vua Anh, du lịch sang Đức gặp gỡ Hitler, và giống như Dodd, ông ra về và ấn tượng trước sự chân thành mong muốn hòa bình của Hitler. Hiệp sĩ Eric Phipps, Đại sứ Anh tại Đức, viết trong nhật kí, “Ngài Hitler dường như đồng cảm chân thành với ngài Eden, người chắc chắn đã thành công khi phát hiện những phẩm chất nhất định của con người lạ lùng ấy, những điều mà cho đến nay vẫn bướng bỉnh ngủ yên.” Trong một lá thư gửi Thornton Wilder, Martha viết, “Hitler chắc chắn đang tốt lên.”
Cảm giác bình thường mơ hồ này rõ nét trong cả các lĩnh vực khác. Thống kê chính thức số lượng công nhân thất nghiệp cho thấy sự sụt giảm nhanh chóng, từ 4,8 triệu người năm 1933 xuống còn 2,7 triệu người năm 1934, cho dù phần lớn trong số này là do các biện pháp như giao việc một người làm cho hai người, và một chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ ngăn cản phụ nữ đi làm. Các trại tập trung “hoang dại” đã bị đóng cửa, một phần nhờ công trùm Gestapo Ruldolf Diels. Trong Bộ Nội vụ Đế chế, người ta đã bàn đến chuyện hủy bỏ giam giữ bảo hộ, cùng các trại tập trung.
Ngay cả Dachau dường như cũng trở nên văn minh. Ngày 12 tháng 02 năm 1934, một đại diện của Hiệp hội Giáo hữu, Gilbert L. MacMaster, lên đường đến thăm trại sau khi được phép gặp gỡ một tù nhân, cựu nghị sĩ Nhà Quốc hội tên là George Simon, sáu mươi hai tuổi. Ông ta từng bị bắt giữ vì là người ủng hộ chủ nghĩa Xã hội. MacMaster bắt một chuyến tàu ở Munich và nửa tiếng sau xuống tàu tại làng Dachau, nơi được ông ta mô tả là một “ngôi làng nghệ sĩ”. Từ đây, ông ta cuốc bộ nửa giờ nữa đến trại tập trung.
Ông ta ngạc nhiên trước những gì mình chứng kiến. “Các báo cáo tàn bạo về trại này nhiều hơn bất kì nơi nào khác tại Đức,” ông ta viết. “Cho dù vẻ ngoài của nó đẹp hơn bất kì trại nào tôi từng thấy.” Nhà máy thuốc súng cũ nơi đặt trại này được xây dựng trong thời Thế chiến I. “Có những ngôi nhà rất đẹp dành cho các nhà hóa học và sĩ quan, các nhà tạm cho công nhân vững chắc hơn, và toàn bộ nhà máy được sưởi ấm bằng hơi nước,” MacMaster viết. “Nhờ thế, trang bị tiện nghi cho tù nhân tại Dachau có vẻ tốt hơn hẳn, đặc biệt là trong thời tiết lạnh, so với trại tạm thời ở nhà máy cũ hoặc trang trại. Thực ra, nhìn bề ngoài toàn bộ nơi này giống một cơ sở thường trú hơn là trại tập trung.”
Không lâu sau đó, tù nhân Simon được đưa đến trạm gác gặp MacMaster. Ông ta mặc quần áo tù màu xám và trông có vẻ khỏe mạnh. “Ông ta không phàn nàn gì cả,” MacMaster viết, “ngoại trừ đang mắc chứng thấp khớp cấp tính.”
Cuối ngày hôm đó, MacMaster nói chuyện với một quan chức cảnh sát và được biết trại giam giữ hai nghìn tù nhân. Chỉ có hai mươi lăm người là dân Do Thái, hắn một mực cho rằng họ bị bắt vì phạm tội chính trị, chứ không phải vì tôn giáo. Tuy nhiên, MacMaster đã nghe báo cáo trại giam giữ ít nhất năm nghìn tù nhân, và khoảng từ bốn mươi đến năm mươi người là dân Do Thái. Trong số này, chỉ có “một, hai người” bị bắt vì tội danh chính trị, số khác bị bắt vì lời tố cáo của những kẻ “muốn phá hoại việc làm ăn của họ, và số khác bị buộc tội quan hệ với những cô gái không phải dân Do Thái.” Ông ta ngạc nhiên khi nghe hắn nói rằng hắn xem các trại tập trung “chỉ là tạm thời, và vui vẻ mong cái ngày không còn các trại này nữa.”
MacMaster thấy Dachau thậm chí có lúc trông rất đẹp. “Hôm ấy là một buổi sáng trời rất giá buốt,” ông ta viết. “Sương mù phủ dày đặc từ đêm qua, khiến tôi đi kiếm khách sạn rất vất vả. Sáng nay thì trời xanh ngăn ngắt đến hoàn hảo. Những sắc màu ở Bavaria88 là màu trắng của mây, màu xanh ngắt của nền trời và lớp sương muối dày trên cây cối do sương mù đêm qua.” Mọi thứ đều chìm trong bức màn tinh thể băng lấp lánh, tạo cho trại tập trung vẻ đẹp thoát tục, như từ trong truyện cổ tích bước ra. Dưới ánh mặt trời, đám cây phong trên cánh đồng hoang xung quanh biến thành những ngọn tháp kim cương.
88 Bavaria (tiếng Đức: Bayern): một bang của nước Đức với thủ phủ là thành phố Munich.
Tuy nhiên, giống như tình hình ở nước Đức mới, vẻ ngoài của trại Dachau chỉ là trò bịp. Sự vệ sinh và hiệu quả của trại không bắt nguồn từ mong muốn đối xử nhân đạo hơn với tù nhân. Tháng Sáu năm ngoái, một tên sĩ quan SS tên là Theodor Eicke nắm quyền quản lí Dachau. Hắn ban ra một bộ quy tắc, về sau trở thành khuôn mẫu cho tất cả các trại. Được ban hành ngày 01 tháng 10 năm 1933, các quy định mới hệ thống hóa quan hệ giữa lính gác và tù nhân, qua đó bãi bỏ hành động trừng phạt bốc đồng, thất thường, chuyển sang kỉ luật có hệ thống, vô cảm và có thể đoán trước. Giờ đây, ai ai cũng biết về những quy định này, chúng nghiệt ngã và lạnh lùng đến mức không có chỗ cho lòng thương hại.
“Nhân từ là yếu đuối,” Eicke viết trong lời giới thiệu quy định của hắn. “Xét theo quan niệm này, trừng phạt sẽ được tiến hành không thương tiếc, hễ khi nào lợi ích của tổ quốc đòi hỏi điều đó.” Các tội nhỏ sẽ bị đánh bằng roi và biệt giam. Thậm chí điều mỉa mai là phương pháp này rất tốn kém. Biệt giam tám ngày và “đánh hai mươi lăm roi” là mức phạt dành cho “bất cứ ai có nhận xét chê bai hoặc mỉa mai một thành viên SS, cố tình không thể hiện sự tôn trọng theo quy định, hoặc bằng bất kì cách nào khác cho thấy sự miễn cưỡng chấp nhận các hình phạt kỉ luật”. Một điều khoản bao quát tổng thể, Điều 19, liên quan đến “các hình phạt kèm theo”, bao gồm khiển trách, đánh đập và “trói vào cọc”. Một mục khác nêu rõ các quy định về hình phạt treo cổ. Cái chết là hình phạt đối với bất cứ ai bàn chuyện chính trị, hoặc bị bắt quả tang đang hội họp với những người khác “nhằm mục đích kích động”. Thậm chí việc thu thập “các thông tin đúng hay sai về trại tập trung” hoặc tiếp nhận thông tin như thế, hoặc nói với ai về thông tin này có thể bị treo cổ. “Nếu tù nhân cố gắng vượt ngục,” Eicke viết, “sẽ bị bắn chết ngay lập tức.” Nổ súng cũng là phản ứng được yêu cầu nhằm dập tắt các cuộc nổi loạn của tù nhân. “Những phát súng cảnh cáo,” Eicke viết, “trên nguyên tắc bị cấm.”
Eicke chắc chắn tất cả các lính gác mới đều thuộc làu quy định, như một trong các học viên của hắn, Rudolf Höss, về sau này đã chứng nhận. Höss làm lính gác tại Dachau vào năm 1934, và cậu ta nhớ lại cách Eicke không ngừng nhai đi nhai lại cùng một thông điệp: “Bất kì lòng thương hại nào dành cho ‘những kẻ thù của Nhà nước’ là không xứng đáng đối với một mật vụ SS. Trong hàng ngũ SS, không có chỗ cho những kẻ có trái tim mềm yếu và chúng sẽ sớm phải vào sống trong tu viện. Chúng ta chỉ sử dụng những ai cứng rắn, có quyết tâm sẵn sàng chấp hành mệnh lệnh, mà không cần hỏi.” Là một học viên ưu tú, Höss tiếp tục làm sĩ quan chỉ huy tại trại Auschwitz.
Mới nhìn qua, dường như nạn đàn áp người Do Thái cũng đã ngừng lại. “Trong thời gian tôi ở đây, Berlin cho thấy một vẻ bình thường,” David J. Schweitzer, một quan chức cao cấp của Ủy ban Phân phối Liên kết Mỹ - Do Thái, gọi tắt là Joint, một tổ chức giảm nhẹ thương đau cho người Do Thái viết. “Bầu không khí căng tràn nhựa sống, đâu đâu cũng thấy những cử chỉ lịch thiệp.” Những người Do Thái từng bỏ đi năm ngoái giờ đang thực sự quay về. Khoảng mười ngàn người Do Thái bỏ đi đầu năm 1933 đã quay về vào đầu năm 1934, cho dù làn sóng di cư sang nước khác - bốn ngàn người trong năm 1934 - vẫn tiếp tục. “Đây mới đúng là tình hình thực tế, hoặc được che giấu rất kĩ, đến nỗi tôi nghe một người Mỹ vừa sang nước láng giềng được một tuần, nhận xét rằng anh ta không thể thấy bất kì chuyện gì thực sự xảy ra, đủ sức làm lay động thế giới bên ngoài.”
Nhưng Schweitzer hiểu đây phần lớn là ảo ảnh. Bạo lực công khai đối với dân Do Thái tuy có vẻ đã giảm, nhưng sự đàn áp ngấm ngầm đã bắt đầu khởi động. “Điều bi kịch là bạn bè chúng tôi không thể nhìn ra sự thật, đang xảy ra hằng ngày sau vẻ ngoài ấy, như người ta đang có việc làm dần dần bị mất việc,” Schweitzer viết. Ông đưa ra ví dụ các cửa hàng bách hóa tổng hợp của Berlin, với đặc thù là có nhân viên và chủ cửa hàng là dân Do Thái. “Một mặt, người ta có thể thấy một cửa hàng bách hóa Do Thái đông đúc như thường lệ, với khách hàng cả dân Do Thái lẫn không phải dân Do Thái, nhưng mặt khác ngay tại cửa hàng kế bên, người ta lại chẳng thấy một mống nhân viên Do Thái nào hết.” Tương tự, tình hình khác biệt từ cộng đồng này sang cộng đồng khác. Một thành phố có thể cấm cửa dân Do Thái, trong khi ở thành phố gần đó dân Do Thái và sắc dân khác vẫn tiếp tục “cùng chung sống thân thiện với nhau, chí thú làm ăn một cách tốt nhất có thể, mà không bị quấy rầy.”
Schweitzer cũng phát hiện những quan điểm khác nhau giữa các nhà lãnh đạo Do Thái ở Berlin. “Một xu hướng chung là chẳng có gì để hi vọng, rằng mọi thứ đang trở nên tồi tệ hơn,” ông viết. “Tuy nhiên, một xu hướng khác hoàn toàn trái ngược nhưng rõ ràng, tức là đổi chiều suy nghĩ tập trung vào thời điểm tháng Ba năm 1934 thay vì tháng Ba năm 1933, tự hòa nhập vào tình hình hiện tại, chấp nhận tình trạng không thể tránh khỏi, tự tham gia vào các giới bị cấm đoán và hi vọng rằng, mọi thứ sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt dần lên.
Những lời tuyên bố long trọng không ngừng của Hitler về hòa bình tạo thành sự lừa dối chính thức trắng trợn nhất. Bất kì ai đi về vùng nông thôn ngoài Berlin sẽ hiểu ngay lập tức. Raymond Geist, Quyền Tổng Lãnh sự, đều đặn có những chuyến đi như thế bằng xe đạp. “Trước khi hết năm 1933, trong những cuộc du ngoạn thường xuyên của mình, gần như trên từng con đường ngoại ô Berlin, tôi đều phát hiện các cơ sở quân đội lớn, bao gồm các thao trường huấn luyện, các sân bay, trại lính, bãi thử tên lửa, trận địa chống máy bay và nhiều thứ tương tự.”
Ngay cả Jack White, dù mới chân ướt chân ráo đến Berlin cũng nhận thấy bản chất thật của những gì đang diễn ra. “Ai đi về vùng nông thôn ngày Chủ nhật cũng thấy những chiếc áo nâu đang lảng vảng trong rừng,” ông ta nói với người anh rể, Moffat.
White kinh ngạc khi biết rằng, con gái út của bạn ông ta phải học ném lựu đạn vào chiều thứ Tư hàng tuần.
Trạng thái bình thường siêu thực của nước Đức cũng che giấu mối xung đột ngày càng trầm trọng giữa Hitler với Röhm. Dodd và những người khác có thời gian ở Đức biết rất rõ Hitler có ý định tăng cường quân đội chính quy, Quân Phòng vệ Đế chế, bất chấp những ngăn cấm rõ ràng trong Hiệp ước Versailles, nhưng Đại úy Röhm của SA lại muốn tăng gì thì cũng phải bao gồm toàn bộ các đơn vị SA, một phần trong chiến dịch giành quyền kiểm soát quân đội quốc gia của hắn. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Blomberg và các tướng tá hàng đầu quân đội đều căm ghét Röhm, coi khinh đội quân Sư đoàn Bão tố áo nâu hoang dã, thô lỗ mà Röhm chỉ huy. Göring cũng vậy, lão nhìn nhận khao khát quyền lực của Röhm đe dọa quyền kiểm soát lực lượng không quân mới của Göring, đến niềm kiêu hãnh và niềm vui của lão, lực lượng mà giờ đây lão đang âm thầm, nhưng quyết liệt gắng sức xây dựng.
Điều còn chưa rõ ràng là quan điểm chính xác của Hitler về chuyện này. Tháng Mười hai năm 1933, Hitler cho Röhm làm thành viên nội các của mình. Vào đêm Giao thừa, hắn gửi đến Röhm lời chúc mừng ấm áp, được đăng tải trên báo chí, theo đó hắn tán dương đồng minh lâu năm của mình đã xây dựng một đội quân rất hiệu quả. “Cậu phải biết rằng ta rất biết ơn số phận đã cho ta một người như cậu làm bạn và huynh đệ của ta.”
Tuy nhiên, không lâu sau đó, Hitler ra lệnh cho Rudolf Diels gửi báo cáo về những vi phạm trắng trợn của SA, những thói quen đồng tính luyến ái của Röhm và đồng bọn. Diels sau này tuyên bố rằng Hitler cũng đề nghị hắn khử Röhm và những “kẻ phản bội” nhất định khác, nhưng hắn từ chối.
Tổng thống Hindenburg, người được xem là vật cản cuối cùng chống Hitler, dường như cảm nhận rõ ràng sức ép đang tăng lên. Ngày 30 tháng 01 năm 1934, Hindenburg tuyên bố công khai chúc mừng Hitler về “bước tiến lớn” nước Đức đạt được trong năm, kể từ khi hắn nhậm chức Thủ tướng. “Với trọn vẹn ân điển của Chúa,” ông viết, “Ta rất tự tin rằng sang năm mới, ngài và chính quyền của ngài sẽ tiếp tục thành công trên con đường tái thiết nước Đức vĩ đại mà ngài đã bắt đầu đầy mạnh mẽ, trên nền tảng thành quả quốc gia thống nhất đầy hạnh phúc, vì người dân Đức.”
Năm mới bắt đầu với cảm nhận nông cạn về những khoảng thời gian tươi đẹp mở rộng trước mắt, và đối với Dodd là một vòng liên hoan và yến tiệc cao sang mới. Những lời mời trang trọng được gửi đến dưới hình thức các tấm thiệp mời đựng trong phong bì, luôn luôn kèm theo sơ đồ chỗ ngồi. Giới lãnh đạo Quốc xã lại ưa thích kiểu sắp xếp vụng về, tức là các bàn được xếp thành hình chữ U rộng vuông góc, khách khứa ngồi cả trong lẫn ngoài. Những ai ngồi phía trong thì cả buổi tối phải trải qua cảm giác ám ảnh giao tiếp xã hội, khi bị người khác theo dõi từ phía sau. Dodd và gia đình ông nhận được một lời mời như thế từ người láng giềng, Đại úy Röhm.
Sau này, Martha hẳn sẽ có lí do lưu lại một bản sao sơ đồ chỗ ngồi, theo đó, Hausherr, hay chủ tiệc, ngồi ở trung tâm hình chữ U, có tầm nhìn bao quát tất cả mọi người ngồi trước mặt. Dodd ngồi bên phải Röhm, với tư cách là khách mời danh dự. Ngay trước mặt Röhm bên kia bàn, ngồi ở vị trí khó chịu nhất của móng ngựa, là Heinrich Himmler, kẻ căm ghét Röhm.