Cuộc sống của gia đình Dodd gặp phải một vài thay đổi.
Trước đây ở nhà mình, họ từng cảm thấy muốn nói gì thì nói, nhưng giờ họ phải đối mặt với rào cản mới mẻ và xa lạ. Cuộc đời họ phản ánh bầu không khí độc hại rộng lớn hơn đang bao trùm thành phố ngoài kia. Có câu chuyện phổ biến được lan truyền. Một người đàn ông gọi điện cho người khác, và trong khi trò chuyện anh ta vô tình hỏi, “Chú Adolf dạo này sao rồi?” Ngay sau đó mật vụ gõ cửa nhà anh ta, một mực bắt anh ta chứng minh rằng anh ta thực sự có một ông chú tên là Adolf, và rằng câu hỏi này không hề ám chỉ một tí nào đến Hitler. Người Đức ngày càng miễn cưỡng ở lại những khu nghỉ dưỡng trượt tuyết chung, lo sợ rằng mình có thể nói mơ trong giấc ngủ. Họ trì hoãn phẫu thuật vì sợ những ảnh hưởng của thuốc mê khiến họ nói năng lung tung. Những giấc mơ bị vây bọc bởi nỗi lo âu. Một người Đức mơ rằng một thành viên SA đã đến nhà anh ta và khám xét cửa lò nướng của anh ta, sau đó lặp đi lặp lại từng nhận xét tiêu cực gia đình này đưa ra phản đối Chính phủ. Sau khi trải nghiệm cuộc sống ở nước Đức Quốc xã, nhà văn Thomas Wolfe viết, “Toàn bộ dân tộc này... bị lây một nỗi sợ hãi thường trực.
Như kiểu một chứng tê liệt từ từ bóp nát và hủy hoại toàn bộ các mối quan hệ con người.”
Dĩ nhiên, trải nghiệm của người Do Thái là nhức nhối nhất. Một cuộc khảo sát với những người đã trốn khỏi nước Đức, được các sử gia xã hội Eric A. Johnson và Karl-Heinz Reuband thực hiện từ năm 1993 đến 2001, cho thấy 33% số người được hỏi “không thể rũ bỏ nỗi sợ bị bắt”. Trong số những người sống ở các thành phố nhỏ, hơn một nửa nhớ lại từng có nỗi sợ ấy. Tuy nhiên, hầu hết những người không phải Do Thái cho rằng mình ít thấy sợ hãi hơn - chẳng hạn tại Berlin, chỉ có 3% số người được hỏi mô tả nỗi sợ bị bắt kéo dài mãi không dứt - nhưng họ không cảm thấy hoàn toàn dễ chịu. Đúng hơn là, phần lớn người Đức đều từng trải qua tiếng vang của sự thanh bình. Trong họ, hình thành nhận thức rằng khả năng sống cuộc sống bình thường của họ “phụ thuộc vào việc chấp nhận chế độ Quốc xã, biết nghe lời và không hành xử ngu ngốc”. Nếu họ chịu tuân thủ đường lối, tự cho phép mình bị “đồng hóa”, thì họ sẽ an toàn - cho dù khảo sát cũng cho thấy xu hướng thi thoảng vi phạm quy định cao ngạc nhiên, giữa những người Berlin không phải Do Thái. Khoảng 32% số người được hỏi nhớ lại họ từng kể các câu chuyện cười chống Quốc xã, và 49% khẳng định rằng họ đã nghe đài địch từ Anh và các nước khác. Tuy nhiên, họ chỉ dám phạm tội trong kín đáo và chia sẻ điều đó với bạn bè thân thiết, vì họ hiểu mình có thể gặp phải những hậu quả chết người.
Ban đầu, đối với gia đình Dodd, tất cả cứ như tiểu thuyết và không ngờ lại vui đến thế. Martha nhớ lại lần đầu tiên cười sằng sặc khi bạn cô, Mildred Fish Harnack khăng khăng phải vào nhà tắm để nói chuyện cho riêng tư. Mildred tin rằng vốn không có nhiều trang bị nội thất, so với một một phòng khách lộn xộn thì nhà tắm sẽ khó gắn máy nghe lén hơn. Ngay cả khi đã vào nhà tắm rồi, Mildred cũng “thì thầm đến không thể nghe nổi”, Martha viết.
Chính Ruldolf Diels là người đầu tiên cho Martha biết thực tế u ám của nền văn hóa giám sát đang xuất hiện tại Đức. Một hôm, hắn ta mời cô đến văn phòng mình, với vẻ mặt đầy kiêu hãnh, hắn cho cô xem một loạt thiết bị được sử dụng để ghi âm các cuộc trò chuyện trên điện thoại. Hắn ta khiến cô tin rằng trang thiết bị nghe lén đã thực sự được lắp đặt tại văn phòng lãnh sự của Đại sứ quán Mỹ và ở nhà cô. Giới trí thức đông đảo tin rằng các mật vụ Quốc xã giấu micro trong điện thoại, để ghi âm các cuộc nói chuyện trong những phòng xung quanh. Vào một tối muộn, Diels có vẻ xác nhận điều này. Martha và hắn đi dự khiêu vũ. Sau đó, khi về đến nhà cô, Diels cùng cô đi lên gác tới thư viện uống rượu. Hắn ta có vẻ khó chịu và muốn nói gì đó. Martha lấy một chiếc gối to bước ngang phòng đến chỗ bàn làm việc của cha cô. Diels lúng túng hỏi cô đang làm gì. Cô bảo hắn ta mình muốn chặn cái gối lên điện thoại. Cô nhớ lại, Diels chậm rãi gật đầu, với “một nụ cười xảo quyệt thoáng hiện trên môi”.
Hôm sau, cô nói chuyện này với cha. Tin tức khiến ông kinh ngạc. Cho dù ông chấp nhận thực tế thư từ bị chặn, các đường dây điện thoại và điện tín bị theo dõi, cùng khả năng phòng lãnh sự bị nghe lén, nhưng ông không bao giờ tưởng tượng được một chính phủ trơ trẽn đến mức đặt máy nghe lén tại tư dinh của nhà ngoại giao. Tuy nhiên, ông xem chuyện này là nghiêm túc. Đến giờ này, ông đã chứng kiến đủ hành vi bất thường của Hitler và bè lũ tay sai, để hiểu rằng điều gì cũng có thể xảy ra. Martha nhớ lại ông cho đầy bông vào một cái hộp giấy bồi, và dùng nó che kín điện thoại của mình, bất cứ khi nào cuộc nói chuyện trong thư viện chuyển sang chủ đề tuyệt mật.
Thời gian dần trôi, gia đình Dodd thấy mình đối mặt với nỗi lo âu vô định hình, thấm nhuần vào ngày tháng của họ và dần dần thay đổi cách sống của họ. Sự thay đổi đến có vẻ chậm rãi, như một màn sương mù nhạt len lỏi qua từng kẽ nứt. Một thứ mà hầu như ai sống tại Berlin đều đã trải qua. Bạn bắt đầu nghĩ khác đi về người bạn hẹn đi ăn trưa, về nhà hàng hay quán cà phê bạn lựa chọn, vì đã lan truyền những lời đồn đại về các địa điểm trở thành mục tiêu ưa thích của đám mật vụ Gestapo - lấy ví dụ như quán bar tại Adlon. Bạn cứ lảng vảng ở các góc phố vài phút xem có phải những gương mặt bạn thấy ở góc phố trước đó, giờ lại xuất hiện ở góc phố này không. Ngay cả trong những hoàn cảnh tự nhiên nhất, bạn cũng trò chuyện rất thận trọng, để mắt đến những người xung quanh mình theo cách bạn chưa từng biết. Người Berlin đã thực hành cái sau này được gọi là “liếc mắt kiểu Đức” - quét mắt rất nhanh bốn phương tám hướng khi gặp một người bạn, hay người quen trên phố.
Cuộc sống trong gia đình Dodd ngày càng bớt tự phát hơn. Họ trở nên đặc biệt nghi ngờ lão quản gia Fritz, người có sở trường di chuyển không một tiếng động. Martha ngờ rằng ông ta đã nghe lén, khi cô tiếp bạn bè hoặc người tình trong nhà. Bất cứ khi nào ông ta xuất hiện giữa lúc cả nhà đang nói chuyện, tất cả lập tức ăn nói rời rạc đầu Ngô mình Sở, một phản ứng gần như tức thì.
Sau khi những ngày lễ và kì nghỉ cuối tuần đã rời xa, gia đình trở về nhà với nỗi âu lo trĩu nặng, trước khả năng trong khi họ vắng mặt, các thiết bị mới đã được lắp đặt, thay cho những cái cũ. “Người ta chẳng biết mô tả cái trò do thám này làm được cái quái gì cho loài người,” Martha viết. Nó triệt tiêu mọi cuộc chuyện trò theo thường lệ - “những buổi họp gia đình, sự tự do nói và hành động bị hạn chế, đến nỗi thậm chí chúng tôi chẳng còn chút gì giống một gia đình Mỹ bình thường. Cứ hễ lúc nào muốn mở miệng, chúng tôi đều phải tìm đến các xó nhà, đứng đằng sau cửa, cảnh giác với điện thoại và nói thì thầm.” Sự căng thẳng của tất cả những chuyện này ảnh hưởng nặng lên mẹ của Martha. “Theo thời gian, nỗi kinh hoàng ngày càng tăng,” Martha viết, “sự duyên dáng và lịch thiệp bà thể hiện với các quan chức Quốc xã bà buộc phải gặp gỡ, phải thù tiếp và ngồi bên cạnh, trở nên một gánh nặng căng thẳng, đến nỗi bà không thể chịu đựng nổi.”
Dần dần, Martha sử dụng các mật mã cổ xưa trong giao tiếp với bạn bè, một thông lệ đang ngày càng phổ biến khắp nước Đức. Bạn cô, Mildred sử dụng một mật mã cho những lá thư gửi về nhà, trong thư cô ta trau chuốt các câu mang nghĩa ngược lại với những gì bản thân các từ trong câu muốn ám chỉ. Cách thức này trở nên quen thuộc và cần thiết, khiến những kẻ ngoài cuộc không thể hiểu nổi. Một giáo sư người Mỹ là bạn của gia đình Dodd, Peter Olden, viết thư cho Dodd ngày 30 tháng 01 năm 1934, cho ông biết rằng mình đã nhận được một tin nhắn từ người anh rể tại Đức. Theo đó anh ta mô tả một mật mã anh ta định sử dụng trong tất cả thư từ, kể từ nay. Trong bất cứ bối cảnh nào, từ “mưa” sẽ mang nghĩa là anh ta phải vào sống trong trại tập trung. Từ “tuyết” sẽ mang nghĩa anh ta bị tra tấn. “Có vẻ cực kì khó tin,” Olden nói với Dodd. “Nếu ngài nghĩ rằng đây đích thị là một trò đùa quá đáng, tôi tự hỏi liệu ngài có thể làm thế trong lá thư gửi tôi.”
Câu trả lời thận trọng của Dodd là một nghiên cứu về việc cố tình bỏ sót, cho dù ý ông đã rõ ràng. Ông bắt đầu tin rằng ngay cả thư từ ngoại giao cũng bị các mật vụ Đức chặn và đọc trước. Một chủ đề ngày càng được quan tâm là số lượng nhân viên người Đức làm việc cho Lãnh sự quán và Đại sứ quán. Đặc biệt một viên thư kí đã khiến các quan chức Lãnh sự quán phải chú ý: Heinrich Rocholl, một nhân viên lâu năm từng giúp chuẩn bị các báo cáo cho Tùy viên Thương mại Mỹ, người có văn phòng nằm trên tầng một của Lãnh sự quán, trên phố Bellevuestrasse. Trong thời gian rảnh, Rocholl đã thành lập một tổ chức thân Quốc xã, mang tên Hội Cựu Sinh viên Đức tại Mỹ, cho phát hành một ấn bản của tờ Rundbriefe. Sau này, Rocholl bị phát hiện đang cố gắng “tìm hiểu nội dung các báo cáo tuyệt mật của Tùy viên Thương mại,” căn cứ theo một biên bản ghi nhớ mà Quyền Tổng Lãnh sự Geist gửi về Washington. “Hắn ta cũng nói chuyện nhiều lần với các nhân viên người Đức khác hỗ trợ công tác báo cáo, và tâm sự với họ rằng công việc của họ về mọi mặt phải phụng sự cho chế độ hiện tại.” Trong một ấn bản của tờ Rundbriefe, Geist phát hiện một bài viết “có những lời bóng gió chê bai ngài Đại sứ, cũng như ngài Messersmith.” Đối với Geist, đây là giọt nước tràn ly. Viện dẫn “hành động ngấm ngầm không trung thành với cấp trên” của viên thư kí, Geist sa thải hắn ta.
Dodd nhận ra rằng cách tốt nhất để có thể nói chuyện riêng thực sự với bất kì ai là gặp gỡ tại công viên Tiergarten khi đi dạo, như Dodd thường xuyên làm với người đồng cấp Anh của mình, Hiệp sĩ Eric Phipps. “Tôi sẽ đi dạo vào lúc 11 giờ 30 phút, trên đường Hermann-Göring-Strasse, dọc công viên Tiergarten,” một ngày Dodd nói với Phipps trong một cuộc gọi vào lúc mười giờ sáng. “Ngài có thể gặp tôi tại đó và nói chuyện một lúc chứ?” Và một dịp khác, Phipps gửi Dodd một mẩu giấy viết tay hỏi rằng, “Trưa mai, chúng ta có thể gặp nhau lúc 12 giờ được không, tại Siegesalle giữa công viên Tiergarten và đường Charlottenburger Chaussee, (đi từ đây) nó nằm bên phải?”
Dù các thiết bị nghe lén có thực sự được lắp đặt ở Đại sứ quán và ở nhà Dodd hay không, thực tế quan trọng nhất chính là họ nhìn nhận đang bị Quốc xã giám sát ở khắp nơi. Bất chấp cuộc sống ngày càng bị ảnh hưởng bởi trò theo dõi, họ tin mình nắm một lợi thế quan trọng, so với những người Đức cùng địa vị khác - họ sẽ không gặp phải thiệt hại nào. Tuy nhiên, vị thế ngoại giao của Martha không bảo vệ được bạn bè cô. Martha có lí do đặc biệt để lo lắng về bản chất của những người mình kết bạn.
Cô phải thực sự cẩn thận trong quan hệ với Boris - đại diện của một chính phủ bị Quốc xã mắng nhiếc, chửi rủa, không nghi ngờ gì nữa, anh chính là mục tiêu bị giám sát. Mildred cùng Arvid Harnack, cả hai người này ngày càng phản đối mạnh mẽ chế độ Quốc xã, và đang tiến hành những bước đầu tiên trong việc xây dựng một hội nhỏ cam kết phản đối thế lực Quốc xã. Martha viết trong hồi kí “Nếu nói chuyện phản đối Hitler với những người bạn đủ dũng cảm và liều lĩnh, tôi hẳn sẽ trải qua những đêm mất ngủ tự hỏi máy nghe lén hay điện thoại có ghi âm cuộc nói chuyện không, hay liệu họ có bị theo dõi không.”
Mùa đông năm 1933 - 1934, mối lo của cô biến thành nỗi sợ hãi “gần như hoảng loạn”, theo miêu tả của cô. Cô chưa bao giờ cảm thấy khiếp đảm đến như thế. Cô nằm trên giường mình, trong phòng riêng, cha mẹ đang ở trên gác, khách quan mà nói thì đang rất bình yên, vậy nhưng khi ánh đèn đường mờ mờ bên ngoài hắt những cái bóng đen qua trần nhà, cô thấy không thể ngăn mình khiếp sợ màn đêm.
Cô nghe thấy, hoặc tưởng tượng ra mình nghe thấy tiếng giày đế cứng lạo xạo trên đường xe vào nhà rải sỏi bên dưới, âm thanh ngập ngừng và ngắt quãng, như thể ai đó đang theo dõi phòng ngủ của cô. Vào ban ngày, nhiều ô cửa sổ trong phòng cô ngập tràn ánh sáng và sắc màu, nhưng ban đêm chúng chơi trò ảo thuật với tâm hồn dễ bị tổn thương. Ánh trăng hắt những cái bóng đen di động lên các bãi cỏ, lối đi bộ và bên trong hàng cột cao ở cổng vào. Có vài đêm, cô hình dung mình nghe thấy những tiếng nói chuyện thì thầm, cả những tiếng súng xa xa, cho dù vào ban ngày cô có thể xem những ám ảnh này chỉ do tiếng gió lùa qua lớp sỏi và tiếng nổ của động cơ.
Nhưng điều gì cũng có thể xảy ra. Cô viết, “Tôi thường xuyên cảm thấy khiếp sợ đến nỗi thi thoảng đánh thức mẹ dậy, rủ bà sang ngủ cùng tôi.”