Martha ngày càng gắn bó với Boris. Người tình nước Pháp của cô, Armand Berard thấy mặc cảm vì xuất thân nên rất đau khổ. Diels cũng rút lui, cho dù hắn ta vẫn là bạn đồng hành thường xuyên.
Đầu tháng Một, Boris thu xếp một cuộc hẹn với Martha, một trong những cuộc hẹn lãng mạn, lạ lùng nhất cô từng trải qua, cho dù cô không hề biết trước chuyện gì sẽ xảy ra, ngoài việc Boris van xin cô mặc trang phục anh yêu thích nhất - lụa vàng, hở vai, cổ áo xẻ sâu, eo thắt. Cô đeo thêm chuỗi hạt cẩm thạch và đóa hoa cài ngực mà Boris tặng.
Viên quản gia Fritz ra đón Boris ngoài cửa trước, nhưng ông ta chưa kịp thông báo rằng anh chàng người Nga đến, Boris đã chạy như bay lên cầu thang tới tầng một. Fritz đi theo. Đúng lúc ấy, Martha đang bước dọc theo sảnh đến cầu thang, như sau này cô viết trong hồi kí chi tiết về buổi tối hôm đó. Ngay khi vừa thấy cô, Boris quỳ một chân xuống.
“Ôi người tình của anh!” Anh nói bằng tiếng Anh. Rồi nói tiếp bằng tiếng Đức. “Trông em tuyệt lắm.”
Cô vui sướng và hơi ngượng ngập, Fritz cười toe toét. Boris dẫn cô ra chỗ xe Ford - ơn trời đã kéo mui xe khỏi lo lạnh - đưa cả hai đến nhà hàng Horcher trên đường Lutherstrasse, cách công viên Tiergarten vài khu phố về phía nam. Đây là một trong những nhà hàng ngon nhất Berlin, chuyên món thịt thú săn, có người cho rằng đây là quán ăn ưa thích của Göring. Trong một truyện ngắn năm 1929 của nhà văn nổi tiếng Gina Kaus89, nhà hàng này được xem là một nơi phải đến nếu bạn muốn tìm kiếm sự cám dỗ. Bạn có thể ngồi trên một trong những chiếc ghế dài bọc nệm và sẽ ngồi chung bàn với Göring, rạng rỡ trong bộ đồng phục dành riêng cho dịp này. Lần khác, bạn có thể ngồi cạnh các nhà văn, nghệ sĩ, nhạc sĩ, các nhà tài phiệt Do Thái nổi tiếng và các khoa học gia, nhưng vào thời điểm này nhiều người đã bỏ trốn, hoặc bất ngờ lâm vào hoàn cảnh không cho phép hưởng những đêm trác táng trong thành phố. Tuy nhiên, nhà hàng vẫn tồn tại, dường như chẳng để tâm đến bất kì điều gì làm thay đổi thế giới bên ngoài.
89 Gina Kaus (1893 - 1985): nhà văn, nhà viết kịch bản nổi tiếng người Mỹ gốc Áo.
Boris đã đặt trước một phòng riêng, nơi anh cùng Martha tha hồ thưởng thức cá hồi hun khói, trứng cá muối, súp rùa và thịt gà, theo phong cách sẽ được biết đến với cái tên “Kievsky”. Món tráng miệng là kem Bavaria tẩm rượu brandy. Hai người uống sâm banh và vodka. Mặc dù rượu ngon, đồ ăn hợp khẩu vị, khung cảnh sang trọng, nhưng Martha vẫn bối rối. “Tất cả chuyện này là sao, Boris?” Cô hỏi anh. “Chúng ta đang kỉ niệm điều gì vậy?”
Anh chỉ mỉm cười thay lời đáp. Sau bữa tối, họ đi về phía bắc, rẽ vào phố Tiergartenstrasse như thể quay về nhà Dodd, nhưng thay vì dừng xe, Boris lái tiếp. Họ thong dong đi qua rìa công viên cây cối um tùm, tối om, cho đến khi tới Cổng Brandenburg và đường Unter den Linden, dài sáu mươi mét, đông nghẹt ô tô, với những ánh đèn pha biến cung đường này thành dải kênh đào bạch kim. Cách cổng một khu phố về phía đông, Boris tấp xe vào lề đường tại Đại sứ quán Xô Viết, số 7 đường Unter den Linden. Anh dẫn Martha vào trong tòa nhà, đi dọc theo vài hành lang, lên cầu thang rồi đứng trước một cánh cửa không có biển hiệu.
Anh mỉm cười đưa tay mở cửa, bước vào phòng, nhường lối cho Martha vào theo. Anh bật một ngọn đèn bàn, thắp lên hai ngọn nến đỏ. Ban đầu, căn phòng gợi cô nhớ đến kí túc xá sinh viên, cho dù Boris đã làm hết những gì có thể nhằm tạo sự khác biệt. Cô thấy có một cái ghế lưng thẳng, hai ghế bành và một chiếc giường. Trên gối là tấm vải thêu mà anh cho là có xuất xứ từ Caucasus. Một ấm pha trà samovar nằm trên chiếc bàn gần cửa sổ.
Trong một góc phòng, trên giá sách, Martha thấy bộ sưu tập các bức ảnh Vladimir Lenin90, nổi bật ở giữa là bức chân dung khổ lớn của ông với phong thái cô chưa từng thấy, như một người bạn bất ngờ bị chụp trộm, thay vì hình ảnh Lenin với nét mặt nghiêm khắc như phía Xô Viết tuyên truyền. Ở đây, còn có mấy cuốn sách nhỏ bằng tiếng Nga, một cuốn mang tựa đề rất tế nhị Boris dịch ra là “Các đội Thanh tra Công Nông”. Boris xem đây như “góc Lenin” của anh, cũng mang chất Xô Viết không kém là những hình ảnh tôn giáo mà theo truyền thống, người Nga theo Chính thống giáo91 hay treo cao trong góc phòng. “Như em có thể đã đọc trong các tiểu thuyết tiếng Nga yêu thích, đồng bào của anh từng có và vẫn có những góc biểu tượng,” anh nói. “Nhưng anh là một người Nga hiện đại, một nhà cộng sản!”
90 Vladimir Lenin (1870 - 1924): lãnh tụ của Liên bang Xô Viết.
91 Chính thống giáo Đông phương: một nhánh của Thiên Chúa giáo, phổ biến ở các nước Đông Âu và Nga.
Ở một góc phòng khác, cô phát hiện một ‘‘điện thờ’’ thứ hai, nhưng lại thấy chính mình ở vị trí trung tâm. Boris gọi đây là “góc Martha” của anh. Một bức ảnh chụp cô đứng trên chiếc bàn nhỏ, đang nhảy điệu shimmy, trong ánh lửa đỏ bập bùng từ những ngọn nến của Boris. Xếp xung quanh là vài tấm ảnh và thư từ của cô. Với vai trò nhiếp ảnh gia nghiệp dư nhiệt tình, anh đã chụp rất nhiều ảnh, trong thời gian hai người du lịch vòng quanh Berlin. Có cả quà lưu niệm - một chiếc khăn tay bằng vải lanh cô tặng anh, một cành cây bạc hà từ chuyến dã ngoại của họ tháng Chín năm 1933, giờ đây tuy đã héo khô nhưng vẫn tỏa ra mùi hương phảng phất. Thêm vào đó là bức tượng nữ tu chạm khảm bằng gỗ cô tặng, để đáp lễ bức tượng ba con khỉ “không thấy điều xấu” của anh - có khác chăng là Boris đã trang điểm cho nữ tu với một vầng hào quang nhỏ làm bằng sợi vàng mỏng manh.
Gần đây, ở ‘‘điện thờ’’ Martha xuất hiện thêm mấy quả thông và cành cây thường xuân mới cắt, làm khắp phòng sực nức hương rừng dễ chịu. Anh bảo những bổ sung này mang ý nghĩa tình yêu anh dành cho cô “mãi mãi xanh tươi”.
“Chúa ơi, Boris,” cô phá lên cười, “anh lãng mạn quá đi thôi! Việc này có hợp với một nhà cộng sản cứng rắn như anh không?”
Đứng cạnh bức ảnh Lenin, anh đáp, “Anh yêu em nhất trên đời.” Anh hôn lên bờ vai trần của cô, rồi bỗng trở nên nghiêm túc. “Nhưng đề phòng em chưa hiểu,” anh nói, “thì đảng của anh và đất nước anh phải luôn là trên hết.”
Cú chuyển đổi bất ngờ biểu hiện trên nét mặt anh - một lần nữa làm Martha phá lên cười. Cô nói với Boris mình đã hiểu. “Cha em nghĩ về Thomas Jefferson gần giống anh nghĩ về Lenin,” cô đáp.
Đang chìm trong bầu không khí ấm áp, thì cánh cửa bất chợt lặng lẽ bật mở, bước vào là một cô bé tóc vàng mà Martha đoán khoảng chín tuổi. Cô biết ngay đây là con gái của Boris. Đôi mắt nó giống hệt cha - “đôi mắt long lanh tuyệt đẹp,” Martha viết - cho dù có nhiều nét nó dường như khác cha hoàn toàn. Gương mặt cô bé mộc mạc, không có vẻ ngộ nghĩnh rõ mồn một của cha. Trông nó có vẻ buồn. Boris đứng dậy, đến bên con gái.
“Sao trong này tối thế ạ?” Cô bé hỏi. “Con không thích thế.”
Nó nói bằng tiếng Nga, Boris dịch lại. Martha đoán con bé biết tiếng Đức, vì hiện nó đang học tại Berlin. Lúc này, nó đang nói tiếng Nga với giọng hờn dỗi.
Boris bật sáng một ngọn đèn trên đầu, bóng đèn trần. Quầng sáng nhức mắt của ngọn đèn ngay lập tức xua tan không khí lãng mạn anh đã cố tạo nên, bằng nến và những điện thờ. Anh bảo con bé bắt tay Martha, nó làm theo dù rõ ràng là miễn cưỡng. Martha cảm nhận được sự khó chịu thù địch dễ hiểu của nó.
Con bé hỏi cô bằng tiếng Nga, “Tại sao cô mặc đẹp thế ạ?” Boris giải thích đây chính là cô Martha anh từng kể. Anh nói, cô ấy ăn diện đẹp vì đây là lần đầu tiên đến thăm Đại sứ quán Xô Viết, nên đây là một dịp đặc biệt.
Cô bé khen ngợi Martha. Một nụ cười thoáng hiện trên môi. “Cô ấy rất xinh,” cô bé nói. “Nhưng cô ấy gầy quá.”
Boris bảo thực ra Martha rất khỏe mạnh.
Anh xem đồng hồ, đã gần mười giờ. Anh ngồi xuống ôm con gái vào lòng, kéo vào gần hơn, nhẹ nhàng lùa tay qua tóc con bé. Anh cùng Martha tán chuyện linh tinh, trong khi con bé nhìn cô chằm chằm. Một lúc sau, Boris ngừng vuốt tóc con gái và ôm chầm lấy cô bé, dấu hiệu cho thấy đã đến giờ đi ngủ. Con bé nhún gối cúi chào, nói bằng thứ tiếng Đức nhã nhặn và miễn cưỡng, “Hẹn gặp lại, cô Martha.”92
92 Nguyên văn: “Auf Wiedersehen, Fräulein Marta.”
Boris nắm tay con gái, dắt ra khỏi phòng.
Còn lại một mình, Martha xem xét kĩ hơn không gian của anh và tiếp tục quan sát, ngay cả sau khi anh quay lại. Thi thoảng cô liếc nhìn về phía anh.
“Lenin cũng chỉ là con người thôi,” anh nói, mỉm cười. “Ông ấy hẳn sẽ hiểu được góc dành riêng cho em.”
Họ nằm trên giường ôm nhau. Anh kể cô nghe về cuộc đời mình - cha anh đã bỏ rơi gia đình như thế nào, ở tuổi mười sáu, anh gia nhập Hồng Vệ binh ra sao. “Anh muốn con gái anh được hưởng cuộc sống dễ chịu hơn,” anh nói. Anh cũng muốn điều tương tự cho đất nước mình. “Bọn anh chẳng có gì ngoài chuyên chế, chiến tranh, cách mạng, khủng bố, nội chiến và đói khát. Nếu không bị tấn công nữa, bọn anh sẽ có cơ hội xây dựng điều gì đó mới mẻ và duy nhất trong lịch sử loài người. Em hiểu không?”
Đôi lúc, những giọt lệ lăn dài trên má khi anh kể. Giờ đây cô đã quen với việc đó. Anh kể cô nghe những giấc mơ của anh về tương lai.
“Rồi anh ấy ôm tôi sát hơn vào người,” cô viết. “Từ dưới xương đòn xuống đến rốn, có lớp lông màu mật ong che phủ, mềm mại như tơ... Nói thật, với tôi chúng tuyệt đẹp, cho tôi một cảm giác ấm áp, dễ chịu và gần gũi.”
Khi thời gian buối tối dần trôi, anh pha trà rót vào cái chén truyền thống, trong suốt có khung kim loại.
“Giờ thì em yêu của anh,” anh nói, “còn vài tiếng cuối, em hãy cùng tận hưởng chút hương vị của buổi tối nước Nga đi.”
Sau này cô viết, “Làm sao tôi có thể nói với anh ấy rằng đó là một trong những buổi tối lạ lùng nhất tôi từng trải qua?” Một linh tính nào đó khiến cô không vui. Cô tự hỏi phải chăng vì gắn bó với cô - dành hẳn một góc Martha riêng trong Đại sứ quán, dám đưa cô đến với không gian riêng tư của mình - mà Boris đã bước qua giới hạn ngầm. Cô cảm nhận được “con mắt hiểm ác” nào đó đang theo dõi. Cô nhớ lại, “Cảm giác như thể cơn gió độc len lỏi vào phòng.”
Đêm muộn hôm ấy, Boris lái xe đưa cô về nhà.