Nỗi mong chờ ngày nghỉ phép sắp tới trong vui vẻ của Dodd bị phủ bóng đen bởi hai yêu cầu bất ngờ. Yêu cầu đầu tiên đến vào thứ Hai, ngày 05 tháng 03 năm 1934, khi ông được triệu tập đến văn phòng Ngoại trưởng Neurath, người đã giận dữ đòi hỏi ông phải làm gì đó ngăn chặn phiên tòa chế nhạo Hitler sẽ diễn ra hai ngày sau đó, tại sân vận động Madison Square Garden ở New York. Phiên xử do Hội Người Mỹ gốc Do Thái tổ chức, với sự hỗ trợ của Liên đoàn Lao động Mỹ và hơn hai mươi tổ chức Do Thái chống Quốc xã khác. Kế hoạch này khiến Hitler phẫn nộ, đến mức hắn ra lệnh cho Neurath cùng các nhà ngoại giao tại Berlin và Washington phải chặn nó lại.
Hậu quả là một chuỗi những phản đối chính thức, những hồi âm và biên bản ghi nhớ hé lộ cả sự nhạy cảm của nước Đức đối với ý kiến từ bên ngoài, và những chặng đường dài các quan chức Mỹ buộc phải đi, nếu không muốn nhận chỉ trích trực tiếp của Hitler và đảng của hắn. Mức độ khống chế hẳn sẽ rất tức cười nếu cái giá phải trả không cao đến thế, làm dấy lên một câu hỏi: tại sao Bộ Ngoại giao và Tổng thống Roosevelt lại quá ngần ngừ không dám nói thẳng những gì họ cảm thấy về Hitler, vào thời điểm rõ ràng những gì họ nói ra có thể giáng đòn mạnh mẽ vào uy tín của hắn trên thế giới?
Đại sứ quán tại Washington ban đầu có nghe phong thanh về phiên tòa chế nhạo vài tuần trước, từ tháng Hai, thông qua những thông tin quảng cáo trên tờ New York Times. Đại sứ Đức tại Mỹ, Hans Luther nhanh chóng khiếu nại lên Ngoại trưởng Hull, người đã thận trọng trả lời, “Tôi xin nói rõ mình rất lấy làm tiếc khi thấy những khác biệt phát sinh giữa người dân ở nước ngài và nước tôi. Tôi sẽ chú ý tới vấn đề này một cách thích đáng nhất có thể và toàn diện nhất về mọi khía cạnh.”
Ngày 01 tháng 03 năm 1934, nhân vật số hai của Đại sứ quán Đức, Rudolf Leitner, đã có buổi gặp gỡ một quan chức Bộ Ngoại giao tên là John Hickerson, thúc giục ông ta “hãy làm gì đó ngăn chặn phiên tòa này vì ảnh hưởng đáng tiếc của nó lên dư luận Đức, nếu nó được diễn ra.” Đáp lại, Hickerson cho biết, “vì hiến pháp của chúng tôi bảo đảm quyền tự do ngôn luận”, nên Chính phủ Liên bang không thể làm được gì.
Leitner thấy điều này rất khó hiểu. Ông ta nói với Hickerson, “rằng nếu đổi lại là ở Đức thì Chính phủ Đức chắc chắn sẽ tìm ra cách ‘chặn đứng một phiên tòa như thế’. “
Hickerson không nghi ngờ gì chuyện này. “Tôi đã trả lời,” Hickerson viết, “rằng tôi hiểu rõ Chính phủ Đức không bị giới hạn hành động có thể thực hiện, như Chính phủ Mỹ, đối với những vấn đề như thế.”
Hôm sau, thứ Sáu, ngày 02 tháng 02, Đại sứ Luther có cuộc gặp gỡ thứ hai với Ngoại trưởng Hull để phản đối phiên tòa.
Bản thân Hull hẳn cũng mong muốn phiên tòa chế nhạo này đừng có diễn ra. Nó làm phức tạp nhiều thứ và có nguy cơ khiến Đức càng không muốn trả những khoản nợ. Cùng lúc đó, ông cũng không ưa gì chế độ Quốc xã. Cho dù ông tránh đưa ra bất kì tuyên bố chỉ trích thẳng thắn nào, nhưng ông cảm thấy khoan khoái phần nào khi thông báo tới viên đại sứ Đức rằng, những người được chọn lên tiếng tại phiên tòa “đều không hề chịu sự kiểm soát của Chính phủ Liên bang,” và do đó Bộ Ngoại giao không có thẩm quyền can thiệp.
Chính lúc này, Ngoại trưởng Neurath triệu tập Dodd đến văn phòng. Neurath bắt ông phải đợi mười phút, Dodd “nhận ra điều đó và phẫn nộ”. Sự trì hoãn này nhắc ông nhớ đến lần mất mặt của Neurath tháng Mười năm ngoái, sau bài diễn văn Ngày Columbus về Gracchus và Caesar.
Neurath trao cho ông một bản tóm tắt - thông báo viết tay của một nhà ngoại giao gửi cho một nhà ngoại giao khác, cách thức đặc trưng đối với một vấn đề nghiêm trọng, vì sợ nói miệng có thể làm xuyên tạc thông điệp muốn truyền tải. Bất ngờ là thông báo này đầy lời lẽ hăm dọa và không đúng mực. Gọi phiên tòa chế nhạo sắp diễn ra là “trò diễn hiểm độc”, trích dẫn những “màn sỉ nhục” tương tự từng diễn ra tại Mỹ suốt năm ngoái, được mô tả là “có sức phá hủy ngang với can thiệp trực tiếp vào chuyện nội bộ của nước khác”. Tài liệu cũng công kích phong trào tẩy chay hàng hóa Đức của người Mỹ gốc Do Thái do hội của họ xúc tiến. Xoáy vào nỗi sợ hãi Đức bùng nợ trái phiếu của Mỹ, tài liệu cho rằng trò tẩy chay đã làm giảm cán cân thanh toán của Đức với Mỹ, đến mức “các công ty Đức chỉ có thể hoàn thành một phần trách nhiệm trả nợ Mỹ.”
Cuối thông báo, Neurath cam đoan chỉ vì phiên tòa chế nhạo này, “mà sẽ cực khó đảm bảo duy trì được các quan hệ hữu nghị, chân thành mà cả hai chính phủ mong muốn.”
Đọc xong thông báo, Dodd từ tốn giải thích rằng tại Mỹ, “người ta không thể đàn áp buổi mít tinh riêng tư hoặc công khai”, một vấn đề mà nước Đức dường như không hiểu nổi. Dodd cũng gợi ý Đức đã tự gây rắc rối cho các mối quan hệ công chúng này. “Tôi nhắc Bộ trưởng nhớ rằng còn nhiều chuyện xảy ra ở đây cũng khiến dư luận nước ngoài sốc đấy.”
Sau cuộc gặp, Dodd đánh điện tín cho Ngoại trưởng Hull, cho biết phiên tòa chế nhạo “đã gây ấn tượng rất mạnh” đối với Chính phủ Đức. Dodd ra lệnh nhân viên của ông chuyển dịch bản tóm tắt của Neurath rồi mới được gửi cho Hull, theo đường thư tín.
Vào buổi sáng trước ngày có phiên tòa chế nhạo, Đại sứ Đức Luther lại cố gắng ngăn chặn nó. Lần này, ông ta kêu gọi Thứ trưởng Ngoại giao William Phillips, người cũng bảo ông ta rằng ông chẳng làm được gì. Luther đòi hỏi Bộ Ngoại giao phải tuyên bố ngay lập tức “không được nói bất kì điều gì đại diện cho quan điểm của Chính phủ tại cuộc mít tinh”.
Ngay cả điều này, Phillips cũng ngần ngừ. Ông giải thích mình không có thời gian chuẩn bị báo cáo và nói thêm rằng sẽ là không thích hợp, khi một ngoại trưởng cố gắng dự đoán người ta sẽ nói hoặc không nói cái gì tại phiên tòa.
Luther nỗ lực lần cuối cùng, đề nghị Bộ Ngoại giao ít nhất cũng phải tuyên bố không thừa nhận, vào buổi sáng sau khi diễn ra phiên tòa.
Phillips nói rằng ông ta không thể cam kết với Bộ Ngoại giao, nhưng sẽ “cân nhắc vấn đề này”.
Phiên xử diễn ra theo kế hoạch, với sự bảo vệ của 320 cảnh sát Thành phố New York mặc đồng phục. Bên trong sân vận động Mad- ison Square Garden, bốn mươi thám tử mặc thường phục trà trộn vào khoảng hai mươi ngàn người tham dự. Hai mươi “nhân chứng” tham dự phiên tòa bao gồm Rabbi Stephen Wise, Thị trưởng Thành phố New York Fiorello La Guardia và Cựu Ngoại trưởng Bainbridge Colby, người phát biểu khai mạc phiên tòa. Tòa phán Hitler có tội: “Chúng tôi tuyên bố chính quyền Hitler đang ép người dân Đức rời bỏ nền văn minh, quay về thời đại chuyên chế cổ hủ, tàn bạo, cản trở bước tiến của nhân loại đến hòa bình và tự do, và hiện là mối đe dọa đối với cuộc sống văn minh trên toàn thế giới.”
Tại một cuộc họp báo ngày hôm sau, Phillips tuyên bố rằng ông “không có nhận xét gì, ngoài việc nhấn mạnh lại tính chất riêng tư của cuộc mít tinh, rằng không có thành viên nào của Chính phủ có mặt.”
Phillips cùng các quan chức hướng sự chú ý vào những vấn đề khác. Tuy nhiên, một điều rõ ràng là Đức sẽ không chịu để yên như thế.
Nhiệm vụ khó chịu thứ hai Dodd phải hoàn thành trước khi về nước là gặp gỡ Hitler. Ông đã nhận được lệnh của Ngoại trưởng Hull chuyển đến ngài Thủ tướng một thông điệp, rằng nước Mỹ thấy bất an trước sự bùng nổ thông tin tuyên truyền của Quốc xã mới đây trong lòng nước Mỹ. Putzi Hanfstaengl đã thu xếp cuộc gặp, sẽ là riêng tư và bí mật - chỉ bao gồm Hitler và Dodd. Thế là, vào thứ Tư, ngày 07 tháng 03, ngay trước một giờ chiều, Dodd một lần nữa thấy mình trong dinh Thủ tướng Đế chế, đang tiến đến văn phòng của Hitler, đi qua đội ngũ lính gác, như thường lệ đang giậm chân và chào mừng.
Đầu tiên, Dodd hỏi Hitler liệu hắn có thông điệp cá nhân nào gửi Tổng thống Roosevelt không, để Dodd có thể đưa trực tiếp cho Tổng thống, khi gặp nhau tại Washington.
Hitler ngập ngừng. Hắn nhìn Dodd một lúc.
“Tôi rất biết ơn ngài,” hắn nói, “nhưng việc này khiến tôi ngạc nhiên, nên muốn ngài cho tôi thêm thời gian cân nhắc, sẽ nói cho ngài biết sau.”
Dodd và Hitler tán chuyện trên trời dưới đất một lúc nữa, trước khi Dodd chuyển sang vấn đề trước mắt - “thông tin tuyên truyền đáng tiếc bị tung ra tại Mỹ”, như Dodd tường thuật trong một biên bản ghi nhớ ông soạn, sau buổi gặp gỡ này.
Hitler “giả vờ ngạc nhiên”, Dodd viết, sau đó đề nghị cung cấp thông tin chi tiết.
Dodd nói, mười ngày trước, một cuốn sách mỏng của Quốc xã bắt đầu được lan truyền tại Mỹ, nội dung được Dodd mô tả là “yêu cầu người Đức tại các nước khác hãy luôn nghĩ mình là người Đức và bày tỏ lòng trung thành về mặt đạo đức, thậm chí về chính trị, với tổ quốc.” Dodd so sánh điều này với thông tin tuyên truyền tương tự được truyền bá tại Mỹ năm 1913, ngay trước khi Mỹ tham gia Thế Chiến I.
Hitler nổi xung. “Ôi chà,” hắn ngắt lời, “tất cả đều do lũ Do Thái dối trá, nếu tôi tìm ra được kẻ nào làm điều đó, tôi sẽ tống cổ hắn ra khỏi đất nước ngay lập tức.”
Sau đó, cuộc đối thoại chuyển sang thảo luận về “chủ đề Do Thái” rộng hơn và hiểm hóc hơn. Hitler chỉ trích tất cả dân Do Thái, đổ lỗi cho họ gây ra bất kì ác cảm nào phát sinh trong lòng nước Mỹ, khi nghĩ về nước Đức. Hắn trở nên cuồng nộ và thốt lên, “Lũ Do Thái khốn kiếp!”
Thấy cơn giận của Hitler, Dodd nghĩ biết khôn thì không nên đụng tới vấn đề phiên tòa chế nhạo sẽ diễn ra cuối ngày hôm đó, theo giờ New York. Hitler cũng không nói về nó.
Thay vào đó, Dodd chuyển sang chuyện giải quyết tình hình Do Thái theo hướng hòa bình và nhân đạo. “Ngài biết rằng các nước khác cũng gặp phải vấn đề Do Thái,” Dodd nói. Tiếp theo ông mô tả làm sao Bộ Ngoại giao dành sự khuyến khích không chính thức cho một tổ chức mới do Hội Quốc Liên thành lập, dưới sự chỉ đạo của James G. McDonald, tân Cao ủy người tị nạn mới được bổ nhiệm tại Đức, với nhiệm vụ tái định cư cho người Do Thái như Dodd nói rõ, “mà không cần phải quá khổ sở”.
Hitler bác bỏ ngay lập tức. Hắn nói nỗ lực này sẽ thất bại, không cần biết đã huy động được bao nhiêu tiền. Hắn nói dân Do Thái sẽ biến nó thành vũ khí để “tấn công Đức và gây ra rắc rối không ngừng”.
Dodd phản đối cách tiếp cận vấn đề này của Đức hiện nay, cho rằng nó đang khiến hình ảnh Đức tại Mỹ gặp tổn hại to lớn. Thật lạ lùng, Dodd lúc này đang cố gắng tìm kiếm một điểm trung hòa với tên độc tài. Ông nói, “Ngài biết một số vị trí quan trọng ở đất nước chúng tôi hiện tại do người Do Thái nắm giữ, cả ở New York và Illinois.” Ông kể tên vài “người Do Thái công bằng, vô tư nổi bật”, bao gồm Henry Morgenthau Jr, Tân Bộ trưởng Ngân khố của Tổng thống Roosevelt, kể từ tháng Một. Dodd giải thích, “trong khi vấn đề hoạt động thái quá của người Do Thái ở các trường đại học, hoặc trong đời sống viên chức gây rắc rối, chúng tôi cố gắng tái phân phối các văn phòng sao cho không gây ra sự bực mình, rằng những người Do Thái giàu có vẫn tiếp tục ủng hộ các tổ chức hạn chế số lượng người Do Thái nắm giữ vị trí quan trọng.” Dodd trích ra một ví dụ tại Chicago rồi nói thêm, “Người Do Thái ở Illinois chẳng gây ra vấn đề gì nghiêm trọng cả.”
Trong biên bản ghi nhớ, Dodd giải thích, “Ý tưởng của tôi là gợi ý một quy trình khác với quy trình được tuân thủ ở đây - dĩ nhiên không bao giờ đưa ra lời khuyên thẳng thắn.”
Hitler phản pháo, “59% tất cả văn phòng tại Nga do bọn Do Thái nắm giữ, chúng đã phá hủy đất nước đó và chúng có ý định hủy hoại nước Đức.” Phẫn nộ hơn bao giờ hết, Hitler thốt lên, “Nếu chúng còn tiếp tục hoạt động, chúng tôi sẽ xóa sổ tất cả bọn chúng trên toàn đất nước này.”
Đó là một khoảnh khắc lạ lùng. Đây là Dodd, một người ủng hộ Jefferson khiêm nhường, theo trường phái xem các chính khách như những người sáng suốt, ngồi trước mặt nhà lãnh đạo của một trong những quốc gia vĩ đại của châu Âu, khi nhà lãnh đạo ấy đang ngày càng gần như cuồng loạn và đe dọa hủy diệt một phần lớn dân số của chính mình. Đây là một trải nghiệm lạ lùng, cực kì quái dị đối với ông.
Dodd bình tĩnh chuyển chủ đề đối thoại quay về nhận thức của người Mỹ, ông cho biết “rằng dư luận Mỹ tin chắc người Đức, nếu không muốn nói là Chính phủ Đức là những kẻ quân phiệt, những kẻ thực sự thích chiến tranh” và rằng “hầu hết người dân Mỹ có cảm giác ngày nào đó Đức sẽ muốn gây chiến tranh.” Dodd hỏi, “Chuyện này có cơ sở không?”
“Tuyệt đối chẳng có cơ sở nào,” Hitler đáp. Cơn giận của hắn dường như đã nguôi. “Nước Đức muốn hòa bình và sẽ làm tất cả trong quyền hạn của mình để gìn giữ hòa bình, nhưng Đức đòi hỏi phải được hưởng quyền hạn bình đẳng về vấn đề vũ trang.”
Dodd cảnh cáo rằng Tổng thống Roosevelt cực kì chú trọng đến các ranh giới quốc gia hiện có.
Về chuyện này, Hitler nói thái độ của Roosevelt giống hắn, và vì điều đó hắn thừa nhận “rất biết ơn”.
Tốt rồi, Dodd hỏi liệu Đức có cân nhắc tham gia một hội nghị giải trừ vũ trang quốc tế mới không?
Hitler xua tay gạt bỏ câu hỏi, một lần nữa công kích người Do Thái. Hắn buộc tội chính chúng hô hào quan điểm rằng nước Đức muốn chiến tranh.
Dodd đưa hắn về đúng hướng. Ông hỏi Hitler có tán thành hai điểm: rằng “không quốc gia nào được xâm phạm biên giới nước khác, và rằng tất cả các quốc gia châu Âu đều đồng ý với một ủy ban giám sát và tuân thủ quy định của cơ quan đó?”
Có, Hitler đáp, Dodd quan sát, hắn nói câu đó thật sự “chân thành”.
Sau này, miêu tả Hitler trong nhật kí của Dodd có đoạn, “Hắn là người có đầu óc lãng mạn và chỉ biết nửa vời các sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử vĩ đại của Đức.” Hắn ta là loại người có bản chất “gần như tội phạm”. “Có vài dịp, nhất định hắn đã nói rằng người ta sinh tồn nhờ chiến tranh và chết đi do hậu quả của những chính sách thời bình. Ảnh hưởng của hắn trước nay toàn mang tư tưởng hằn thù.”
Vậy thì điều này làm sao kết hợp được với nhiều tuyên bố về ý định hòa bình của Hitler? Nếu là trước kia, Dodd từng tin rằng Hitler “cực kì chân thành” muốn có hòa bình. Tuy nhiên, giờ đây, như Messersmith từng nhận ra, ngài đại sứ đã hiểu mục đích thật sự của Hitler là muốn tranh thủ thời gian, cho phép Đức tiến hành tái vũ trang. Hitler muốn hòa bình chẳng qua chỉ nhằm chuẩn bị cho chiến tranh. “Trong đầu óc hắn,” Dodd viết, “là ý tưởng của nước Đức cũ, hòng thống trị châu Âu thông qua chiến tranh.”
Dodd bắt tay chuẩn bị cho chuyến đi của mình. Cho dù sẽ đi vắng trong hai tháng, nhưng ông muốn vợ mình, Martha và Bill ở lại Berlin. Ông sẽ nhớ họ, nhưng ông háo hức lên tàu thẳng tiến về Mỹ và trang trại của ông. Kém vui vẻ hơn là viễn cảnh những cuộc họp ông phải tham dự tại Bộ Ngoại giao, ngay sau khi về nước. Ông có dự định nhân cơ hội này tiếp tục chiến dịch cải tổ ngành Ngoại giao theo chủ nghĩa quân bình hơn, bằng cách đối đầu trực tiếp với các thành viên của câu lạc bộ Pretty Good.
Thứ trưởng Phillips, Moffat, Carr và một trợ lí ngoại trưởng đang ngày càng có nhiều ảnh hưởng, Sumner Welles, cũng từng tốt nghiệp Harvard và là bạn tâm giao của Tổng thống Roosevelt (thực ra là người giúp tổ chức đám cưới của Roosevelt năm 1905), từng là nhân tố thiết kế chính sách Hàng xóm Tốt của Tổng thống. Dodd hẳn sẽ thích quay về Mỹ mang theo bằng chứng xác đáng rằng sự tiếp cận với ngành ngoại giao - cách ông giải thích cho nhiệm vụ đại diện cho các giá trị Mỹ mà Tổng thống Roosevelt giao phó - đã có ảnh hưởng khiêm nhường lên chế độ của Hitler. Nhưng tất cả những gì ông thu được cho đến giờ là sự ghê tởm đối với Hitler cùng bè lũ dưới quyền hắn, và nỗi u sầu vì nước Đức trong kí ức của ông đã không còn.
Tuy nhiên, ngay trước khi lên đường, một tia sáng lấp lánh khiến con tim ông như muốn hát lên, cho thấy những nỗ lực của ông đã được đền đáp. Ngày 12 tháng 03, một quan chức của văn phòng ngoại giao Đức, Hans-Heinrich Dieckhoff, đã tuyên bố tại một cuộc họp của câu lạc bộ Báo chí Đức rằng, kể từ nay trở đi, Đức sẽ yêu cầu trước khi bắt giữ bất kì ai, sẽ phải có lệnh bắt, rằng nhà tù Columbia House khét tiếng sẽ bị đóng cửa. Dodd tin rằng cá nhân ông có liên quan nhiều đến mệnh lệnh này.
Hẳn ông sẽ bớt vui đi một chút nếu biết phản ứng kín đáo của Hitler đối với cuộc gặp cuối cùng giữa họ, được Putzi Hanfstaengl ghi lại. “Dodd chẳng tạo được ấn tượng gì hết,” Hanfstaengl viết. “Hitler gần như xem thường ông ta.” Sau cuộc gặp, Hitler đã nói, “Cái lão Dodd ấy mà. Hắn chẳng nói được câu tiếng Đức nào, chẳng hiểu hắn nói cái quái gì hết.”
Quay lại Washington, điều này rất phù hợp với phản ứng của Jay Pierrepont Moffat. Trong nhật kí, Moffat viết, “Đại sứ Dodd, hoàn toàn không được chỉ dẫn đã vội thảo luận với Hitler ý tưởng chính sách không xâm lược của Tổng thống, và hỏi thẳng liệu hắn có tham dự hội nghị quốc tế để thảo luận chuyện này không. Chuyện ngài Đại sứ lấy đâu ra cái ý tưởng chúng tôi muốn tổ chức một hội nghị quốc tế vẫn là điều bí ẩn.”
Với sự bực bội rõ ràng, Moffat viết, “Tôi thấy mừng khi ông ta sắp về nước nghỉ phép.”
Đêm trước khi khởi hành, Dodd về phòng ngủ của mình thì thấy Fritz, viên quản gia, đang gói ghém vali của ông. Dodd thấy bực mình. Ông không tin tưởng Fritz, nhưng đó không phải là vấn đề ở đây. Trái lại, chính những nỗ lực của Fritz đã bào mòn những bản năng Jefferson của chính ông. Dodd viết trong nhật kí, “Tôi không nghĩ một người đàn ông tự gói ghém hành lí lại là điều sỉ nhục.”
Thứ Ba, ngày 13 tháng 03, ông cùng gia đình lái xe đến Hamburg, cách Berlin 290 cây số về phía tây bắc, nơi ông tạm biệt mọi người và bước vào khoang của ông trên tàu SS Manhattan của Hãng Vận chuyển United State Lines.
Khi Dodd hạnh phúc được lênh đênh trên biển, cơn giận của Chính phủ Đức về phiên tòa chế nhạo một lần nữa bùng lên. Dường như Đệ tam Đế chế chỉ đơn giản là không thể để yên chuyện này.
Vào ngày Dodd ra khơi, tròn sáu ngày sau phiên tòa, Đại sứ Luther tại Washington một lần nữa gọi cho Ngoại trưởng Hull. Theo như Hull tường thuật, Luther đã phản đối “những hành động xúc phạm và sỉ nhục của người dân một nước chống lại Chính phủ, cùng các quan chức của một nước khác.”
Đến lúc này, Hull đã mất kiên nhẫn. Sau khi bày tỏ sự thương tiếc chiếu lệ và nhắc lại rằng phiên tòa chế nhạo không liên quan gì đến Chính phủ Mỹ, ông ra đòn một cách khéo léo. “Tôi xin tuyên bố thêm tôi tin rằng trong tương lai, người dân của từng nước sẽ học cách tự kiềm chế không tổ chức mít tinh, hoặc biểu tình quá đáng hoặc không thích hợp, vì những hành động của người dân nước khác. Tôi mong muốn diễn đạt rất dễ hiểu với toàn bộ người Đức. Tóm lại, tôi muốn nói thêm rằng có vẻ thế giới đang chìm trong kích động, và hệ quả là người dân của nhiều nước không chịu suy nghĩ, cũng như hành động cho hợp lí.”
Mười ngày sau, giữa một cơn bão tuyết, viên đại sứ Đức lại quay lại, giận dữ hơn cả lần trước. Khi Luther bước vào văn phòng của Hull, ông ta bị viên ngoại trưởng chế nhạo, hi vọng ông ta “không cảm thấy lạnh như lớp tuyết đang rơi bên ngoài”.
Dùng thứ ngôn ngữ Hull mô tả là “gần như thô tục”, Luther mất bốn mươi lăm phút tiếp theo, giận dữ trích ra một danh sách “những ngôn từ lăng mạ và sỉ nhục mà các công dân Mỹ đã dùng đối với Chính quyền Hitler ”.
Hull bày tỏ nỗi buồn vì Mỹ đã trở thành mục tiêu để người Đức chỉ trích, nhưng rồi lưu ý rằng ít nhất “chính phủ của tôi không đơn độc trong hoàn cảnh này. Rõ ràng, tất cả các chính phủ xung quanh nước Đức, cũng như các chính phủ gần gũi với quốc gia của ông ta dường như cùng tỏ thái độ căm ghét rõ ràng về mặt này hay mặt khác. Chính phủ của ông ta hiện tại vì lí do nào đó gần như bị tất cả các nước khác cô lập, cho dù tôi không nêu ra ví dụ cụ thể trách nhiệm của họ như thế nào. Tuy nhiên, tôi cho rằng có lẽ hợp lí hơn là chính phủ của ông ta phải xem lại các điều kiện cô lập, tìm hiểu xem rắc rối, hoặc sai lầm nằm ở đâu.”
Hull cũng nêu rõ quan hệ của Mỹ với các chính phủ Đức trước kia “đều dễ chịu”, rằng “chỉ trong thời gian chính phủ hiện thời cầm quyền thì các rắc rối mới bùng lên, về mặt cá nhân cũng như ngoại giao tôi cảm thấy rất tiếc.” Ông thận trọng lưu ý rằng chắc chắn điều này chỉ đơn thuần là “trùng hợp”.
Hull thông báo mọi rắc rối rồi sẽ qua đi, chỉ cần nước Đức “có thể chấm dứt hoàn toàn những báo cáo về người bị thương đang đều đặn gửi từ Đức sang Mỹ, làm tăng thêm nỗi oán hận cay đắng giữa những người dân ở Mỹ”.
Hull viết, “Rõ ràng trong suốt cuộc đối thoại chúng tôi đang nói đến nạn đàn áp người Do Thái.”
Một tuần sau, Ngoại trưởng Hull triển khai một phương án được chứng minh là giải pháp cuối cùng cho vấn đề. Cuối cùng, ông đã nhận được bản dịch bản tóm tắt Neurath đưa cho Dodd. Giờ thì đến lượt Hull giận dữ. Ông gửi một bản tóm tắt của riêng mình, được một đại diện lâm thời tại Berlin, John C. White trao tận tay Neurath. White đang điều hành Đại sứ quán, trong thời gian Dodd vắng mặt.
Sau khi mắng mỏ, khiển trách Neurath với “giọng điệu cộc cằn không thích hợp trong giao tiếp ngoại giao” tràn khắp bản tóm tắt bằng tiếng Đức, Hull dành một phần ngắn lên lớp ông ta về các nguyên tắc của Mỹ.
Ông viết, “Ai cũng biết rằng việc tự do thực hành tín ngưỡng, tự do phát biểu và tự do báo chí và quyền được tổ chức hội họp trong hòa bình, không chỉ được Hiến pháp Mỹ bảo đảm cho các công dân của chúng tôi, mà là những niềm tin đã ăn sâu vào tiềm thức chính trị của người dân Mỹ.” Hull viết, thế nhưng Neurath trong bản tóm tắt của mình lại mô tả các sự kiện theo kiểu Đức cảm thấy Chính phủ Mỹ lẽ ra phải xem nhẹ những nguyên tắc này. “Do đó, có vẻ như quan điểm của hai chính phủ liên quan đến vấn đề tự do phát biểu và hội họp không thể hòa hợp được với nhau, và rằng bất kì thảo luận nào về sự khác biệt này không thể cải thiện quan hệ mà Chính phủ Mỹ mong muốn giữ gìn, trên cơ sở nhu cầu của hai dân tộc, xem hữu nghị như một lợi ích chung.”
Cứ như thế, cuộc chiến về phiên tòa chế nhạo rồi cũng đi đến hồi kết, với các quan hệ ngoại giao tuy lạnh giá nhưng không bị tổn hại. Một lần nữa, không có ai trong Chính phủ Mỹ đưa ra bất kì tuyên bố công khai nào, hoặc ủng hộ phiên tòa, hoặc chỉ trích chế độ Hitler. Chỉ có một câu hỏi đặt ra: Tất cả đang sợ cái gì?
Một thượng nghị sĩ Mỹ, Millard E. Tydings ở Maryland, đã cố gắng ép Tổng thống Roosevelt lên tiếng phản đối khủng bố người Do Thái, bằng cách tuyên đọc trước Thượng viện một nghị quyết hẳn sẽ chỉ cho Tổng thống “cách gửi đến Đế chế Đức một tuyên bố rõ ràng về những cảm xúc ngạc nhiên và đau đớn sâu sắc người dân Hoa Kỳ trải qua, khi biết đến những phân biệt đối xử và đàn áp, mà Đế chế bắt công dân Do Thái phải hứng chịu.”
Một bản tóm tắt của Bộ Ngoại giao về nghị quyết này do một người bạn của Dodd, Trợ lí Ngoại trưởng R. Walton Moore viết, khiến mọi người hiểu thêm về sự miễn cưỡng của Chính phủ. Sau khi xem xét nghị quyết, Thẩm phán Moore kết luận nó chỉ khiến Tổng thống Roosevelt càng “lâm vào thế khó”. Moore giải thích, “Nếu ông ấy không làm theo đề nghị này, ông ấy sẽ phải hứng chịu chỉ trích nặng nề. Mặt khác, nếu làm theo, ông ấy sẽ không chỉ khiến Chính phủ Đức phẫn nộ, mà có thể còn phải đối mặt với cuộc thảo luận gay gắt của Chính phủ, chẳng hạn Chính phủ có thể đề nghị ông ấy giải thích tại sao người da màu trong đất nước này không được hưởng quyền đi bầu cử, tại sao lối hành hình kiểu lynch93 đối với người da màu tại bang của Thượng Nghị sĩ Tydings và các bang khác không bị ngăn chặn hoặc bị trừng phạt nghiêm khắc, và làm sao xu hướng bài Do Thái tại Mỹ, đáng tiếc dường như đang tăng lên, lại không được xem xét.”
93 Hành hình kiểu Lynch: Cách hành hình man rợ người da màu không qua xét xử trong thời gian xảy ra nạn phân biệt chủng tộc của Mỹ, thường do một đám đông mang theo đủ loại vũ khí tiến hành, chúng trói người da màu lại đánh đập, hành hạ rồi treo lên thiêu sống....
Nghị quyết thất bại, theo lời một sử gia, Ngoại trưởng Hull “đã cố gắng gây ảnh hưởng lên Ủy ban Đối ngoại, để nghị quyết mãi mãi bị chôn vùi.”