Điều khiến Dodd phiền muộn nhất, trong thời gian nghỉ phép, đó là ông cảm thấy các đối thủ của mình trong Bộ Ngoại giao đang ngày càng hiếu chiến hơn. Ông ngày càng lo lắng về thứ ông nhìn nhận như khuôn mẫu tiết lộ thông tin tuyệt mật, dường như nhằm mục đích hất cẳng ông. Một biến cố khó chịu xảy ra đêm thứ Bảy, ngày 14 tháng 04, khi ông đang rời khỏi bữa tối hằng năm của câu lạc bộ Gridiron tại Washington. Một quan chức Bộ Ngoại giao trẻ, mà ông không quen biết, tiến đến gần ông và bắt đầu nói chuyện, rằng anh ta công khai thách thức lời Dodd tán dương những điều kiện tại Đức, trích dẫn một thông điệp tuyệt mật ngài đại sứ đánh điện gửi từ Berlin. Tay quan chức trẻ tuổi cao hơn hẳn Dodd và đứng rất gần ông, đến mức Dodd tự nhiên thấy sợ hãi. Trong lá thư giận dữ Dodd định trao tận tay cho Ngoại trưởng Hull, ông mô tả cuộc chạm trán này như “sự sỉ nhục quốc tế”.
Tuy nhiên, Dodd bực mình nhất là câu hỏi làm sao tên trẻ ranh kia tiếp cận được thông điệp của ông. “Theo ý kiến của tôi,” Dodd viết, “... thì có một nhóm nào đó trong Bộ Ngoại giao chỉ biết nghĩ đến bản thân họ mà chẳng màng gì đến tổ quốc, những kẻ bất chấp nỗ lực bé nhỏ của bất kì đại sứ hay bộ trưởng nào muốn tiết kiệm và cải tổ, mà bắt đầu kéo bè kéo cánh gièm pha và đánh gục ông ấy. Không biết là lần thứ bao nhiêu, thông tin cực kì tuyệt mật tôi cung cấp bị đối xử - hoặc bị biến thành chuyện ngồi lê đôi mách. Tôi chẳng làm như thế để nhận được bất kì lợi ích cá nhân hay địa vị xã hội nào. Tôi sẵn sàng làm bất kì điều gì có thể nhằm đảm bảo công việc và hợp tác tốt hơn, nhưng tôi không muốn phải làm việc một mình hoặc trở thành bung xung, hứng chịu âm mưu hay thủ đoạn liên tiếp. Tuy nhiên, tôi sẽ không nhún nhường trong im lặng, nếu chuyện này còn tiếp tục.” Rốt cuộc, Dodd quyết định không trao thư này cho Hull. Nó nằm lẫn trong đống giấy tờ được xếp loại “không gửi”.
Một chuyện Dodd rõ ràng vẫn chưa biết, đó là ông cùng mười lăm đại sứ khác được nhắc đến trong một bài viết quan trọng trên tờ Fortune số ra tháng Tư năm 1934. Bất chấp bài viết đang nổi như cồn, lẫn thực tế chắc chắn nó trở thành chủ đề bàn tán say sưa trong Bộ Ngoại giao, Dodd chỉ biết đến sự tồn tại của nó rất lâu sau này, sau khi quay về Berlin, khi Martha mang về nhà một tờ cô nhận được, khi đi khám bác sĩ nha khoa.
Với tựa đề “Kính thưa các đại sứ của chúng ta”, bài viết đánh dấu những người được bổ nhiệm, nêu rõ tài sản cá nhân của họ bằng cách đặt biểu tượng USD cạnh tên họ. Jesse Isidor Straus - đại sứ tại Pháp và là Cựu Chủ tịch R.H.Macy & Company - được ký hiệu là “$$$$ Straus”. Dodd thì chỉ có một chữ “¢” bên cạnh tên ông96. Bài viết chế giễu cách tiếp cận rẻ tiền của ông với ngành ngoại giao, gợi ý rằng bằng việc thuê nhà tại Berlin với giá khuyến mãi của một chủ nhà băng Do Thái, ông đang muốn lợi dụng hoàn cảnh khốn khố của người Do Thái tại Đức để kiếm chác. “Và như thế,” bài báo nêu, “gia đình Dodd được sống trong căn nhà nhỏ nhắn xinh xắn với giá rất rẻ, cố gắng duy trì nó chỉ với một vài người hầu.” Bài báo lưu ý Dodd mang cả chiếc Chevrolet cũ rích của mình sang Berlin. “Con trai ông ta được cho là phải lái xe đưa ông ta đi vào các buổi tối,” tác giả cho biết. “Nhưng cậu ta lại muốn đến nhiều nơi và làm nhiều chuyện những cậu trai thích làm, điều đó khiến ngài Dodd lâm vào cảnh không ai đưa đón (cho dù đang mặc đồ tuxedo) bằng chiếc Chevrolet.” Bài viết cho rằng Dodd bắt buộc phải đi nhờ xe các quan chức Đại sứ quán cấp thấp hơn, “họ thật may mắn khi limousine của họ có tài xế.”
96 $ là kí hiệu của đồng Đô la Mỹ, còn ¢ là kí hiệu của một xu Mỹ, chỉ bằng một phần một trăm của 01 Đô la.
Tác giả gọi Dodd là “kẻ không xứng với cái mác ngoại giao”, bị cái đói nghèo tương đối ngăn cản và không có vẻ tự tin của một nhà ngoại giao. “Về phương diện đạo đức, ông ta là người rất quả cảm, có tri thức, thông minh khác hẳn người thường, đến nỗi ông ta ăn nói quá cao siêu, như thể một quý ông và một học giả nói chuyện với nhau, anh em đồng đạo Đảng Quốc xã thô lỗ, cục cằn chẳng tài nào hiểu nổi ngay cả khi họ muốn. Thế nên trong thâm tâm Dodd sôi sùng sục, và khi ông ta cố tỏ ra cứng rắn, chẳng ma nào thèm để ý đến ông ta.”
Dodd tức thời hiểu ngay vài quan chức trong Bộ Ngoại giao, và có lẽ ngay cả trong văn phòng của ông tại Berlin đã tiết lộ hết những chi tiết nhạy cảm về cuộc sống của ông tại Đức. Ông phàn nàn với Thứ trưởng Ngoại giao Phillips. Ông viết, bài báo “cho thấy một thái độ lạ lùng và thậm chí không yêu nước, đến mức liên quan tới cả hồ sơ và những nỗ lực của tôi. Trong lá thư đồng ý nhậm chức của mình, tôi đã nói với Tổng thống cần phải hiểu chuyện tôi chỉ sống bằng đồng lương. Một thực tế rõ ràng và đơn giản với tôi như thế, chẳng hiểu làm sao và tại sao lại phải thảo luận lắm thế nhỉ?” Ông kể ra các nhà ngoại giao trong lịch sử từng sống khiêm nhường. “Tại sao tất cả lại lên án khi tôi noi theo những tấm gương này?” Ông nói với Phillips ông nghi ngờ chính những người trong Đại sứ quán của ông đang làm rò rỉ thông tin, và trích dẫn các miêu tả tin tức khác bao gồm những báo cáo bị xuyên tạc. “Sao lại phải dựng lên tất cả những câu chuyện bịa đặt, chẳng liên quan gì đến công tác thật sự này chứ?”
Phillips đợi gần một tháng mới hồi âm. “Về bài báo trên tờ Fortune,” ông ta viết, “Tôi sẽ chẳng nghĩ tới nó lần thứ hai. Tôi không thể hình dung được thông tin ngài nói đến từ đâu, ngoài việc hình dung cánh Báo chí thu thập tin tức vỉa hè (thường là sai bét) về chính bản thân tôi và các đồng nghiệp khác của ngài.” Ông ta thúc giục Dodd, “Đừng để chuyện riêng tư này làm phiền ngài thêm nữa.”
Dodd chỉ ở lại Thư viện Quốc hội nghiên cứu cuốn Miền Nam ngày xưa một lúc, rồi cố gắng dành hai tuần về thăm trang trại. Ở đây, ông viết lách và giải quyết các vấn đề ở trang trại, còn thời gian ông làm chuyến du lịch đến Chicago như dự tính, nhưng chẳng vui vẻ gì với những cuộc tái ngộ. “Một khi tới đó,” ông biên thư cho Martha, “ai ai cũng muốn gặp cha: những cuộc gọi, thư từ, những cuộc ghé thăm, những buổi tiệc trưa, bữa tối quấy rầy liên tục.” Ông nói, bao nhiêu người hỏi han ông về hai đứa con, “nhưng chỉ có một người hỏi về rắc rối của con tại New York”, ám chỉ đến cuộc li hôn của cô. Một người bạn muốn cho ông xem các ví dụ “báo chí Chicago ứng xử với chuyện đó lịch sự thế nào”, nhưng ông viết, “cha không buồn đọc những mẩu báo cắt ra”. Ông đọc các bài diễn văn và giải quyết những vụ cãi nhau vặt vãnh. Trong nhật kí, ông lưu ý mình cũng gặp gỡ hai nhà lãnh đạo Do Thái, mà ông từng liên hệ, khi thi hành các chỉ thị của Tổng thống Roosevelt, dập tắt sự phản đối của người Do Thái. Hai người mô tả “cách họ và bạn bè họ khuyên nhủ đồng bào bình tĩnh và ngăn chặn bất kì cuộc biểu tình bạo lực nào dự tính diễn ra tại Chicago.”
Một cuộc khủng hoảng cá nhân đã diễn ra. Trong khi ở Chicago, Dodd nhận được một bức điện tín có tin nhắn của vợ. Sau khi trải qua nỗi lo âu không tránh khỏi khi đọc điện tín do những người ông yêu thương gửi tới, Dodd biết rằng chiếc Chevy, biểu tượng cho chức đại sứ của ông, đã bị tên tài xế phá hủy tan tành. Lí do là: “ĐỂ TƯƠNG LAI NGÀI CÒN MUA XE MỚI”. Thế nên bây giờ, khi Dodd được cho là đang tận hưởng kì nghỉ phép phục hồi, ngôn ngữ lạnh như tiền của bức điện tín ép ông phải mua xe mới và thu xếp vận chuyển về Berlin.
Sau đó, ông viết thư cho Martha, “Cha sợ rằng Mueller lái xe không cẩn thận, trước đây cha đã để ý vài lần.” Dodd không hiểu nổi chuyện này. Bản thân ông từng lái xe đi về giữa trang trại và Washington D.C rất nhiều lần, cũng như lái xe khắp thành phố mà chẳng làm sao cả. “Trong khi chuyện này có thể chẳng chứng minh được gì, nó lại cho thấy một điều khác: Những người không có xe thì bất cẩn hơn nhiều so với những người có xe.” Căn cứ theo những gì sắp xảy ra vài năm sau, việc Dodd khoe khoang khả năng lái xe chỉ có thể khiến người ta lạnh xương sống. Ông muốn tậu chiếc Buick nhưng xem mức giá - 1.350 USD - là quá cao vì gia đình ông chỉ ở Berlin trong thời gian rất ngắn. Ông cũng lo lắng về khoản tiền 100 USD ông sẽ phải trả để vận chuyển xe qua Berlin.
Cuối cùng, ông cũng tặc lưỡi mua Buick. Ông hướng dẫn vợ cách mua xe từ một nhà buôn ở Berlin. Ông viết, đây là mẫu xe cơ bản, vốn bị các chuyên gia nghi thức ngoại giao Đại sứ quán chê bai là “giản dị đến lố bịch đối với một Đại sứ”.
Dodd có thể đến thăm trang trại của ông lần nữa, mặc dù có tâm trạng vui vẻ, nhưng lần giã biệt cuối cùng khiến ông đau đớn hơn nhiều. “Hôm nay là một ngày tuyệt vời,” ông viết trong nhật kí hôm Chủ nhật, ngày 06 tháng 04 năm 1934. “Những cái cây mới lớn và những bông hoa táo khoe vẻ đẹp quyến rũ nhất, đặc biệt khi tôi phải ra đi.”
Ba ngày sau, tàu của Dodd nhổ neo rời New York. Ông cảm thấy dư vị chiến thắng, khi thuyết phục được các nhà lãnh đạo Do Thái giảm nhẹ những phản đối chống Đức, và hi vọng những nỗ lực của mình sẽ khiến Chính quyền Hitler mềm mỏng hơn. Tuy nhiên, những hi vọng này bị dội gáo nước lạnh vào ngày thứ Bảy, 12 tháng 05, khi vẫn đang lênh đênh trên đại dương, thông qua vô tuyến điện, ông nghe được bài diễn văn Goebbels vừa đọc, trong đó tên Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền gọi người Do Thái là “căn bệnh giang mai của toàn thể dân chúng châu Âu”.
Dodd cảm thấy như bị phản bội. Bất chấp những hứa hẹn của Quốc xã về những lệnh bắt giữ và đóng cửa nhà tù Columbia House, rõ ràng chẳng có gì thay đổi. Ông lo sợ rằng có lẽ mình đã quá ngây thơ. Ông viết thư cho Tổng thống Roosevelt bày tỏ nỗi thất vọng, sau tất cả những gì ông đã làm với các nhà lãnh đạo Mỹ gốc Do Thái. Bài diễn văn của Goebbels đã thắp lại “tất cả những hận thù của mùa đông năm ngoái,” ông viết, “và tôi lâm vào tình thế bị lừa bịp, như tôi thực sự đã bị lừa.”
Ông về Berlin hôm thứ Ba, ngày 17 tháng 05, vào hồi 22 giờ 30 phút, và nhận thấy một thành phố không còn như trước. Trong hai tháng ông nghỉ phép, toàn bộ cảnh quan chìm trong hoang vắng vì hạn hán đến mức ông chưa từng thấy, nhưng còn một điều khác nữa. “Tôi rất vui được trở về nhà,” ông nói, “nhưng ngay lập tức, tôi gặp phải bầu không khí căng thẳng.”