Thành phố dường như rung lên bởi một âm thanh nền đầy nguy hiểm, như thể một sợi dây tải điện to lớn đâm xuyên trung tâm thành phố. Tất cả mọi người trong giới của Dodd đều cảm thấy nó. Một phần sự căng thẳng phát sinh do thời tiết bất thường vào tháng Năm, kèm theo đó là những nỗi lo sợ một vụ mùa thất bát. Tuy nhiên nguồn cơn chính gây lo âu là mâu thuẫn ngày càng tăng giữa Sư đoàn Bão tố của Đại úy Röhm với quân đội chính quy. Một phép ẩn dụ phổ biến được sử dụng vào thời gian này mô tả cảm giác tại Berlin, đó là một cơn giông bão đang đến gần - cảm nhận bầu không khí nén lại và lơ lửng.
Dodd hầu như không có cơ hội một lần nữa chìm đắm vào nhịp điệu công việc.
Một ngày sau khi quay về, ông phải đối mặt với viễn cảnh tổ chức một bữa tiệc chia tay hoành tráng cho Messersmith. Ông ta cuối cùng cũng kiếm được cho mình một vị trí cao quý hơn, cho dù không phải ở Prague, như mục tiêu ban đầu. Sự cạnh tranh cho công việc này quá mạnh mẽ, và cho dù Messersmith đã vận động hành lang không biết mệt mỏi, cũng như thuyết phục được các đồng minh mọi cấp bậc gửi thư dồn phiếu cho mình, nhưng đến cuối cùng, công việc này rơi vào tay người khác. Thay vào đó, Thứ trưởng Phillips giới thiệu cho Messersmith một vị trí khác còn trống - Uruguay. Nếu Messersmith có thất vọng, ông ta cũng không thể hiện ra. Ông ta cho rằng mình gặp may, khi đã rời bỏ công việc Lãnh sự quán. Nhưng vận may của ông ta thậm chí còn tốt hơn thế. Vị trí đại sứ sang Áo bất ngờ thiếu người và Messersmith rõ ràng là lựa chọn tốt. Tổng thống Roosevelt đồng ý. Lúc này, Messersmith thực sự sung sướng. Dodd cũng vui y hệt khi tống khứ được ông ta đi, mặc dù ông muốn ông ta đi hẳn sang nước nào xa xa, cho khuất mắt.
Có nhiều buổi tiệc chúc mừng Messersmith - cùng một lúc, tất cả các bữa tối và bữa trưa tại Berlin dường như đều vinh danh ông ta - nhưng bữa tiệc của Đại sứ quán Mỹ ngày 18 tháng 05 là buổi lớn nhất và trang trọng nhất. Trong khi Dodd đang ở Mỹ, phu nhân Dodd, với sự hỗ trợ của các chuyên gia lễ tân Đại sứ quán, đã lập danh sách khách mời dài bốn trang, cách dòng đơn, dường như bao gồm tất cả nhân vật tai to mặt lớn, ngoại trừ Hitler. Với bất kì ai có hiểu biết về xã hội Berlin, điểm thu hút không ở chỗ ai đến dự, mà là những ai không được mời. Göring và Goebbels gửi lời xin lỗi không đến được, tương tự là Phó Thủ tướng Papen và Rudolf Diels. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Blomberg có đến, nhưng trùm SA Röhm thì vắng mặt.
Bella Fromm, Sigrid Schultz và nhiều bạn bè của Martha đến tham dự, bao gồm cả Putzi Hanfstaengl, Armand Berard và Hoàng tử Louis Ferdinand. Bản thân sự lẫn lộn này làm dày thêm không khí căng thẳng trong phòng, vì Berard vẫn còn yêu Martha và Hoàng tử Louis có nhiều tham vọng với cô, cho dù cô vẫn dành trọn sự ngưỡng mộ cho Boris (thật thú vị, anh không có tên trong danh sách khách mời). Liên lạc viên với Hitler trẻ trung, điển trai của Martha, Hans “Tommy” Thomsen, có mặt, người bạn đồng hành lâu năm của anh ta cũng đến, Elmina Rangabe với làn da ngăm đen và gợi cảm. Nhưng đêm nay có vật cản - Tommy đi cùng vợ. Có hơi nóng, rượu sâm banh, cảm xúc, sự ghen tị, kèm theo là cảm nhận điều gì đó khó chịu đang dần hình thành ngay phía chân trời.
Bella Fromm có màn đối thoại ngắn với Hanfstaengl, cô ghi lại cuộc gặp gỡ này trong nhật kí.
“Tôi tự hỏi tại sao hôm nay chúng tôi bị hỏi han,” Hanfstaengl nói. “Tất cả sự kích thích vì người Do Thái này. Messersmith này. Rồi Roosevelt nữa. Đảng căm ghét họ.”
“Tiến sĩ Hanfstaengl,” Fromm nói, “chúng ta từng nói chuyện này rồi. Ngài không cần phải có thái độ ấy đối với tôi.”
“Được rồi. Ngay cả nếu họ là người Aryan, cô sẽ không bao giờ biết được điều đó từ hành động của họ.”
Vào lúc này, Fromm không cảm thấy đặc biệt bận tâm đến thiện ý của Quốc xã. Hai tuần trước con gái cô, Gonny, đã bay sang Mỹ, với sự trợ giúp của Messersmith, bỏ lại Fromm u buồn nhưng nhẹ nhõm. Một tuần trước đó, tờ báo Vossische Zeitung - “Dì Voss”, nơi cô làm việc nhiều năm - bị đóng cửa. Cô ngày càng cảm thấy cái thời đại cô từng khao khát đạt tới đang đến hồi kết.
Cô nói với Hanfstaengl, “Dĩ nhiên nếu anh không còn muốn nói đến đúng sai, mà về Aryan với không Aryan, vô tình sẽ khiến những người giữ quan niệm khá cũ về đúng sai, về tử tế và khiếm nhã, không còn cơ sở để tiếp tục.”
Cô hướng cuộc đối thoại quay về chủ đề Messersmith, người cô miêu tả là được các đồng nghiệp kính trọng, “rằng trên thực tế, ông ta được xem là xứng đáng làm Đại sứ,” một nhận xét hẳn khiến Dodd tức giận không để đâu cho hết.
Hanfstaengl dịu giọng, “Được rồi, được rồi,” anh ta nói. “Tôi có rất nhiều bạn bè ở Mỹ, và tất cả bọn họ cũng đều ủng hộ người Do Thái. Nhưng kể từ khi điều đó được ra rả trong chương trình Đảng...” Anh ta ngừng lại, nhếch mép. Thọc tay vào túi, anh ta rút ra một túi nhỏ đựng các viên kẹo trái cây. Lutschbonbons. Bella rất yêu thích chúng khi còn bé.
“Ăn một cái đi,” Hanfstaengl nói. “Loại kẹo được dành riêng cho Quốc trưởng đấy.”
Cô nhón một viên kẹo. Chưa kịp đưa lên miệng, cô chợt thấy nó được in rập nổi một dấu thập ngoặc. Viên kẹo nào cũng bị “đồng hóa”.
Cuộc đối thoại chuyển sang xung đột chính trị đang gây ra rất nhiều bức xúc. Hanfsaengl cho biết Röhm không chỉ thèm muốn kiểm soát quân đội Đức, mà còn nhắm đến Lực lượng Không quân của Göring. “Hermann đang nổi điên đấy!” Hanfstaengl nói. “Cô có thể làm bất kì điều gì với gã, ngoại trừ bỡn cợt Lực lượng Không quân của gã, và gã có thể máu lạnh giết chết Röhm đấy.” Anh ta hỏi: “Cô có biết Himmler không?”
Fromm gật đầu.
Hanfstaengl nói, “Y là một kẻ chăn gà, khi mà y không bận rộn đi do thám Quân Phòng vệ Đế chế. Y đá văng Diels khỏi vị trí trùm Gestapo. Himmler không thể chịu được bất kì ai, nhưng Röhm là kẻ y ít ghét nhất. Giờ thì chúng đang kéo bè kéo cánh lật đổ Röhm: Rosenberg, Goebbels và tên chăn gà.” Cái tên Rosenberg anh ta nhắc đến là Alfred Rosenberg, một kẻ bài Do Thái nhiệt thành và là Giám đốc Cục Đối ngoại của Đảng Quốc xã.
Sau khi thuật lại cuộc đối thoại trong nhật kí, Fromm viết thêm, “Chẳng có ai trong đám quan chức Đảng Quốc xã lại không vui mừng giẫm đạp kẻ khác, chỉ để bản thân được thăng tiến.”
Để đo lường bầu không khí lạ lùng mới mẻ ở Berlin, thì một buổi tiệc tối khác, nhạt như nước ốc, được chứng minh là mang lại những hậu quả thật sự chết người. Người tổ chức tiệc là một chủ nhà băng giàu có tên là Wilhelm Regendanz, một người bạn của gia đình Dodd, cho dù thật may mắn là gia đình Dodd không được mời đến dịp đặc biệt này. Regendanz mở tiệc vào một buổi tối tháng Năm, tại căn biệt thự xa hoa của ông ta ở Dahlem, phía tây nam Berlin rộng lớn, nổi tiếng với những ngôi nhà đáng yêu và vị trí nằm gần vùng Grunewald.
Regendanz, người cha của bảy đứa con, là thành viên của Stahlhelm, hay Mũ Sắt, một tổ chức của các cựu sĩ quan quân đội có thiên hướng bảo thủ. Ông ta thích tụ tập những người giữ chức vụ khác nhau cùng ăn tối, thảo luận và thuyết trình. Với bữa tối đặc biệt này, Regendanz đã mời hai vị khách nổi bật, Đại sứ Pháp François-Poncet và Đại úy Röhm, cả hai đều đã từng tới đây vào những dịp khác.
Röhm đến cùng với ba sĩ quan SA trẻ tuổi, trong số này có một sĩ quan phụ tá tóc vàng xoăn mang biệt danh “Bá tước Điển trai”, là thư kí của Röhm, và theo lời đồn đại, thi thoảng là người tình của hắn. Sau này, Hitler đã mô tả cuộc gặp gỡ đó như “một bữa tối bí mật”, cho dù trên thực tế, các khách mời chẳng ai phải ngụy trang. Họ đỗ xe ngay ngoài cổng, hoàn toàn có thể thấy từ con phố, chỉ cần nhìn biển số xe sẽ biết ngay họ là ai.
Các vị khách chẳng hợp rơ nhau. François-Poncet không thích trùm SA, như ông ta đã nêu rõ trong hồi kí, Những năm định mệnh: “Luôn nuôi trong mình mối ác cảm sống động nhất đối với Röhm,” ông viết, “Tôi lảng tránh hắn ta càng lâu càng tốt, bất chấp chức vụ cao của hắn trong Đệ tam Đế chế.” Nhưng Regendanz lại “van xin” François-Poncet hãy đến.
Sau này trong lá thư trình lên Gestapo, Regendanz cố gắng giải thích việc ông khăng khăng muốn hai người ở bên nhau. Ông tổ chức bữa tối này vì François-Poncet, cho rằng ông ta đã giận dữ vì không thể gặp trực tiếp Hitler, và đã nhờ Regendanz chuyển đến Hitler khao khát được diện kiến thông qua ai đó gần gũi. Regendanz gợi ý rằng Röhm có thể là một trung gian đáng giá. Vào lúc diễn ra bữa tối, Regendanz cho rằng ông không nhận thức được sự rạn nứt giữa Röhm và Hitler - “mà ngược lại”, ông nói với Gestapo, “có vẻ như Röhm là người có được niềm tin tuyệt đối của Quốc trưởng và là người hầu cận hắn. Nói cách khác, người ta tin rằng thông báo cho Röhm cũng tức là thông báo cho Quốc trưởng.”
Trở lại bữa tối, phu nhân Regendanz cùng con trai, Alex, hiện đang chuẩn bị làm luật sư quốc tế, đến chào hỏi các khách mời. Sau bữa ăn, Röhm và Đại sứ Pháp rút về thư viện của Regendanz nói chuyện thân mật. Röhm nói đến các vấn đề quân sự và phủ nhận bất kì điều gì liên quan đến chính trị, tuyên bố rằng hắn xem mình chỉ là một quân nhân, một sĩ quan. “Kết quả cuộc nói chuyện này,” Regendanz nói với Gestapo, “chẳng ra gì cả.”
Buổi tối rồi cũng trôi qua - ơn Chúa, theo lời của François-Poncet. “Bữa ăn ảm đạm, đối thoại rời rạc,” ông ta nhớ lại. “Tôi thấy Röhm buồn ngủ và uể oải. Hắn chỉ tỉnh táo khi phàn nàn về sức khỏe và chứng thấp khớp của hắn, nói muốn đi gặp bác sĩ tại Wiesee,” lời ám chỉ đến Bad Wiessee, nơi Röhm lên kế hoạch tạm trú bên hồ để chăm sóc sức khỏe. “Quay trở về nhà,” François-Poncet viết, “tôi đã nguyền rủa lão chủ tiệc về buổi tối chán chết.”
Làm sao phía Gestapo biết được về bữa tối và các vị khách vẫn là ẩn số, nhưng vào lúc này chắc chắn Röhm bị đặt dưới sự giám sát chặt chẽ. Biển số những chiếc xe đỗ tại nhà Regendanz hẳn sẽ cung cấp cho bất kì kẻ theo dõi nào thông tin về chủ nhân trong nhà.
Bữa tối đó trở nên khét tiếng. Sau này, vào giữa hè, Đại sứ Anh Phipps nhận xét trong nhật kí rằng, trong số bảy người đã ngồi ăn tối tại dinh thự Regendanz hôm đó, bốn người đã bị giết, một người trốn khỏi đất nước vì sợ chết, và một người bị cầm tù trong trại tập trung.
Phipps viết, “Danh sách thương vong vì một bữa tiệc tối có thể khiến ngay cả Borgia97 cũng phải ghen tị.”
97 Borgia: một gia tộc người Ý gốc Tây Ban Nha, nổi lên vào giữa thế kỷ XV ở Ý. Họ khét tiếng là không từ thủ đoạn nào để đoạt được quyền lực.
Có chuyện thế này:
Thứ Năm, ngày 24 tháng 05, Dodd đi bộ đến ăn tiệc trưa với một quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Đức, Hans-Heinrich Dieckhoff, người được Dodd miêu tả “đúng là một Trợ lí Ngoại trưởng”. Họ gặp nhau tại một nhà hàng nhỏ, kín đáo trên đường Unter den Linden, đại lộ rộng lớn chạy thẳng về hướng đông từ Cổng Brandenburg, và tại đây, hai người chìm trong cuộc trò chuyện, mà Dodd xem là rất lạ thường.
Lí do chủ yếu Dodd muốn gặp Dieckoff đó là bày tỏ sự khó chịu, khi ông thấy mình bị lừa bởi bài diễn văn của Goebbels, ví người Do Thái với căn bệnh giang mai, sau tất cả những gì ông đã làm nhằm dập tắt những phản đối của người Do Thái tại Mỹ. Ông nhắc lại với Dieck- off dự định đóng cửa nhà tù Columbia House, yêu cầu của Đế chế khi bắt ai phải có lệnh bắt, và nhiều bảo đảm khác rằng nước Đức “đang làm dịu đi nỗi bức xúc của người Do Thái”.
Dieckhoff đồng cảm. Ông ta thừa nhận mình không tin tưởng mấy ở Goebbels và bảo rằng mình mong đợi Hitler sẽ sớm bị lật đổ. Dodd viết trong nhật kí rằng Dieckoff “đã cung cấp bằng chứng ông ta cho là chính xác, rằng người Đức sẽ sớm chịu hết nổi cái hệ thống khiến họ phải luyện tập không ngừng nghỉ và suýt chết đói.”
Lời bộc trực này khiến Dodd kinh ngạc. Dodd lưu ý, Dieckoff ăn nói tự do như thể ông ta đang ở Anh hay Mỹ, thậm chí đến mức bày tỏ hi vọng rằng các làn sóng phản đối của người Do Thái tại Mỹ sẽ tiếp tục. Dieckoff nói, nếu không làm vậy thì những cơ hội lật đổ Hitler sẽ không còn.
Dodd biết ngay cả với một quan chức cao như Dieckoff, ăn nói như vậy vẫn nguy hiểm. Ông viết, “Tôi cảm thấy quan ngại sâu sắc, khi một quan chức cấp cao có thể mạo hiểm cả tính mạng chỉ trích chế độ đương thời.”
Rời nhà hàng, hai người đi bộ về phía tây dọc đường Unter den Linden đến Wilhelmstrasse, con phố của Chính phủ. Dodd viết, họ chia tay nhau, “khá buồn bã”.
Dodd quay về văn phòng, làm việc thêm hai tiếng nữa, rồi có chuyến đi bộ dài quanh công viên Tiergarten.