Bằng chứng về đàn áp xã hội và chính trị ngày một nhiều càng khiến Martha thêm sầu muộn, bất chấp sự nhiệt tình cô dành cho những thanh niên trẻ trung tóc vàng, rạng rỡ - hàng ngàn người bị Hitler thu hút. Một trong những khoảnh khắc học hỏi quan trọng nhất của cô đến vào tháng Năm. Một người bạn, Heinrich Maria Ledig-Rowohlt, vị khách thường xuyên tham dự cuộc họp với Mildred và Arvid Harnack, mời cô cùng Mildred đến thăm một trong những tác giả nổi tiếng nhất, người không lên chuyến bay vĩ đại của những nghệ sĩ tài năng rời khỏi nước Đức Quốc xã. Đó là một cuộc di tản bao gồm Fritz Lang98, Marlene Dietrich99, Walter Gropius, Thomas và Heinrich Mann, Bertolt Brecht100, Albert Einstein cùng nhạc sĩ Otto Klemperer101. Con trai của vị nhạc sĩ, Werner Klemperer, tiếp tục khắc họa hình ảnh một sĩ quan chỉ huy nhà tù - trại tập trung Quốc xã nhân hậu, ngớ ngẩn trong phim truyền hình nhiều tập Những anh hùng của Hogan. Ledig-Rowohlt là đứa con trai ngoài giá thú của nhà xuất bản Ernst Rowohlt và làm biên tập trong công ty của cha. Tay tác giả được nói tới ở trên là Rudolf Ditzen, được biết đến rất nhiều với biệt danh, Hans Fallada.
98 Fritz Lang (1890 - 1976): nhà làm phim và viết kịch bản người Mỹ gốc Áo.
99 Marlene Dietrich (1901 - 1992): diễn viên và ca sĩ nổi tiếng người Mỹ gốc Đức.
100 Bertolt Brecht (1898 - 1956): nhà viết kịch và nhà thơ nổi tiếng người Đức.
101 Otto Klemperer (1885 - 1973): nhạc trưởng và nhạc sĩ nổi tiếng người Đức.
Cuộc viếng thăm đáng lí đã diễn ra vào hồi đầu năm, nhưng Fallada đã trì hoãn đến tận tháng Năm, vì lo lắng chuyện xuất bản cuốn sách mới nhất của mình, Một khi là chim trong lồng. Vào lúc này, danh tiếng của Fallada đã nổi như cồn trên toàn thế giới với tiểu thuyết Người bé nhỏ - làm gì bây giờ?, viết về cuộc đấu tranh của một cặp vợ chồng, trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế xã hội của nền Cộng hòa Weimar. Fallada lo âu vì Một khi là chim trong lồng, là tác phẩm lớn đầu tiên của ông được xuất bản, kể từ khi Hitler làm Thủ tướng. Ông không chắc chắn về chỗ đứng của mình trong mắt Phòng Văn chương Đế chế dưới quyền Goebbels, nơi tự cho mình cái quyền quyết định cái gì tạo nên tác phẩm văn chương được chấp nhận. Với mục đích cố gắng dọn đường cho cuốn sách mới, Fallada thêm vào phần giới thiệu một thông báo tán dương Quốc xã, hòng đảm bảo tình hình tồi tệ ở giữa cuốn sách không thể xảy ra nữa. Ngay cả nhà xuất bản của ông ta, Rowholt, cũng cho rằng Fallada đã đi quá xa, rằng lời giới thiệu “có vẻ QUÁ tâng bốc”. Fallada vẫn giữ phần giới thiệu đó lại.
Vài tháng sau khi Hitler nhậm chức, các nhà văn Đức không phải thành viên Đảng Quốc xã nhanh chóng chia thành hai phe - một phe tin rằng ở lại là không đạo đức, còn một phe cảm thấy chiến lược tốt nhất là ở đâu yên đó, càng xa lánh thế sự càng tốt, đợi chờ chế độ Hitler sụp đổ. Sự tiếp cận của phe này được biết đến với cái tên “di cư nội tâm” và là con đường Fallada đã chọn.
Martha đề nghị Boris đi cùng. Anh đồng ý, cho dù từng nêu rõ quan điểm Mildred là người Martha không nên kết giao.
Họ lên đường vào sáng Chủ nhật, ngày 27 tháng 05, với chuyến đi dài ba tiếng đến trang trại của Fallada ở Carwitz, trong vùng thôn quê bên hồ Mecklenburg, phía bắc Berlin. Boris lái chiếc Ford và dĩ nhiên đã hạ mui trần. Buổi sáng mát mẻ và dễ chịu, những con đường hầu như vắng bóng xe. Khi đã ra khỏi thành phố, Boris tăng tốc. Chiếc Ford phóng vun vút dọc những con đường quê với hai hàng cây hạt dẻ và cây keo, không gian đầy hương xuân thơm lừng.
Qua nửa chặng đường, khung cảnh trở nên tối hơn. “Những ánh chớp nhỏ sắc nhọn rạch ngang trời,” Martha nhớ lại, “khung cảnh hoang dã và chói lọi sắc màu, màu xanh, màu tím, màu hoa oải hương và màu xám sặc sỡ căng thẳng.” Một cơn mưa bất thần đổ xuống, những giọt mưa bắn tung tóe trên kính chắn gió, nhưng ngay cả ở đây, trước sự phấn khích của tất cả mọi người, Boris vẫn hạ mui xuống. Chiếc xe lao đi dưới làn mây xám.
Bầu trời đột ngột quang mây, bỏ lại làn hơi nước được ánh mặt trời chiếu xuyên qua và sắc màu bất ngờ, như thể họ đang đi qua một bức tranh. Không khí đầy mùi hương đất ẩm tinh khôi.
Khi đến gần Carwitz, họ tiến vào vùng đất có những quả đồi, bình nguyên và mặt hồ xanh nhạt, với những lối đi đầy cát xung quanh. Các ngôi nhà và kho thóc trông như những cái hộp đơn giản với mái dốc cheo leo. Họ chỉ cách Berlin ba giờ chạy xe, nhưng nơi này dường như rất xa xôi và khuất nẻo.
Chiếc Ford của Boris dừng lại cạnh một trang trại gần hồ. Ngôi nhà nằm trên một dải đất nhô ra có tên là Bohnenwerder chạy tới hồ, tạo thành những quả đồi.
Fallada từ trong nhà đi ra, sau lưng là một cậu bé khoảng bốn tuổi cùng cô vợ tóc vàng, đẫy đà đang bế đứa con thứ hai, một bé sơ sinh. Một con chó cũng nhảy xổ ra. Fallada có dáng người vuông vắn với cái đầu vuông, miệng rộng, xương gò má tròn và cứng như thể những quả bóng golf được cấy vào dưới da. Cặp kính có gọng tối màu và hai mắt kính tròn. Vợ chồng ông ta dẫn những vị khách tham quan nhanh một vòng trang trại, họ đã mua nó bằng tiền nhuận bút cuốn Người bé nhỏ. Martha choáng váng trước vẻ mãn nguyện rõ nét trên mặt họ.
Chính Mildred là người đầu tiên lên tiếng, với những câu hỏi vốn đã luôn quanh quẩn trong đầu kể từ khi cả nhóm đến nơi, cho dù cô đã cẩn thận lựa lời. Khi cô cùng Fallada thả bước ra đến hồ, căn cứ theo bài tường thuật chi tiết của một trong số những người viết tiểu sử cho Fallada, cô kể về cuộc đời mình tại Mỹ, từng có sở thích đi dạo dọc bờ hồ Michigan.
Fallada nói, “Sống ở nước ngoài chắc khó khăn cho cô lắm, đặc biệt là khi sở thích của cô là văn học và ngôn ngữ.”
Đúng, cô nói, “nhưng sống ngay trong nước mình mà quan tâm đến văn chương cũng chẳng dễ dàng gì.”
Fallada đốt một điếu thuốc.
Lúc này rất chậm rãi, Fallada nói, “Tôi không bao giờ viết được bằng thứ ngôn ngữ khác, cũng như không thể sống ở đâu ngoài Đức.”
Mildred đáp ngay, “Ngài Ditzen, có lẽ sống ở đâu không quan trọng bằng sống như thế nào.”
Fallada không nói gì.
Một lúc sau, Mildred hỏi, “Thời buổi này, người ta có thể viết những gì mình muốn được không?”
“Còn phụ thuộc vào quan điểm của họ,” ông đáp. Có những khó khăn và đòi hỏi, những từ ngữ phải tránh né, nhưng đến cuối cùng ngôn ngữ phải chịu khổ, ông nói. “Phải, tôi tin người ta vẫn có thể viết ở đây thời buổi này, nếu chịu nghe lời và nhượng bộ một chút. Dĩ nhiên là tránh những vấn đề gai góc.”
Mildred hỏi, “Cái gì là gai góc và cái gì không gai góc?”
Mọi người dùng bữa trưa và cà phê. Martha và Mildred đi bộ lên đồi Bohnenwerder thưởng lãm cảnh quan. Một lớp sương mù mềm mại, lặng lẽ và nhiều màu sắc tạo nên cảm nhận thanh bình tràn ngập. Tuy nhiên, phía dưới kia, tâm trạng của Fallada biến thành bão tố. Ông cùng Ledig-Rowhlt chơi cờ. Chủ đề phần giới thiệu cuốn Chim trong lồng của Fallada được bàn đến, Ledig-Rowohlt thắc mắc về sự cần thiết của nó. Anh ta thổ lộ đây chính là chủ đề trò chuyện trong chuyến đi tới Carwitz. Nghe xong, Fallada giận dữ. Ông phẫn nộ khi mình biến thành chủ đề ngồi lê đôi mách, tranh cãi xem ai là người có quyền phát xét ông, đặc biệt là hai phụ nữ người Mỹ kia thì càng không.
Khi Martha cùng Mildred quay về, cuộc trò chuyện vẫn tiếp tục, Mildred tham gia. Martha cố gắng lắng nghe hết sức có thể, nhưng tiếng Đức của cô vẫn chưa thuần thục để hiểu hết các chi tiết. Tuy nhiên, cô đoán rằng Mildred “đang nhẹ nhàng thăm dò” việc Fallada xa lánh thế cuộc. Sự khó chịu của ông ta do đó rõ ràng bị thách thức.
Sau đó, Fallada dắt mọi người đi xem nhà - gồm có bảy phòng, có đèn điện, một tầng gác mái rộng rãi và nhiều lò sưởi ấm áp. Ông cho họ xem thư viện, với rất nhiều phiên bản tiếng nước ngoài các cuốn sách của chính ông, tiếp theo là đến phòng đứa trẻ sơ sinh của ông đang ngủ trưa. Martha viết, “Vẻ lo lắng và ngượng ngập hiện rõ trên mặt ông ta, cho dù ông ta cố gắng tỏ ra hãnh diện và hạnh phúc về con cái, về mảnh vườn tự tay mình chăm bón, về người vợ mập mạp giản dị, về nhiều bản dịch và ấn bản ngoại văn các cuốn sách của mình đang xếp trên giá. Nhưng ông ta là một người bất hạnh.”
Fallada chụp cho cả nhóm mấy bức ảnh, Boris cũng làm theo. Trong suốt chuyến đi về Berlin, cả bốn người một lần nữa lại nói về Fallada. Mildred mô tả ông ta là kẻ hèn nhát, yếu ớt nhưng rồi nói thêm, “Ông ta là người tốt và có lương tâm. Ông ta không hạnh phúc, nhưng không phải là kẻ Phát xít, không hẳn là vô vọng đâu.”
Martha ghi lại một ấn tượng khác, “Lần đầu tiên, tôi nhận thấy nỗi sợ hãi không giấu giếm hiện trên gương mặt nhà văn.”
Về cơ bản, Fallada trở thành một nhân vật gây tranh cãi trên văn đàn Đức, bị nhiều nhóm chửi rủa vì đã không đứng lên dũng cảm đương đầu với Quốc xã, nhưng lại được các nhóm khác bảo vệ vì không lựa chọn con đường lưu đày an toàn hơn. Nhiều năm sau chuyến thăm của Martha, Fallada thấy mình ngày càng bị buộc phải bẻ cong ngòi bút vì những đòi hỏi của nhà nước Quốc xã. Ông chuyển sang chuẩn bị các bản dịch cho Rowohlt, trong số này có cuốn Sống bên cha của Clarence Day, hồi ấy rất nổi tiếng tại Mỹ, viết các tác phẩm vô thưởng vô phạt mà ông hi vọng sẽ không chạm đến dây thần kinh nhạy cảm của Quốc xã. Trong số này là tuyển tập các truyện thiếu nhi về chiếc xe kéo đồ chơi của trẻ em, (Hoppelpoppel, bạn ở đâu?).
Ông thấy sự nghiệp có khởi sắc ngắn ngủi, khi cuốn tiểu thuyết mang tựa đề Sói giữa bầy sói được xuất bản năm 1937, cuốn sách mà nhiều quan chức Đảng cho rằng là đòn tấn công xứng đáng vào thế giới Weimar cũ, được đích thân Goebbels mô tả là “một tác phẩm siêu phàm”. Ngay cả thế, Fallada vẫn ngày càng nhượng bộ nhiều hơn nữa, cuối cùng ông cho phép Goebbels viết phần kết tiểu thuyết mới của mình, Gustav sắt, khắc họa đời sống gian nan trong cuộc Thế chiến vừa qua. Fallada xem đây như sự nhượng bộ khôn ngoan. “Tôi không thích những cử chỉ vĩ đại,” ông viết, “như bị sát hại trước ngai vàng kẻ bạo chúa, chết một cách vô nghĩa, chẳng có lợi cho ai mà con cái tôi còn phải khổ cực, đó không phải cách của tôi.”
Tuy nhiên, ông nhận ra rằng nhiều nhượng bộ ảnh hưởng tới việc viết lách. Ông viết thư cho mẹ kể rằng ông không hài lòng với công việc. “Con không thể hành động theo ý mình - nếu còn muốn sống. Đến thằng ngu cũng chẳng nhượng bộ nhiều đến thế.”
Các nhà văn khác trên đường lưu đày, đã theo dõi Fallada với sự khinh bỉ, khi ông và nhiều anh em di cư nội tâm uốn gối nghe lời Chính phủ. Thomas Mann, người sống ở nước ngoài suốt thời gian Hitler cầm quyền, về sau đã viết bài văn bia cho họ: “Có thể là mê tín, nhưng trong mắt tôi, bất kì cuốn sách nào có thể được in tại Đức, vào khoảng năm 1933 đến 1945, đều là rác phẩm chẳng ma nào thèm đụng tới. Một thứ mùi hôi thối của máu kèm theo đó là nỗi nhục nhã. Tất cả bọn chúng đều đáng bị nghiền nát.”
Nỗi sợ hãi và sự đàn áp Martha cảm thấy ở Fallada ngự trên đỉnh ngọn núi bằng chứng ngày càng tăng suốt mùa xuân, bắt đầu gặm mòn sự mê đắm của cô với nước Đức mới. Sự đồng tình mù quáng của cô với chế độ Hitler lần đầu tiên phai nhạt thành chủ nghĩa hoài nghi đồng cảm, nhưng khi mùa hè đến gần, cô cảm thấy khiếp sợ sâu sắc.
Cô đã từng có thể gạt bỏ vụ đánh đập tại Nuremberg như một chương riêng rẽ, giờ đây cô nhận thấy hành hạ người Do Thái tại Đức đã biến thành trò tiêu khiển trên toàn quốc. Cô thấy mình bị đánh gục bởi tiếng sấm tuyên truyền không ngừng của Quốc xã, khắc họa người Do Thái như kẻ thù của Nhà nước. Giờ đây khi lắng nghe câu chuyện phản Quốc xã của Mildred và Arvid Harnack cùng bạn bè họ, cô không còn cảm thấy thực sự có xu hướng bảo vệ “những kẻ xa lạ” của cuộc cách mạng non nớt, những người cô đã từng say đắm. “Vào mùa xuân năm 1934,” cô viết, “những gì tôi đã nghe, đã thấy và cảm nhận cho tôi biết rằng điều kiện sống còn tồi tệ hơn những ngày trước khi có Hitler, rằng cái hệ thống khủng bố phức tạp nhất, nghẹt thở nhất đang cai trị đất nước, bóp nghẹt tự do và niềm hạnh phúc của người dân. Điều không tránh khỏi là các nhà lãnh đạo nước Đức đang dẫn dắt đám đông ngoan ngoãn, nhân hậu này vào một cuộc chiến khác, trái với ý muốn và nhận thức của họ.”
Tuy nhiên, cô vẫn chưa sẵn sàng công khai tuyên bố thái độ mới của mình với thế giới. “Tôi vẫn cố gắng giữ kín thái độ thù địch của mình, không biểu hiện ra ngoài.”
Thay vào đó, cô chọn cách quanh co khi cố tình để lộ ra xu hướng trái ngược, niềm hứng thú mới mẻ và nhiệt thành đối với kẻ thù lớn nhất của chế độ Hitler, Liên bang Xô Viết. Cô ghi lại, “Trong tôi bắt đầu nảy sinh sự hiếu kì đối với bản chất của chính phủ này, bị nước Đức và dân Đức căm ghét, được mô tả là cực kì tàn bạo.”
Trái ý cha mẹ, nhưng lại được Boris khuyến khích, cô bắt tay lên kế hoạch cho một chuyến đi thăm Liên bang Xô Viết.
Đến tháng sáu, Dodd đã hiểu “vấn đề Do Thái”, như ông tiếp tục gọi thế, chẳng được cải thiện một chút nào. Lúc này, trong lá thư gửi Ngoại trưởng Hull, ông nói “triển vọng chấm dứt có vẻ ngày càng xa vời.” Như Messersmith, ông thấy rằng sự hành hạ đang lan tràn rộng khắp, cho dù nó đã thay đổi về tính chất, trở nên “tinh tế và ít phô trương hơn”.
Vào tháng Năm, ông báo cáo Đảng Quốc xã đã triển khai một chiến dịch chống lại “bọn hay càu nhàu và bới bèo ra bọ”, tức là tái đẩy mạnh Đồng hóa. Điều này không tránh khỏi sẽ làm tăng sức ép lên người Do Thái. Tờ báo của Goebbels, Der Angriff bắt đầu thúc giục độc giả “giữ đôi mắt sắc sảo nhìn bọn Do Thái và báo cáo bất kì thiếu sót nào của chúng,” Dodd viết. Các ông chủ Do Thái của tờ Frankfurter Zeitung bị ép phải từ bỏ lợi ích kiểm soát của mình, như những người chủ Do Thái trước kia của đế chế xuất bản danh tiếng Ullstein. Một công ty cao su lớn được lệnh phải cung cấp bằng chứng không có nhân viên Do Thái, trước khi có thể nộp thầu cho các chính quyền thành phố tự trị. Hội Chữ Thập Đỏ Đức bất thình lình bị yêu cầu phải chứng thực rằng các mạnh thường quân mới có nguồn gốc Aryan. Và hai thẩm phán ở hai thành phố khác nhau cho phép hai người đàn ông được li hôn vợ, với lí do duy nhất rằng họ là phụ nữ Do Thái, rằng những cuộc hôn nhân này sẽ sinh ra lũ trẻ pha trộn chủng tộc, chỉ tổ làm suy yếu nước Đức.
Dodd viết: “Những ví dụ này và nhiều ví dụ khác ít quan trọng hơn cho thấy một cách thức đối xử mới với người Do Thái - một biện pháp được tính toán làm sao ít phải nhận chỉ trích từ bên ngoài, nhưng vẫn phản ánh được quyết tâm của Quốc xã muốn ép buộc người Do Thái phải rời khỏi đất nước.”
Siết chặt kiểm soát kiểu mới cũng áp dụng với dân Aryan. Trong một thông điệp khác viết cùng ngày, Dodd mô tả Bộ Giáo dục tuyên bố phân chia tuần học của trường, sao cho các buổi tối thứ Bảy và thứ Tư sẽ dành riêng cho Lực lượng Thanh niên Hitler.
Kể từ đó, ngày thứ Bảy được gọi là Staatsjugendtag, Ngày Thanh niên Quốc gia.
Thời tiết vẫn ấm, thi thoảng có mưa. Thứ Bảy, ngày 02 tháng 06 năm 1934, với nhiệt độ lên đến hai mươi bảy độ C, Đại sứ Dodd viết nhật kí: “Nước Đức lần đầu tiên khô hạn: cây cối và những cánh đồng vàng úa. Giấy tờ ngập đầy các mô tả về hạn hán ở Bavaria và cả ở Mỹ.”
Tại Washington, Moffat cũng ghi chép về thời tiết. Trong nhật kí, ông ta gọi kiểu thời tiết này là “nóng kinh hoàng” và ngày Chủ nhật, 20 tháng 05, trời bắt đầu nóng cao độ, với đỉnh điểm ba mươi tư độ C, trong văn phòng của ông ta.
Dĩ nhiên, chưa ai biết nước Mỹ sắp bước vào đợt hạn hán thứ hai trong hàng loạt đợt hạn hán do sự cố địa chất, sẽ sớm biến Đại Bình nguyên102 thành một Vùng Bão Bụi.
102 Đại Bình nguyên: vùng đồng cỏ và cao nguyên rộng lớn, trải dọc theo miền Trung nước Mỹ và một phần lãnh thổ Canada.