Khi tôi làm việc, không có bất cứ cơ hội lơ đễnh nào. Với tôi nó giống như một liệu pháp chữa lành
Gửi Mike.
Cảm ơn vì tất cả thời gian anh sát cánh bên chúng tôi. Cảm ơn anh đã cho chúng tôi thấy ý nghĩa thực sự của dịch vụ chí tôn. Chúng tôi tán thưởng anh. Anh đã dạy chúng tôi đừng bao giờ từ bỏ ước mơ của mình. Một ngày nào đó chúng sẽ trở thành sự thật. Đây là lời chúc chúng tôi dành cho anh.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho anh ấy:
Một vài người bạn luôn thấu hiểu và đồng hành cùng anh ấy
Một công việc tạo ra giá trị thực sự, một thế giới nếu không có nó, chẳng phải nghèo nàn lắm sao
Một tâm trí luôn mạnh mẽ không quản gian khó, mặc con đường phía trước có bao nhiêu chông ngai
Một trái tim thấu hiểu
Một tinh thần hài hước
Một khoảng lặng cho tâm trí tĩnh lại
Một cảm giác về sự hiện diện của Chúa Trời, sự kiên nhẫn để chờ những điều này đến, với sự khôn ngoan để nhận ra khi chúng đến.
Cầu Chúa tiếp tục chỉ đường cho anh, Mike. Chúng tôi yêu anh.
Từ tất cả Cộng sự tại Phố 93, Broadway.
Trích Lời chúc được viết cho tôi vào ngày làm việc cuối cùng với
Crystal và các cộng sự
THẤU HIỂU HIỆN TẠI, ĐI TỚI TƯƠNG LAI
Tôi phát hiện ra một số người quen cũ sẽ chẳng nhận ra nếu họ tình cờ đến cửa hàng tôi làm, nhưng điều này cũng hiếm lắm. Đội lên đầu chiếc mũ lưỡi trai đen và khoác lên mình tạp dề xanh lá, tôi gần như vô hình với họ. Khi tôi lướt qua những người bạn cũ, tôi có cảm giác mình không chỉ là lướt qua. Tôi đang vượt lên khỏi những tàn tích quá khứ, một bản thân kiêu ngạo của trước đây
THÁNG BA
Ca làm việc cuối cùng của tôi sẽ bắt đầu vào lúc một giờ chiều. Tại nhà ga xe lửa vùng ngoại ô, lúc này Mặt Trời đã cao đến đỉnh đầu. Nhưng tôi biết mình còn rất nhiều thời gian để đến cửa hàng ở New York. Nhảy lên chuyến tàu tốc hành, tiến đến nhà ga Grand Central. Chạy đi bắt chuyến xe đến Quảng trường Thời Đại. Nhảy xuống nhà ga số 3 đến Phố 93. Bây giờ tôi đã có thể thực hiện tất cả chuỗi hành động điên cuồng này như thể đấy là một chuyến du hành thiền định. Tôi hầu như không nghĩ đến chúng – cứ như một vận động viên bơi lội ngừng vùng vẫy và hòa mình theo dòng nước. Tuy nhiên trong mỗi chuyển động đều nhắc nhở tôi, chiều nay chính là ngày cuối cùng.
Chúng tôi thường đùa với nhau rằng cửa hàng Strarbucks này là cửa hàng tốt nhất ở Broadway. Bây giờ tôi sẽ rời Broadway đến một cửa hàng nằm ngay cạnh căn hộ của tôi ở Bronxville.
Tiết kiệm cả một quãng đường đi làm dài là một động thái tốt với tôi. Nhưng tới điểm này trong đời, tôi biết nếu một khi đã rời đi, sẽ chẳng thể dễ dàng quay trở lại. Tôi sẽ quay lại – thỉnh thoảng – để chào những người Cộng sự tại Phố 93, Broadway. Nhưng tôi sẽ không bao giờ có thể làm việc với họ nữa.
Khi đang bước lên cầu thang từ ga tàu điện ngầm, hướng về phía bầu trời tháng Ba đầy mây, đập vào mắt tôi, một đôi giày Lobb, đôi giày nam đắt nhất thế giới.
Tôi thoát khỏi vòng lặp hành động thường ngày. Rất dễ để nhận ra một đôi giày Lobb. Chúng phát ra một loại ánh sáng từ bên trong, loại da của đôi này phát sáng như vàng được đánh bóng. Và, tất nhiên người chủ cũng sẽ luôn giữ cho chúng có vẻ bóng bẩy nhất. Để có được một đôi, bạn phải đến cửa hàng tại London và nhờ Lobb làm khuôn cho đôi chân của bạn. Sau đó, họ sẽ tạo nên một đôi giày phù hợp với các số đo độc nhất của bạn. Mỗi cặp thường có giá vài nghìn đô-la.
Mắt tôi dịch dần từ cuối lên trên, người này đang khoác lên mình bộ suit hai hàng nút màu xanh lam với những đường kẻ sọc đậm. Chắc hẳn nó đã được làm thủ công bởi một thợ may ở London. Một bộ đồ như vậy khéo còn đắt hơn cả đôi giày. Có ai lại chi hàng nghìn đô cho vẻ ngoài của mình mà lại vẫn đi tàu điện ngầm? Những đôi giày, bộ đồ như vậy thường chỉ xuất hiện trên những chiếc xe limo hay ít nhất là những chiếc ta-xi.
Cùng người đàn ông hào nhoáng này bước vào trời chiều u ám, tôi nhận ra có điều gì đó sau dáng đi vụng về của anh chàng. Anh ta di chuyển với vẻ kiêu ngạo giống hệt một người bạn cùng lớp tôi ở Buckley và Yale. Ai cũng biết cậu ta là kẻ giàu có cực kỳ keo kiệt: Everett Larkin Fallowes. Một người sẵn sàng chi hàng nghìn đô cho bản thân, nhưng lại chọn đi tàu điện ngầm vì muốn tiết kiệm vài đô-la tiền boa cho tài xế ta-xi. Anh ta nổi tiếng là không bao giờ boa tiền cho ai. Có một lần Everett đã đánh nhau với tài xế, và suýt chút nữa bỏ mạng.
Một năm trước, tôi đã rất háo hức lùng sục công ty của anh ta. Everett (theo cách anh ta yêu cầu bạn bè gọi mình) từng là một tượng đài của tầng lớp bên trên trong mắt tôi. Trước khi làm việc cho Starbucks, tôi đã liên hệ với anh ta trong trạng thái bất an, tự nhủ với mình rằng đó là cơ hội cần thiết để trở về cuộc sống cũ của tôi. Tuy nhiên, ngày hôm nay, tôi đã không còn cần phải đến thăm thế giới tôi từng cho là an toàn nữa.
Tôi lướt qua Everett để vào bên trong cửa hàng. Tôi phát hiện ra một số người quen cũ sẽ chẳng nhận ra nếu họ tình cờ đến cửa hàng tôi làm, nhưng điều này cũng hiếm lắm. Đội lên đầu chiếc mũ lưỡi trai đen và khoác lên mình tạp dề xanh lá, tôi gần như vô hình với họ.
Bây giờ tôi đang đội chiếc mũ Starbucks của mình, và Everett Larkin Fallowes không thèm liếc nhìn tôi lần thứ hai. Khi tôi lướt qua anh ta, tôi có cảm giác mình không chỉ là lướt qua. Tôi đang vượt lên khỏi những tàn tích quá khứ, một bản thân kiêu ngạo của trước đây.
Tôi đi qua quầy bar, tiến vào văn phòng phía sau. Không gian này chứa đựng đầy ắp những kỷ niệm. Tôi nhớ lại cái ngày ngay sau hôm tôi đi làm ở Starbucks, khi tôi nghe thấy tiếng Crystal nói chuyện qua điện thoại về những lo lắng của cô ấy khi làm bài thuyết trình. Tôi nhớ khoảnh khắc đó đã thay đổi tôi, thay đổi Crystal như thế nào. Tôi nhớ cái bản tính hách dịch trước đấy, và lời nói của cô đã cảnh tỉnh tôi như thế nào. Rằng những lời khuyên của tôi sẽ chẳng một ai thèm để ý nếu vẫn như thế. Và tôi nhớ ánh mắt hoài nghi của cô khi nói về nguyên tắc KISS và Ba chữ P. Tôi còn nhớ vẻ mặt vui mừng khôn xiết Crystal khi cô nghe chủ tịch nói rằng mình đã hoàn thành công việc rất tốt. Kể từ lúc đó, tôi dần trở thành một người không thể thiếu với cô ấy.
Chính tại văn phòng này, Crystal đã thông báo về việc chuyển tôi đến Bronxiville. Khi cô ấy ôm tôi trong hạnh phúc, tôi đã ôm lại cô ấy, và nước mắt tôi trào ra. Quả là đúng, người đời nói chẳng sai: Bạn càng lớn tuổi, bạn càng “mít ướt”. Điều đó chắc chắn đúng với tôi. Bất cứ khi nào JWT đề nghị tôi thay đổi toàn bộ cuộc sống, chuyển đến LA hoặc Toronto hoặc D.C, tôi rất vui lòng chuyển đi. Dù đó là một thách thức, xây dựng một văn phòng mới, một nền tảng mới ở nơi hoàn toàn mới. Tôi yêu cảm giác đó. Nhưng giờ đây, tôi, một ông già vừa được trao cho một cuộc đời mới, vừa làm quen với những người bạn mới, công việc mới. Tôi không muốn rời khỏi khung cảnh quen thuộc này.
“Anh không cần phải đi, Mike,” Crystal nói ra những suy nghĩ trong tôi, “nhưng điều này sẽ tốt hơn cho anh.”
“Vâng, tôi biết… nhưng tôi sẽ nhớ cô.”
“Tôi cũng vậy,” Crystal nói, nhưng ở tuổi hai mươi tám của cô, khởi hành cho một hành trình mới không phải là điều đáng buồn. Một tương lai tươi sáng hơn đang vẫy gọi chúng ta.
Tôi sẽ nhớ Crystal vô cùng, những lời khuyên của cô, lòng tốt của cô. Crystal luôn gọi tôi là “anh chàng vui tính” trước những Cộng sự khác.
Tôi nhìn vào lịch trình hàng ngày được dán trên tường văn phòng. Tôi rất thất vọng, tôi muốn nói một lời tạm biệt hẳn hoi. Tôi nhận ra Kester, huấn luyện viên, người cố vấn đầu tiên của tôi, sẽ không đi làm cho đến ngày mai. Ngay cả bản thân Charlie Nhạc công, cũng sẽ bỏ lỡ ca trực của tôi.
Với rất nhiều Cộng sự, người đến người đi từ cửa hàng này cửa hàng khác, tôi đã chuẩn bị việc rời đi này là chuyện thường tình. Tôi biết tôi có thể trở lại và gặp họ vào một lúc nào đó. Tuy nhiên, sau những ngày gắn bó với mọi người, một phần trong tôi âm ỉ đau đớn. Chúng tôi đã không thể sắp xếp lịch trình để cùng nhau trải qua ngày cuối cùng này.
Tôi đi xuống tầng hầm, mặc lên mình chiếc tạp dề xanh lá quen thuộc. Tầng hầm là nơi chúng tôi cất giữ những hạt cà phê, thêm những chiếc cốc, cả những chai si-ro, và những bộ đồng phục. Đó là nơi riêng tư duy nhất trong cửa hàng. Vì vậy, chúng tôi có thoải mái thay đồ mà không bị quấy rầy. Vào buổi chiều cuối cùng đó, tôi bước lên cầu thang, chuẩn bị cho ca làm cuối cùng của mình với một trái tim nặng trĩu.
Tôi lướt qua bảng thông báo trên đường đến quầy bar, tôi nhận ra “ảnh chụp nhanh khách hàng” mới được đăng. Với dòng chữ bên trên: “Xin chúc mừng, Mike.”
Đó là tôi!
Cứ vài tuần lại có một “khách hàng” bí mật đến để đánh giá hoạt động của chúng tôi và báo cáo lại với ban quản lý của Starbucks. “Ảnh chụp nhanh khách hàng” này đã được chụp khi tôi làm việc sau quầy bar. Các tiêu chí chính là:
Bạn có giao tiếp bằng mắt không?
Bạn có chào hỏi khách hàng không?
Bạn có cảm ơn các vị khách không?
Bạn có là người bắt chuyện trước?
Bạn có nhận ra khách quen qua loại đồ uống hay tên không?
Tôi đạt tất cả các tiêu chí và cửa hàng nhận được năm sao cho “dịch vụ chí tôn”. Năm sao là cao nhất, và tôi biết cửa hàng Broadway của chúng tôi chưa bao giờ đạt hơn bốn sao trước đây.
Tôi lướt qua.
Đi lên quầy phía trước. Trời, Tawana đang đứng ở quầy pha cà phê espresso. Một người tôi không muốn gặp nhất ngày hôm nay. “Mike,” cô ấy gọi to với giọng hách dịch, “trông quầy thu ngân ở giữa nhé.”
Bị đẩy vào quầy thu ngân, trước mặt tôi là ba chiếc máy tính tiền. Tôi lấy tiền mặt trong ngăn kéo trở lại văn phòng để đếm. Đủ rồi, 150 đô-la. Rồi cầm số tiền đó để lại ngăn kéo, đóng sập nó lại với cảm giác đầy tự tin như các Cộng sự khác. Tôi đã thành thục các kỹ năng của một nhân viên thu ngân hơn trước. Bây giờ đang có một hàng chờ dài ở hai quầy khác.
“Xin chào, Bianca,” tôi chào với Cộng sự bên trái. Cô nở một nụ cười ấm áp đáp lại tôi.
Bên phải tôi là Joann. Cô ấy nhanh chóng nhìn qua và chào đón tôi với một tiếng gọi vui vẻ, “Cảm ơn đã đến giúp!” Joann luôn niềm nở với tôi.
“Tập trung đi, Mike,” Tawana nhắc nhở để đảm bảo tôi không mất tập trung quá lâu.
Trước khi tôi có cơ hội tiếp vị khách đầu tiên, cô ấy nói, “Tôi sẽ gia nhập Thủy quân lục chiến.”
“Chúc mừng cô,” tôi đáp lại. “Cô sẽ thích cuộc sống đó.” Và đó không chỉ là lời nói giỡn thôi đâu. Tôi đã từng làm việc với Thủy quân lục chiến, và tôi biết họ là những con người đầy nhiệt huyết, cũng giống như Tawana vậy.
“Tôi sẽ vào đó với tư cách là một sĩ quan,” Tawana nói. “Sau khi công tác tại Quantico.”
“Tuyệt,” tôi trả lời. Tawana thích quản lý những người xung quanh, vì vậy công việc này chính là cơ hội để cô giải tỏa “cơn thịnh nộ” của mình theo cách tích cực.
“Tôi có thể giúp gì cho ngài?” Tôi hỏi.
Người trước mặt tôi là Tiến sĩ Paul. Sinh hoạt thường ngày của ông nhịp nhàng như chiếc đồng hồ. Ông đến đây vào mỗi sáng để thửng thức một ly Tall Cappuccino với chiếc bánh vòng được phết mứt lên trên. Vào buổi chiều, ông ấy sẽ gọi một ly Grande Skim Latte.
“Ngài muốn một cốc Grande Skim Latte chứ?” Tôi cất lời hỏi Tiến sĩ Paul trước.
“Đúng vậy, Mike.” Trí nhớ của tôi chính là lợi thế khi làm công việc này. Và Tiến sĩ Paul luôn thể hiện sự quan tâm bằng cách gọi tên tôi. Không chỉ tôi mà cả những Cộng sự khác nữa. Đây là một cửa hàng “nhà bên”, và các vị khách ở đây đều thích cảm giác thân thiện này.
“Ngày cuối anh ở đây à?” Tiến sĩ Paul hỏi.
“Đúng vậy,” tôi ngạc nhiên khi ông ấy vẫn nhớ. Khoảng hơn một tuần trước, tôi đã nói với một số khách hàng thân quen của mình rằng tôi sẽ chuyển đi.
“Tôi sẽ rất nhớ anh đấy, anh bạn,” ông nói.
“Tôi cũng vậy,” tôi đáp, “nhưng tôi sẽ luôn có thể gặp ngài qua những quyển sách.”
“Đúng, đúng vậy,” Tiến sĩ Paul cười, “nhưng anh thậm chí còn không bị viêm khớp.”
“Ngài không thể chắc chắn được đâu,” tôi đáp lại khi ông di chuyển xuống quầy bar để lấy đồ uống. Tiến sĩ Paul đã viết một cuốn sách về cách sống chung với bệnh viêm khớp. Ông ấy đã tặng tôi một quyển.
Tôi nhớ lại những ngày đầu tiên gặp ông, và cả những vị khách khác nữa. Rất nhiều người đã hỏi, “Ở đây họ đối xử với bạn thế nào?”
“Công việc tốt nhất đời tôi,” tôi sẽ trả lời như vậy. “Phục vụ cà phê và bánh ngọt thì sẽ tệ như thế nào chứ?” Và tôi không đùa đâu. Thực sự tôi rất vui khi làm việc tại Starbucks, được phục vụ những vị khách, giúp họ cảm thấy dễ chịu hơn.
Tôi gọi to tên đồ uống của Tiến sĩ Paul cho Tawana ở quầy bar.
“Một Grande Skim Latte,” Tawana hét lại, đập cốc xuống dưới quầy bar. Cô ấy đã làm rất tốt công việc, nhưng dường như mọi thứ đều được thực hiện với một sự giận dữ. Những kẻ xấu hãy cẩn thận – chiến binh Tawana đang tới. Tôi mừng là cô ấy luôn mạnh mẽ như vậy.
Tiếp theo là Denise, cô vẫn trông xinh đẹp như mọi khi trong chiếc mũ độc đáo của cô. “Chuyện kinh doanh nghệ thuật của cô như thế nào rồi, Denies?”
“Ừm, bây giờ… Hi vọng nó sẽ tốt lên.”
“Tôi gọi cho cô một cốc Half-caf1 Grande nhé?”
1 Half-caf là một loại đồ uống được pha với một nửa là cà phê espresso thường và một nửa là cà phê đã được chắt lọc caffeine.
“Thật tuyệt vời, Mike, cảm ơn anh.”
“Chào buổi chiều, Ella,” tôi chào khi Robert và con gái của anh ấy, Ella, bước vào cửa hàng. Vào thời điểm này mỗi ngày, hai bố con họ sẽ xuất hiện. Robert từng là nhân viên bán hàng không gian (space salesman) cho tạp chí New York. Nhưng anh đã lui về làm ông chồng nội trợ khi Ella được sinh ra. Vợ anh ấy làm việc cho Goldman Sachs.
“Một cốc Latte và một phần sô-cô-la nóng cho trẻ em đúng không ạ?
“Đúng rồi, Mike, có đúng là anh chuẩn bị rời đi không?” Tôi gật đầu. “Sẽ hợp lý hơn… khi chuyển đến làm ở một cửa hàng gần nơi tôi sống.”
“Ella, sắp tới Mike sẽ đến làm ở một cửa hàng khác,” Robert nói với con gái.
“Tạm biệt, Mike,” Ella, một cô bé ba tuổi đang vui vẻ, lạc quan chào tạm biệt tôi.
“Tạm biệt, Ella, chăm sóc ba con nhé.”
“Chắc chắn rồi,” Robert bật cười, bế cô bé lên và đi xuống quầy bar.
Tôi chắc rằng sẽ có những gia đình xung quanh cửa hàng mới của tôi, nhưng tôi sẽ nhớ hai bố con họ. Bản thân tôi rất muốn có những suy nghĩ tích cực như Ella. “Xin chào” hay “Tạm biệt”, cái nào cũng đều gây hứng thú cho cô bé. Và tôi cũng nên vậy.
“Chào mọi người.” Tôi chào một nhóm thanh niên từ trường Collegiate thường xuyên ghé qua cửa hàng. Họ đang trêu đùa nhau khi đến gần quầy, nhưng họ luôn biết dừng lại đúng lúc. “Ba cốc Tall Mocha Frappuccino và một cốc Tall Java Chip Frappuccino1.”
1 Mocha Frappuccino; Java Chip Frappuccino đều là những thức uống biến thể của loại cà phê đá xay hay còn gọi là Frappucino.
Một thanh niên giơ thẻ Starbucks ra.
“Một người thanh toán?” Tôi hỏi dù đã biết sẵn câu trả lời.
“Không thể nào,” cậu ta nói. “Nào các cậu, hãy đặt tiền lên quầy đi.”
Mỗi chàng trai cẩn thận đếm tiền lẻ, và anh chàng trưởng nhóm trẻ này tính tổng chính xác đến từng xu.
Phía sau các chàng trai là Eleanor, ba lô của cô chất đầy tập giấy tờ cần chỉnh sửa. Cô đang dạy ở một trường công lập địa phương và thường sửa giấy tờ trong khi nhâm nhi một tách trà Earl Grey.
“Tôi sẽ lấy cho cô một cốc trà nhé, Eleanor,” tôi nói. Những người thu ngân luôn phải tự pha trà. Cầm cốc và nước nóng, tôi chợt nhớ đến không gian quầy bar chỗ Tawana đứng.
“Mike?” Tawana nói. Hôm nay hình như cô ấy nói nhiều hơn bình thường.
“Vâng?” Tôi thận trọng đáp. “Đây là ngày cuối của anh?”
“Đúng thế.”
“Nghe này.”
Cầm trên tay một miếng vải ướt màu trắng, cô lau mạnh các vòi đun sữa trên máy pha cà phê espresso.
“Luôn phải giữ đầu vòi sạch sẽ.”
Tôi gần như bật cười. Đó có phải những lời cuối cùng, tốt đẹp nhất cô ấy dành cho tôi? “Vâng, cảm ơn Tawana,” tôi nói, cúi đầu xuống, tiếp tục công việc pha trà dang dở.
Một giờ sau, khi ca làm của Tawana kết thúc, tôi không thể nói rằng mình đã rất xúc động khi thấy cô ấy rời đi. Khi đi ra khu phía sau, cô ấy “gầm” lên, “Tiếp quản đi, Yvette!” Tôi nghĩ cô ấy “thô lỗ” với tất cả. Tawana cởi tạp dề và mũ lưỡi trai, hất tóc. Cứ như muốn rũ bỏ tôi và mọi người khi cô ấy đi ra khỏi cửa mà không một lời từ biệt. Đúng như cách cô ấy luôn ra về, bỏ lại mọi thứ ở phía sau.
Yvette tiếp quản quầy bar. Tôi ngay lập tức cảm thấy thoải mái hơn. “Chào Mike.” Cô ấy ôm tôi. “Anh thế nào rồi?” Cô hỏi.
“Tốt. Đây là ngày cuối của tôi.”
“Ôi,” cô buông tay xuống. “Tôi quên mất… Thật tệ quá!” Trông cô buồn bã. Tôi có thể hiểu tại sao Yvette quên mất. Cô luôn phải thay phiên liên tục giữa công việc ở Starbucks và việc học trên trường.
“Tôi sẽ chuyển đến một cửa hàng gần nơi tôi sống,” tôi nói với cô ấy. “Tôi sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí đi lại.”
“Tuyệt,” Yvette nói, “nhưng tôi sẽ nhớ anh. Anh rất vui tính.”
Cô ấy ôm tôi thật chặt và lâu. Hài hước. Một lần nữa. Cách Crystal thường mô tả về tôi. Lần này tôi bật cười thành tiếng.
“Xin chào, Rachel,” tôi nói với vị khách tiếp theo. “Một cốc Decaf Grande Latte như mọi ngày?”
“Hãy bỏ qua phần Decaf giúp tôi,” Rachel nói.
“Cho tôi một đồ uống tuyệt nhất. Tôi không còn là bà bầu nữa rồi, Mike.”
Rachel bế đứa con bé bỏng xinh đẹp của mình trên tay.
“Một cốc Grande Latte cho Rachel,” tôi gọi lớn tên đồ uống cho Yvette, và nghe thấy tiếng vọng đầy năng lượng của cô.
Tôi nhận ra rằng những vị khách ở đây, Rachel, Tiến sĩ Paul, Denies và Ella bé nhỏ, tất cả đã trở thành một phần tốt đẹp trong cuộc sống gần đây của tôi.
Tôi đã làm việc chăm chỉ suốt chiều hôm đó. Cửa hàng luôn nhộn nhịp với đủ kiểu người khác nhau. Giáo viên. Sinh viên. Doanh nhân trên đường đi làm. Những người đang chuẩn bị có hẹn – từ phỏng vấn xin việc cho đến đi học trên trường. Cũng có nhiều bà mẹ mang con mình đi trong chiếc xe đẩy, tìm kiếm một khoảng nghỉ ngơi giữa ngày. Cửa hàng này chính là nơi dừng chân tuyệt vời – một điểm lưng chừng giữa nhà và chỗ làm.
Dòng người xếp hàng không bao giờ đứt, và tôi thực sự quá bận rộn để nghĩ đến hôm nay là ngày cuối cùng. Một trong những điểm sáng của công việc tại Starbucks, chính là nó luôn bận rộn đến mức bạn không thể nghĩ về bất cứ điều gì ngoài việc phục vụ khách hàng. Khi tôi làm việc, không có bất cứ cơ hội lơ đễnh nào. Với tôi nó giống như một liệu pháp chữa lành.
ĐÃ ĐẾN LÚC CHÚNG TA SỐNG VỚI LÝ TƯỞNG CỦA MÌNH
Tôi bước ra ngoài, bầu trời đêm mùa đông, với một trái tim được sưởi ấm bằng tình yêu thương
Khoảng năm giờ chiều, tôi ngạc nhiên khi thấy Charlie.
Nhạc công xuất hiện.
“Chào, Charlie,” tôi gọi cậu ấy, “ngày cuối cùng của tôi rồi. Tôi muốn nói lời tạm biệt.”
Charlie nhảy chân sáo đến gần tôi, cậu đập tay và nói: “Hẹn gặp lại.”
Sau đó cậu ta đi ra phía sau cửa hàng.
Giờ tôi đã cảm thấy tốt hơn. Ít ra thì tôi cũng có cơ hội nói lời tạm biệt với Charlie. Tôi đã cho cậu ấy số liên lạc của một người làm trong lĩnh vực âm nhạc mà tôi quen từ nhiều năm về trước. Charlie nói với tôi rằng người đó đang giúp cậu làm một “CD chuyên nghiệp thực thụ.”
Sau đó, khoảng sáu giờ kém mười lăm, ngay khi tôi định kéo ngăn kéo máy thu ngân và ký giờ ra về, Kester xuất hiện. Cậu ấy bước vào với một nụ cười tươi trên mặt.
Kester bắt tay tôi, và sau đó làm khoảng mười lăm động tác khác, cuối cùng chúng tôi kết thúc bằng một cú húc đầu.
“Được rồi,”Kester nói, và đi về phía sau quầy.
Đúng sáu giờ, Crystal xuất hiện. Một cảm giác gì đó đang dậy sóng trong lòng tôi, một cảm giác biết ơn ấp ám. Tôi đã dần hiểu ra. Những người bạn Cộng sự thân thiết nhất với tôi đều từ nơi họ sống đến đây để cùng tôi trải qua ngày làm việc cuối cùng này. Điều này thật hiếm có. Chẳng phải chúng ta sẽ chẳng mấy khi ghé thăm cửa hàng nếu không có ca làm?
Ngay cả Anthony cũng xuất hiện, một Cộng sự mà tôi từng nói là đẳng cấp thực sự ở đây. Anthony cũng phải đi cả một chặng đường từ Bronx, gần bằng quãng đường tôi đi làm, nhưng cậu ấy luôn giữ đôi giày mình sáng bóng hoàn hảo.
“Ngài Mike, xin chào,” Anthony gọi tôi. Cậu ấy bắt chước một Cộng sự khác gọi tôi như vậy. Tôi kéo ngăn kéo máy thu ngân và đi ra phía sau.
Tất cả đều ở đó. Crystal ngồi trên ghế, cô đang cười vì điều gì đó Kester vừa nói. Charlie đang thư giãn nghe nhạc bằng đôi tai nghe của cậu ấy. Anthony, cao khoảng 1m82, cậu đang dựa vào tường với nụ cười dịu dàngi. Khi tôi bước vào phòng, mỗi người liền tán thưởng một câu.
Họ quan sát, chờ tôi hoàn thành công việc đếm tiền, còn nốt vài cent nữa.
“Một kết thúc dứt khoát lắm,” Kester nói và mọi người đều bật cười.
“Này, Mike,” Kester tiếp tục, cậu ấy rõ ràng là “kẻ đầu sỏ” trong nhóm này, “anh đã có kế hoạch gì cho tối nay chưa?”
“Tôi sẽ về thẳng nhà.”
“Đi ăn tối... với chúng tôi thì sao?”
Tôi vô cùng cảm động trước lời đề nghị của họ. “Chắc chắn rồi,” tôi đáp.
Khi chúng tôi rời Starbucks, Kester lôi ra một chiếc máy ảnh nhỏ xinh xắn, và nhấn mạnh rằng nhất định phải chụp trước cửa hàng. Bầu trời quang đãng, và mặt trời đỏ rực vừa mới lặn. Kester nhờ một người qua đường chụp ảnh giúp chúng tôi.
“Thêm một kiểu nữa đi ạ,” Charlie nói to. “Chiếc máy ảnh thích tôi.”
Tôi chắc chắn nó đúng. Tôi cố gắng đếm xem có bao nhiêu khách nữ đã hỏi tôi số điện thoại của Charlie trong năm qua.
Ai cũng đều cảm thấy thoải mái khi đến quán bar gần đó. Tôi chưa bao giờ ăn ở đó, hoặc vào đó trước đây, nhưng Kester và những người khác thì biết nó rất rõ. Họ gọi đồ uống và thức ăn, và sẽ không để tôi trả tiền cho mọi thứ.
Crystal thả mình vào bữa tiệc, cười đùa và chơi bi-a. Tôi cũng bắn bi-a, lần đầu tiên sau bốn mươi năm, và thật may là tôi đã không xử sự như một kẻ ngốc. Bianca tham gia cùng chúng tôi vào buổi tối, và Joann cũng đến – nhưng chỉ trong một phút. Cô ấy cảm thấy không được khỏe.
Thời gian như ngừng trôi, tôi nhìn đồng hồ, giờ đã là một giờ sáng. Mọi người vẫn còn nhiều năng lượng, nhưng tôi không còn trẻ như họ. Khi họ thấy tôi chuẩn bị đi, Crystal đã ngăn tôi lại. Kester, Anthony, Charlie và Bianca đều đang nói chuyện tại một chiếc bàn sau quầy bar. Tất cả đều im lặng khi Crystal đứng dậy.
“Đây là điều tôi luôn luôn muốn nói với anh, Mike. Anh là một anh chàng vui tính.”
Mọi người đều cười to và hò hét cổ vũ.
“Anh đã đem đến rất nhiều dịch vụ huyền thoại cho chúng tôi… Tôi nghiêm túc đó… nhưng quan trọng hơn, anh luôn là chính mình. Chúng tôi có một bài thơ tặng anh.”
“Tất cả chúng tôi đều viết,” Charlie xen vào.
“Đúng vậy, nhưng tôi còn làm nhiều hơn thế,” Crystal nói. “Còn tôi thì không làm gì cả,” Kester nói, “nhưng tôi sẽ nhớ anh, Mike. Chúng ta đã cùng nhau trải qua một buổi chia tay tuyệt vời.”
Crystal đọc bài thơ, cô khóc. Tôi đã đề nghị tất cả mọi người cùng ký vào đó. Đối với tôi, bài thơ này còn tuyệt vời hơn bất kỳ tấm bằng, giải thưởng nào.
“Giờ đến lượt tôi, tôi có chuyện muốn nói,” tôi nói.
“Anh luôn có chuyện muốn nói!” Kester nói và mọi người bật cười.
“Đúng vậy, Kester, cậu đã cứu tôi một mạng. Kester đã cứu nguy cho tôi đêm hôm đó.”
Kester từng nói rằng tôi đừng đề cập đến chuyện cậu ấy “giải quyết” vị khách hàng mất kiểm soát với một con dao. Cậu ấy nói Crystal sẽ “giết” cậu nếu cô biết. Vì vậy tôi đã im lặng cho đến bây giờ. Nhưng tôi sẽ nói với họ những gì tôi cảm thấy.
“Crystal, cô và Kester, Charlie Nhạc công,” có tiếng cười rúc rích, “và Bianca, Quý ngài Anthony,” tiếng cười ngày một to hơn, “những người bạn Cộng sự của tôi, tất cả các bạn đã cứu mạng tôi.”
Tôi không thể nói thêm gì nữa. Tôi bắt tay với từng người, và hứa sẽ thường xuyên đến thăm họ. Kester và Charlie vỗ mạnh vào lưng tôi – thật mạnh. Anthony bắt tay tôi và nói, “Anh đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong cuộc đời tôi, anh bạn.”
Bianca khẽ hôn tôi. “Hãy chăm sóc bản thân nhé, Mike.”
Crystal không nói gì thêm, chỉ ôm tôi thật chặt, cái ôm này làm tôi gần như không thở nổi.
Rồi tôi bước ra ngoài, bầu trời đêm mùa Đông, với một trái tim được sưởi ấm bằng tình yêu thương của họ.