Những người khiêm tốn sẽ tiến bộ
Trích dẫn của Wynton Marsalis, nhạc sĩ nhạc jazz, được in trên cốc Double1 Tall2 Skim3 Latte4 của Starbucks
1 Tại Starbucks, để có thể gọi gấp đôi lượng cà phê espresso, khách hàng cần thêm vào tên đồ uống của mình Dobio hoặc Double.
2 Tall là chỉ cỡ cốc nhỏ tại Starbucks. Ngoài ra còn có các size khác: Grande là cỡ vừa, Venti là cỡ lớn, Trenta là cỡ cực lớn (chỉ áp dụng với các loại đồ uống lạnh).
3 Ở Starbucks, khi khách hàng muốn sử dụng loại sữa gầy, có hàm lượng chất béo trong thành phần rất thấp (skim milk) thì sẽ cần thêm “Skim” vào đơn đồ uống của mình.
4 Latte là kiểu cà phê sữa của Ý, được làm từ nguyên liệu chính là Espresso và sữa, trong đó Espresso chiếm 1/3, lượng sữa đánh nóng gấp đôi lượng bọt sữa. Đặc biệt lớp bọt sữa trên cùng sẽ được tạo hình nghệ thuật.
Đây là câu chuyện có thật, đầy bất ngờ về một ông già da trắng bị đá khỏi đỉnh cao của giới thượng lưu Mỹ, tình cờ gặp một người phụ nữ trẻ người Mỹ gốc Phi. Nhờ một người có một hoàn cảnh sống hoàn toàn khác biệt, ông đã tìm ra được những điều quý giá trong cuộc đời mình. Từ nhỏ, người đàn ông đã sống trong nhung lụa ở khu phía Đông Thượng Manhattan1, còn người phụ nữ, sống trong cảnh nghèo khó ở vùng dự án của Brooklyn. Ông đã từng có một công việc quảng cáo phát triển rực rỡ, nhưng giờ chẳng còn gì. Còn cô, một người lớn lên từ đường phố, bây giờ đã có một cuộc sống thành công – đến nỗi cô có thể cho một người lạ cơ hội tự cứu mình.
1 Khu dân cư thượng lưu được thiết kế nằm dọc Đại lộ Madison.
Đây là câu chuyện của tôi, và giống như mọi câu chuyện giật gân khác, nó bắt đầu bằng một sự tình cờ.
BONG BÓNG QUÁ KHỨ LÀ THỨ CHÚNG TA MÃI CHẲNG THỂ NẮM GIỮ
Bạn đã bao giờ muốn được trở về trong sự bao bọc của ngôi nhà thời thơ ấu khi cuộc sống quá khó khăn chưa? Tôi chỉ có một mong muốn, đó là quay ngược thời gian
THÁNG BA
Đáng nhẽ tôi nên ở một nơi khác, tránh xa nơi đã đảo lộn toàn bộ cuộc đời tôi. Vào một ngày mưa tầm tã của tháng Ba năm ngoái, tôi chỉ có một mong muốn, đó là quay ngược thời gian.
Bạn đã bao giờ muốn được trở về trong sự bao bọc của ngôi nhà thời thơ ấu khi cuộc sống quá khó khăn chưa? Tôi là con trai duy nhất trong nhà, nhận được mọi sự yêu chiều của bố mẹ, dù chẳng mấy khi họ dành thời gian ở nhà. Giờ tôi chỉ muốn tìm lại cảm giác được về nơi yêu dấu tôi từng có trong vũ trụ này. Tự lúc nào, tôi đã thấy mình đứng trên Phố 78 khu phía Đông, nhìn chằm chằm vào căn nhà đá nâu bốn tầng. Đó là nơi tôi đã lớn lên.
Tôi bỗng nhớ lại hình ảnh ngày xưa, có một chiếc cần cẩu đang nâng cây đại dương cầm Steinway vào phòng khách tầng hai. Mẹ tôi là người quyết định cho tôi học dương cầm. Lúc đó, bố tôi đã cực kỳ hưởng ứng ý tưởng này. Chỉ có thứ tốt nhất mới xứng với đứa con trai duy nhất của ông. Và vì vậy, ông ấy đã vội vã ra ngoài mua loại đàn lớn nhất, đắt nhất. Sau khi mua chiếc đàn Steinway khổng lồ, một vấn đề nan giải xuất hiện. Làm thế nào để đưa cây đàn tuyệt vời này vào nhà của chúng tôi, một ngôi nhà đã hàng trăm năm tuổi với những bậc thang hẹp và dốc.
Nhưng rồi, mọi thứ dần êm xuôi. Bố tôi nảy ra một ý tưởng. Ông thuê một cần cẩu, sau đó thuê người nâng nó lên tầng hai, ở đó họ sẽ mở các cửa sổ kiểu Pháp và xoay ngang cây dương cầm. Bằng cách đó, chiếc đàn đã yên vị trong căn phòng tầng hai. Bố tôi rất tự hào về thành quả của mình, mẹ tôi cũng rất vui mừng. Tất nhiên, tôi cực kỳ hạnh phúc. Bởi, tôi, chính là lý do cho sự kiện bất thường này.
Ngày hôm nay, khi nhìn vào tòa nhà cổ kính đã từng là mái ấm của mình, tôi mới nhận ra, những hành động hoang phí đó mới “xa hoa” biết bao. Còn giờ thì sao, tôi đã tuột dốc đến đâu so với quãng thời gian hạnh phúc đó. Đã là một chặng đường rất dài kể từ thời thơ ấu của tôi, từ chỗ tiền chưa bao giờ là vấn đề, tôi bây giờ gần như đã cháy túi.
Quay lưng lại với những tiện nghi của quá khứ, tôi tìm kiếm chút thoải mái trong một ly Latte. Bữa chiêu đãi cuối cùng của tôi. Đó là cửa hàng Starbucks tại một góc Phố 78 Lexington, tôi nhớ, từ thuở mình còn bé, từng có một cửa hàng bánh ngọt ở nơi đó. Bàng hoàng, chán nản, tôi chẳng còn tâm trạng để để tâm đến những thứ khác, kể cả chiếc bảng hiệu trước cửa với dòng chữ: “Sự kiện Tuyển dụng”. Cũng phải thôi, nó đâu phải loại bảng hiệu tôi cần để ý từ trước đến nay. Mãi đến sau này, tôi mới biết, mỗi tuần, Starbucks sẽ tổ chức sự kiện tuyển dụng tại các cửa hàng khác nhau ở New York. Quản lý từ mỗi cửa hàng trong khu vực sẽ đến để phỏng vấn những Cộng sự1 tương lai. Bây giờ nhìn lại, tôi mới nhận ra những vận may từng biến mất khỏi cuộc đời tôi, nó đã quay trở lại, vào ngay khoảnh khắc tôi chọn bước vào cửa hàng ở góc Phố 78.
1 Những người làm việc tại Starbucks sẽ gọi những người cùng làm việc với mình là “cộng sự” thay vì “đồng nghiệp”.
Chìm trong cái kén tự thương hại cùng nỗi nhớ về gia đình lẫn vận may đã mất, tôi gọi món Latte của mình rồi đi đến một cái bàn nhỏ. Tôi lẳng lặng ngồi xuống. Không cần để ý bất kỳ ai xung quanh, tôi chìm đắm vào không gian riêng của mình. Tôi đã cố, cố rất nhiều để hiểu rõ về một cuộc sống đã hoàn toàn rời xa tôi.
“Anh có muốn làm việc không?”
Tôi giật thót mình. Người lên tiếng ngồi ở chiếc bàn ngay bên cạnh, đang sắp xếp một số giấy tờ với hồ sơ. Cô là một phụ nữ trẻ người Mỹ gốc Phi. Trông cô ấy cực kỳ có sức hút trong bộ đồng phục Starbucks. Trước đó, tôi chỉ đi thẳng đến bàn mà chẳng bận tâm đến ai xung quanh, thậm chí người ngồi ngay bàn bên. Nhưng giờ nhìn thấy người phụ nữ ấy, tôi để ý đến chiếc vòng tay bạc và một chiếc đồng hồ lạ mắt trên cổ tay cô. Cô ấy trông thật vững vàng và tự tin.
Tôi ngây người ra. Tôi không quen với việc bắt chuyện với người khác ở Starbucks. Trong vài tháng qua, tôi thường xuyên lui tới nhiều cửa hàng Starbucks trong thành phố, tuy nhiên với tôi chúng không phải là nơi để thư giãn hay trò chuyện, mà là “văn phòng”. Nơi tôi có thể gọi cho các khách hàng tiềm năng, mặc dù không ai trả lời lại. Công ty tư vấn nhỏ tôi lập lên đã nhanh chóng lụn bại. Tiếp thị và quảng cáo là ngành kinh doanh của người trẻ tuổi, và ở tuổi sáu mươi ba, tôi đã thấy rằng những nỗ lực của mình được đáp lại bằng sự im lặng tuyệt đối.
“Một công việc,” người phụ nữ lặp lại, mỉm cười, như thể tôi chưa nghe được cô ấy nói. “Anh có muốn làm việc không?”
Chẳng lẽ tôi dễ bị nhìn thấu thế à? Mặc kệ bộ đồ Brooks Brothers1 kẻ sọc của tôi cùng dáng vẻ kiểu “Cái rốn của Vũ Trụ” (chưa kể đến chiếc điện thoại tôi để trên chiếc cặp da đắt tiền T. Anthony, như thể tôi đang đợi một cuộc gọi quan trọng), cô ta vẫn có thể nhận ra tôi là một kẻ thất bại của cuộc đời? Liệu tôi, một cựu giám đốc sáng tạo của J. Walter Thompson, một công ty quảng cáo lớn nhất thế giới, lại muốn có một công việc tại Starbucks?!
Đó là một trong vài dịp trong đời, tôi không thể nghĩ ra lời nói dối lịch sự hay bất kỳ câu trả lời nào ngoài sự thật.
“Có,” tôi nói không chút do dự, “tôi muốn có một công việc.”
1 Brooks Brothers là một thương hiệu thời trang lâu đời tại Mỹ.
Tôi chưa từng phải đi tìm việc trước đây. Sau lễ tốt nghiệp tại Yale vào năm 1963, tôi đã nhận được một cuộc gọi từ James Henry Brewster đời thứ tư, cậu ấy một người bạn của tôi ở trong Skull & Bones1.
1 Skull & Bones (tạm dịch: Đầu lâu và Xương chéo) là một tổ chức bí mật của hội sinh viên cuối cấp tại Đại học Yale.
“Gates,” cậu ấy nói một cách quả quyết, “tôi đang sắp xếp cho cậu làm tại J. Walter Thompson.”
Jim đang làm việc cho Pan Am Airways, hãng hàng không lớn nhất thế giới vào thời điểm đó và là khách hàng lớn của J. Walter Thompson. Đó là một công ty quảng cáo thường được gọi với cái tên JWT trong giới kinh doanh. Hai chúng tôi đã có khoảng thời gian vui vẻ cùng nhau tại trường đại học – chẳng phải sẽ thật tuyệt nếu làm việc cùng nhau bây giờ!
Jim nhanh chóng sắp xếp cho tôi một cuộc phỏng vấn. Khi tôi đến gặp những người ở JWT, tôi tự tin về cơ hội mình đang có. Tôi không chỉ có “cửa sau” thông qua Jim, mà ông chủ của JWT lúc đó, Stanley Resor, là một cựu học sinh Yale khác. Con trai của ông, Stanley Resor Jr., đã từng ở cùng phòng với một người chú của tôi tại Yale. Mới vào mùa Hè trước, tôi đã có cơ hội đến thăm gia đình Resor tại trang trại rộng hai ngàn mẫu của họ tại Jackson Hole.
Những mối quan hệ này là rất thiết yếu. Quảng cáo được coi là một nghề hấp dẫn. Quảng cáo truyền hình vừa mới ra đời, và chúng nhanh chóng trở nên hài hước và thú vị với mọi người.
Chẳng phải, rất nhiều người trong chúng ta đều muốn tham gia vào một ngành kinh doanh mà bạn vừa có thể kiếm được nhiều tiền, nhưng cũng vừa có cái nét sáng tạo cho hình ảnh cá nhân của mình. Chương trình đào tạo của JWT được coi là tốt nhất trong ngành, và nó chỉ thuê một hoặc hai copywriter1 một năm.
1 Copywriter là những người viết văn bản cho mục đích quảng cáo, tăng nhận thức về thương hiệu, sản phẩm.
Tôi chính là một trong hai người đó.
Đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Tất cả những gì tôi phải làm là nói và viết – các kỹ năng đến rất tự nhiên với tôi. Họ đã trả tiền cho tôi nhiều một cách đáng ngạc nhiên. Sau nhiều lần làm tốt công việc của mình, nhiều khách hàng đã đánh giá cao những ý tưởng sáng tạo của tôi.
Tôi cũng thấy rằng, hóa ra tôi rất thích thuyết trình. Tôi thích thực hiện chúng theo những cách độc đáo để mang lại sự sống và tiếng cười vào những cuộc họp nhàm chán. Ví dụ, bởi vì chúng tôi đã tạo ra dòng chữ “Các lính thủy đánh bộ đang tìm kiếm những người đàn ông tuyệt vời” nên chúng tôi đã được gọi đến đấu thầu cho một tài khoản tuyển dụng trị giá hàng triệu đô-la của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
Bài thuyết trình được tổ chức trong phòng tác chiến ở Lầu Năm Góc. Khi bước vào, tôi thấy một hàng người, những người đàn ông đeo huân chương đầy mình đang ngồi quanh ở cái bàn to chính giữa. Đây là Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ. Họ ngồi như những bức tượng đá. Rõ ràng họ chẳng có mấy vui vẻ vì đột nhiên bị kéo vào một cuộc họp tiếp thị phù phiếm như thế này.
Tôi đi đến trước căn phòng, mang va-li đựng danh mục đầu tư của mình ra. Tôi lấy ra một cây cung và một mũi tên. Một người khác trong nhóm chúng tôi đi đến phía đối diện. Ở đó có tấm bia tôi đã vẽ bằng bút Magic Marker trên một mảnh xốp. Tôi muốn kịch tính hóa sự thật rằng chúng tôi tin vào tiếp thị mục tiêu. Tôi muốn nói chuyện bằng một công cụ mà những người đàn ông trong quân đội này sẽ cảm thấy gần gũi: Vũ khí. Vì chúng tôi là người đầu tiên trong số mười ba công ty mà những người này sẽ nhìn thấy, tôi muốn đảm bảo rằng họ sẽ nhớ đến chúng tôi.
Tôi giương cung và bắn mũi tên. Ơn Chúa, nó đâm trúng hồng tâm. Trong một khoảnh khắc, cả căn phòng im lặng tuyệt đối. Không ai di chuyển. Không ai nói gì. Sau đó, cả bốn nhà lãnh đạo quân sự đã vỗ tay, có một vài tiếng reo hò và cười vang. Chúng tôi đã giành được một khách hàng.
Ngoài chuyện yêu thích công việc này, tôi đã làm việc cực kỳ chăm chỉ. Có một tấm bảng chấm công trong sảnh chính tòa nhà văn phòng JWT ở New York, tôi luôn cố gắng trở thành một trong những người đầu tiên đến và là một trong những người cuối cùng đi về. Như mong đợi, tôi nhanh chóng được thăng cấp và phất lên như diều gặp gió, chuyển từ copywriter sang giám đốc sáng tạo rồi đến phó chủ tịch điều hành một loạt các dự án với những khách hàng lớn, bao gồm Ford, Burger King, Christian Dior, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và IBM.
Tôi luôn sẵn sàng đi bất cứ nơi nào để giúp khách hàng của mình. JWT là một công ty quốc tế, nó yêu cầu bạn luôn phải chuẩn bị tinh thần đi khắp mọi nơi, cả trong nước lẫn quốc tế. Tôi đã không ngần ngại rời bỏ gia đình, rời bỏ những đứa con thơ để chuyển đến làm việc tại các văn phòng ở Toronto, Washington D.C và Los Angeles. Bằng cách nào đó, giữa các đợt quảng cáo tôi lại có thể tìm được thời gian để kết hôn, có một tuần trăng mật dài hai tuần và, tất nhiên, bốn đứa trẻ. Tôi xem công việc là một phần quan trọng của người trụ cột cho gia đình. Khi xuất hiện những vấn đề liên quan đến gia đình, không có quá nhiều thứ cần đánh đổi. Vì vậy, JWT đã trở thành ưu tiên hàng đầu của tôi.
Tuy nhiên, mỉa mai thay, tôi đã chọn bay hàng trăm ngàn dặm để dành thời gian cho khách hàng thay vì ở bên cạnh các con tôi. Dần dần, các khách hàng mới là “con tôi”. Còn những đứa con bé bỏng của tôi, chúng lớn lên mà chẳng mấy khi có sự xuất hiện của bố nó. Tự lúc nào, đứa con gái bụ bẫm, đáng yêu của tôi, Annie, giờ đã thành một quý cô xinh đẹp chuẩn bị tốt nghiệp trung học? Tôi đã rơi nước mắt khi thấy Annie cầm trên tay tấm bằng tốt nghiệp của mình. Trong khoảnh khắc, con bé trông thật trưởng thành và đủ chín chắn rời khỏi căn nhà, rời xa vòng tay tôi. Tôi nhận ra, một sự thật rõ ràng đến đau lòng, tôi đã bỏ lỡ không biết bao nhiêu khoảnh khắc quý giá với Annie, với tất cả các con của mình.
Tuy là vậy, tôi vẫn một mực thuyết phục bản thân mình – ngay cả lúc đó – rằng đấy là sự hi sinh xứng đáng, bởi vì JWT đã hỗ trợ tôi rất nhiều. Tiền lương của tôi luôn cao chót vót còn phúc lợi thì thật tuyệt vời. Bởi vậy nếu bọn trẻ có học tiếp lên đại học cùng một loạt các thể loại hóa đơn điên rồ, tôi sẽ không cần phải quá lo lắng.
Trong tâm trí tôi, tôi thậm chí đã tự chúc mừng mình: Đây là lý do tại sao bạn là người khôn ngoan nếu cống hiến hết mình cho một công ty – sự ổn định và các khoản tiền lương. Giống như nhiều người đàn ông thuộc thế hệ chúng tôi, họ chấp nhận vai trò của “trụ cột gia đình”, tôi đã hợp lý hóa sự tận tâm của mình trong công việc và tin tưởng vào JWT.
Trung thành một cách mù quáng, tôi còn làm việc nhiều giờ hơn trước, luôn sẵn sàng điều chỉnh lịch trình cá nhân của mình cho phù hợp khách hàng. Tôi nhớ, có lần tôi còn nhận được một cuộc gọi từ khách hàng Ford vào ngày Giáng sinh, khi đó con tôi còn nhỏ. Tôi định dành một ngày nghỉ hiếm hoi ở nhà, cùng chơi với Elizabeth, Annie, Laura và Charles. Tôi sẽ có cơ hội tận hưởng những giây phút thư thái bên cạnh gia đình mình, trở thành một người chồng, một người bố đúng nghĩa.
Nhưng sự thật phũ hàng, khách hàng của tôi bất chợt gọi đến, họ nói muốn thực hiện một sự kiện bán hàng cho năm mới và hỏi tôi có thể quay một số quảng cáo không? Ford luôn thích lối chơi tấn công bất ngờ. Và vì họ đã chi hàng triệu đô-la cho quảng cáo, bạn khó có thể nào an toàn từ chối lời đề nghị họ đưa ra nếu bạn là một người coi trọng sự nghiệp của mình.
“Tất nhiên,” tôi trả lời. “Các anh định khi nào bắt đầu?” “Ngay bây giờ,” người ở đầu dây bên kia nói.
Tôi nghe lời nhấn mạnh đó và ngay lập tức hiểu rằng mình phải đi, để lại những đứa con thơ ở nhà, dù chúng khóc lóc thảm thiết. Những món quà của chúng chỉ mới được mở ra, bày trên sàn phòng khách, và mọi người vẫn mặc trên mình bộ quần áo ngủ. Nhưng tôi là một người đàn ông JWT trung thành. Tôi gọi một chiếc ta-xi đến sân bay và bay đến Detroit.
KHI TỰ MÃN Ở ĐỈNH VINH QUANG, NGƯỜI TA SẼ PHẢI BÀNG HOÀNG VỚI NHỮNG GÌ SẮP ĐẾN
Bên ngoài, Mặt trời vẫn đang chiếu sáng muôn nơi. Tôi bỗng tuyệt vọng nhận ra, mình không còn nơi nào để đi.
Lần đầu tiên sau hai mươi lăm năm, không có bất cứ khách hàng nào chờ đợi tôi giảng giải cho họ về một chiến dịch truyền thông nữa
Tôi từng rất tự hào rằng mình chưa bao giờ từ chối bất kỳ công việc nào mà JWT đã yêu cầu. Lúc đó nó là một cú sốc thực sự, sau hai mươi lăm năm cống hiến cho sự nghiệp, tôi nhận được một cuộc gọi từ quý cô trẻ tuổi, Linda White, giám đốc điều hành cấp cao của JWT.
“Ngày mai hãy ăn sáng cùng tôi,” cô nàng đưa ra chỉ thị.
Những từ ngữ đó không phải là điềm lành khi được thốt ra từ một đồng nghiệp. Tôi quý Linda. Vài năm trước, tôi đã thuyết phục được những ông bạn già rằng chúng ta cần một người phụ nữ trẻ thông minh. Linda đã làm rất tốt, và dưới sự giúp đỡ của tôi, cô ấy thuận lợi từng bước tiến vào Hội đồng quản trị. Trở thành người phụ nữ duy nhất trong hội đồng. Trên thực tế, Linda bây giờ đã là chủ tịch, cô ấy có lẽ phải đứng cao hơn tôi vài bậc trong hệ thống phân cấp của công ty.
Cô là nhân viên yêu thích nhất của ông chủ mới của JWT, một người Anh tên là Martin Sorrell. Bởi xuất thân kế toán trước đây, nên anh ta đặc biệt chú ý đến lợi nhuận ròng. Trước khi Martin đến, JWT gần giống như một tổ chức phi lợi nhuận. Chúng tôi chuyên thực hiện các hoạt động truyền thông tốt nhất cho khách hàng của mình mà không lo lắng về lợi nhuận ròng.
Còn Martin thì nghĩ khác. Anh ta nói với các cổ đông rằng anh quan tâm đến việc thúc đẩy lợi nhuận của họ hơn là chi tiêu để đạt được dự án tầm cỡ cao nhất. Anh ta tạo một cuộc thâu tóm “thù địch” với công ty chúng tôi. Chúng tôi đã chiến đấu với anh ta, nhưng Martin có những kẻ keo kiệt bậc nhất Phố Wall (các nhân viên kế toán) đứng về phía mình. Và với lợi thế đó, anh ta dễ dàng chiến thắng.
Tôi đã có mặt trong một cuộc họp, khi đó Martin đã thẳng thừng nói, “Tôi thích có những người trẻ tuổi ở bên cạnh mình”. Đáng nhẽ, tôi thực sự nên lắng nghe những gì anh ta nói và nhận ra những gì sắp xảy đến.
Bản thân Martin mới chỉ ngoài bốn mươi. Linda vừa mới qua tuổi ba mươi. Không có gì ngạc nhiên khi cả hai lại hợp rơ với nhau đến vậy. Những người trẻ tuổi, thông minh, họ rất muốn loại bỏ những người mà họ cảm thấy là những “kẻ già cỗi”.
Và buổi sáng đó đã đến, Linda đến muộn. Thêm một điềm xấu khác. Ở doanh nghiệp Mỹ, địa vị của bạn càng cao, bạn càng ung dung. Dù cố tình hay vô thức làm vậy, Linda vẫn đang làm đúng theo phong cách này.
Đôi mắt Linda đỏ ngầu. Trông giống như cô ấy đã khóc rất nhiều. Lại thêm một điềm xấu nữa. Tôi biết Linda quý tôi, cô ấy luôn cảm thấy biết ơn tôi vì đã giúp đỡ sự nghiệp của cô ấy. Nhưng tôi cũng biết, trong thế giới doanh nghiệp hiện đại không có chỗ cho tình cảm.
Đúng là tôi vẫn giỏi trong lĩnh vực mình làm, nhưng phải nói thật, cả quãng đời trưởng thành tôi dành ra để giúp JWT thành công đều không đáng nhắc tới.
Tôi đã gặp Linda tại một bữa tiệc. Cô vừa tốt nghiệp MBA từ Harvard và có bằng đại học về lịch sử nghệ thuật. Như tôi đã nói với cô ấy, đó là một sự kết hợp bách chiến bách thắng trong quảng cáo – cô ấy sẽ rất giỏi trong khoản đưa ra những ý tưởng sáng tạo, trong khi vẫn đảm bảo toàn bộ quá trình tạo ra lợi nhuận. Và quả nhiên, tôi đã đúng.
Nhưng chỉ riêng bằng cấp sẽ không giúp Linda được nhận vào. Tôi đã phải tạo dựng hình ảnh cô ấy "trượng phu" hơn bất kỳ chàng trai nào chúng tôi có thể thuê. Khi giúp Linda chuyển sang tầng quản lý cao nhất của JWT, tôi đã viết một bản tóm tắt mô tả cô ấy là một “người thành đạt nghiêm khắc”. Tôi đã đưa bản tóm tắt đó cho Linda.
“Chẳng lẽ tôi thực sự không vị tha đến mức đó sao?” Linda hỏi tôi, gần như tự ái.
“Không, có lẽ là không,” tôi nói. “Nhưng là một người phụ nữ thành đạt, cô phải được nhìn nhận là cứng rắn như bất kỳ người đàn ông nào – đặc biệt là trong quản lý. Có lẽ còn khắc nghiệt hơn so với khi cô ở cấp dưới. Nghiêm cẩn tính toán từng con số, bao gồm cả tính toán nhân sự, là phong cách quản lý Martin thực sự thích.”
Tôi đã giúp Linda tập trung vào chất cứng của công việc kinh doanh: tiền, và thái độ không nhân nhượng đối với việc cắt giảm “chi phí quá hạn mức”. Đối với quảng cáo, khoản này luôn luôn là con người. Và bây giờ, chi phí quá hạn mức là tôi.
Tôi mỉm cười với cô ấy. Tôi sẽ không khóc. Vậy mà tôi cảm thấy muốn biến khỏi đây. Trái tim đau nhói. Có phải tôi đang lên một cơn đau tim? Không, tôi chỉ cảm thấy buồn, thực sự buồn. Và cả tức giận với bản thân. Tại sao tôi không nhận ra các điềm báo? Linda liên tục thăng tiến và thăng tiến trong sự nghiệp của mình tại JWT. Còn tôi mãi dậm chân tại chỗ.
Linda vượt qua tôi nhanh chóng. Martin quý Linda. Nói một cách lịch sự, theo kiểu Anh, rõ ràng Martin không thể chịu nổi việc đứng cùng với tôi. Với mái tóc bạc thưa thớt của tôi, tôi là một nỗi xấu hổ đối với loại công ty trẻ, thon gọn, khó tính, thay đổi nhanh mà anh ta muốn điều hành.
“Michael,” Linda nói, “Tôi có một số tin xấu.” Tôi mân mê chiếc bánh muffin1 của mình, sẵn sàng để đối diện với đôi mắt của cô ấy.
1 Muffin là một dòng bánh ngọt có nguồn gốc từ Pháp. Loại bánh này ban đầu có tên là Moufflet, nghĩa là bánh mì ngọt làm nhanh.
Người phục vụ đến gặp để xem chúng tôi có cần thêm gì không. Những người phục vụ thường vẫn nghĩ rằng những người già luôn sẽ có tiền và làm chủ mọi chuyện.
Tôi lắc đầu, và anh ta lùi lại.
“Hãy nói cho tôi nghe đi,” tôi đã nói một cách nghiêm nghị. Tôi sẽ không cầu xin sự thương xót. Tôi biết nó sẽ không có tác dụng gì. Tôi hi vọng rằng ít nhất Linda đã tranh luận vì tôi, vì ơn nghĩa lúc xưa. Nhưng đến khi bạn đến buổi gặp mặt ở một bữa ăn sáng, bên ngoài văn phòng, mọi chuyện đã là quá muộn. Tôi biết tôi chỉ còn là quá khứ.
“Chúng tôi phải để ông đi, Michael.” Cô ấy máy móc phát âm từng từ một. Không, đúng ra là, cô đã rất khó khăn để nói được chúng ra, đặc biệt là cái từ quá đỗi lừa đảo mang đậm phong cách doanh nghiệp kia – “chúng tôi”.
“Đó không phải là quyết định của tôi,” cô ấy vội vã thêm vào, và một giọt nước mắt bắt đầu rơi xuống má. Cô nhanh chóng lấy tay gạt nó đi, xấu hổ vì cảm xúc của chính mình – đặc biệt là trước mặt người đàn ông đã dạy cô phải thật cứng rắn. Tôi không nghĩ cô ấy đang diễn. Tôi nghĩ rằng cô ấy thực sự không vui, khi tôi bị sa thải và khi cô ấy lại được chọn để làm việc khó khăn này.
Xét từ tư duy mấu chốt, đó là, như người ta thường nói, một “chuyện đương nhiên”. Có rất nhiều người trẻ có thể viết và nói nhanh như tôi, mà chỉ mất một phần tư chi phí. Nếu Linda từ chối sa thải tôi, cô ấy sẽ không thể là một phần của “tổ chức quản lý xã hội đen” đó. Đấy là một bài kiểm tra về lòng trung thành của cô ấy, Linda sẽ đặt nó nằm ở đâu: ở một người sáng tạo đã già nua, người đã giúp đỡ cô trong quá khứ, hay ở chỗ một bậc thầy tài chính trẻ tuổi, người hiện đang điều hành công ty?
Linda phải chứng minh với Martin rằng cô không nhân nhượng. Bàn tay bạn buộc phải “nhuốm máu” để gia nhập tổ chức. Linda sẽ chứng minh được giá trị của mình ngay ngày hôm nay, vào ngay lúc này.
Tôi cố gắng mạnh mẽ nhất có thể. Ít nhất là trong vài phút nói chuyện với Linda.
Linda nói với tôi rằng tôi sẽ được trả một khoản tiền trị giá một tuần tiền lương hiện tại cho mỗi năm tôi đã làm việc tại JWT. Cô ấy xin lỗi vì không còn gì khác nữa, thêm vào đó cô ấy tin rằng tôi đã dành dụm được cái gì đó trong suốt những năm tốt đẹp vừa qua.
May ghê nhỉ! Tôi tự nhủ. Tôi có một ngôi nhà đầy những đứa trẻ cần ăn học!
Miệng tôi khô khốc. Không còn gì để nói.
“Được rồi,” Linda nói, bắt đầu đứng lên. “Ông không cần phải quay lại văn phòng để đóng gói đồ đạc. Chúng tôi sẽ làm việc đó.”
Lại lần nữa, “chúng tôi”. Linda đã sẵn sàng cho thời kỳ đỉnh cao của mình.
“Tôi muốn tổ chức một bữa ăn trưa chia tay cho ông, Michael, ông đã đóng góp rất nhiều,” Linda đứng thẳng dậy nói. “Tôi sẽ gọi cho ông khi tổ chức nó. Và Jeffrey Tobin phòng Nhân sự sẽ gặp ông bất cứ khi nào ông muốn, để xem qua tất cả chi tiết của gói thỏa thuận thôi việc của ông.”
Thoáng qua trong đầu tôi xuất hiện vài ý nghĩ kiện JWT, hoặc viết những lá thư phá hoại cho tất cả khách hàng. Nhưng Martin và Linda đã tính trước về điều đó. “Có lẽ ông sẽ muốn trở thành một kiểu như nhà tư vấn sáng tạo chẳng hạn,” Linda tiếp tục nói, giọng nói cô ấy cương quyết hơn, “Martin và tôi sẽ cung cấp cho ông những lời tiến cử tuyệt vời. Cá nhân tôi sẽ giúp ông bằng mọi cách có thể,” cô ấy nói thêm. Tôi đã chết tiêu tại JWT, nhưng cô ấy sẵn sàng giữ cho tôi sống tiếp, nếu tôi là một "cậu bé ngoan".
Bị sa thải không phải là khởi đầu tốt đẹp nếu tôi muốn mở một công ty tư vấn. Nhưng tôi biết mình cần thiện chí của JWT để có bất kỳ cơ hội kinh doanh nào từ các khách hàng cũ của tôi, hoặc bất kỳ ai khác. Nếu tôi gây rắc rối, tôi sẽ gặp rắc rối và tôi đừng mơ sẽ nhận được bất kỳ mối làm ăn nào.
Người phục vụ phiền phức lại xuất hiện, tôi xua tay ý bảo anh ta đi.
Linda siết chặt cả hai cánh tay tôi, gần giống như là một cái ôm nhưng không phải. “Hãy nhớ gọi Jeffrey, Michael. Anh ấy yêu quý ông. Anh ấy cũng sẽ giúp ông.”
Rồi Linda quay đi và sải bước ra khỏi nhà hàng.
Người phục vụ quay trở lại, lần cuối cùng, đưa cho tôi hóa đơn. Bên ngoài, Mặt trời vẫn đang chiếu sáng. Tôi bỗng tuyệt vọng nhận ra, mình không còn nơi nào để đi. Lần đầu tiên sau hai mươi lăm năm, không có bất cứ khách hàng nào chờ đợi tôi giảng giải cho họ về một chiến dịch truyền thông nữa.
Tôi bắt đầu bước đi và khóc, ngay trên đường phố đông đúc. Thật là nhục nhã. Khóc! Tôi khóc! Vào cái tuổi năm mươi ba, tôi nhận được “giấy báo tử” cho sự nghiệp của mình. Tôi biết sâu thẳm trong lòng, sắp tới sẽ là một khoảng thời gian tồi tệ khi mà tôi đã già, lại còn phải lang thang trên đường phố.
ĐỐI MẶT VỚI HIỆN THỰC LÀ CÁCH DUY NHẤT ĐỂ CHÚNG TA ĐI TIẾP TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI
Đối với tôi, việc cởi mở tiếp xúc với một phụ nữ người Mỹ gốc Phi ở mức độ cá nhân, đã mở ra những ký ức về mối quan hệ thực sự gần gũi duy nhất tôi từng có
Và giờ mọi chuyện thành ra như thế này đây.
Vâng, tôi muốn có một công việc. Tôi chưa từng nói những lời đó trong suốt quãng thời gian ba mươi lăm năm trước. Đã ba mươi lăm năm kể từ khi nhận công việc đầu tiên tại JWT. Và đã mười năm kể từ khi tôi bị sa thải khỏi vị trí cấp cao của mình tại JWT.
Tôi tự mình thành lập một công ty tư vấn. Ngay lập tức đã có một vài phi vụ tốt từ những khách hàng cũ đến với tôi. Nhưng sau đó, dần dà, ngày càng ít các cuộc gọi được đáp lại. Đã được vài tháng kể từ dự án cuối cùng. Ngay cả một ly cà phê cũng trở thành một thứ xa xỉ mà tôi không còn đủ khả năng chi trả.
Bây giờ, liếc nhìn một nhân viên Starbucks tự tin, tươi cười đang ngồi phía trước kia, tôi cảm thấy buồn cho chính mình. Cô ấy trông có vẻ vô tư, rất trẻ, cô ấy còn rất nhiều lựa chọn. Nhưng rồi, sau này, tôi mới biết rằng những khó khăn cô gái ấy gặp phải trong cuộc đời nhiều hơn số khó khăn mà tôi có thể thấy trong ba kiếp sống.
Mẹ cô, người đã qua đời khi cô mới mười hai tuổi, là một người nghiện ma túy. Cô chưa bao giờ biết đến hơi ấm của một người bố. Khi mẹ cô ra đi vì dùng thuốc quá liều, cô đã được gửi đến sống với một người dì, một người mẹ đơn thân khác. Người dì đó đã có một vài đứa con cũng chẳng có mấy tình yêu thương từ bố chúng.
Dì của cô là một người cay nghiệt. Cô ấy có lần kể cho tôi nghe về vụ cô ấy rơi xuống cầu thang xi-măng của dự án ở Brooklyn nơi mình sống. Hông cô bị vỡ, nhưng người dì cáu quắt của cô chỉ quát tháo rằng cô quá vụng về, và từ chối đưa cô đến bệnh viện. Bộ xương được cố định, nhưng theo một cách tệ hại khiến cho nó đau liên tục sau này. Dưới dáng vẻ tự tin cô ấy thể hiện trước tôi ngày hôm đó, cô gái ấy vẫn đang phải chịu những đau đớn, về cả thể xác và lẫn tinh thần.
Nhưng thời điểm đó, tôi vẫn là trung tâm của vũ trụ của riêng tôi, và các vấn đề của riêng tôi là tất cả. Đối với tôi, người phụ nữ trẻ này có quyền lực to lớn – quyền lực để thuê tôi. Vâng, tôi muốn có một công việc.
Ngay sau khi thốt ra những lời đó, tôi đã rất kinh hoàng. Tôi đã làm gì nhỉ? Tuy nhiên, cùng lúc đó, tôi biết tôi muốn có một công việc. Tôi cần một công việc. Và, tôi đoán, tôi sẽ dễ dàng kiếm được một công việc tại cửa hàng Starbucks này… nhỉ?
Nhân viên Starbucks ấy sắp xếp giấy tờ lần nữa, nụ cười của cô ấy dần biến mất, quay nhìn tôi chăm chú. “Vậy là, anh thực sự muốn có một công việc?” Cô ấy hỏi một cách hoài nghi. Cô ấy rõ ràng đã trở nên bối rối hơn khi phải đối mặt với khả năng là, tôi có thể sẽ thực sự làm việc cho cô ấy.
Tôi chợt nhận ra: Lời mời làm việc của cô ấy là một trò đùa. Có lẽ cô ấy đã quyết định giết thời gian bằng việc trêu tôi, một ông già nhàm chán, cứng nhắc, kiêu ngạo về bản thân mình. Hoặc cũng có thể cô ấy làm theo thách đố của một nhân viên khác. Nhưng ngạc nhiên là, tôi đã chấp nhận lời đề nghị của cô ấy.
Cô nhìn tôi hoài nghi. “Anh có sẵn lòng làm việc cho tôi không?”
Tôi không thể không nhận ra sự thách thức trong câu hỏi của cô ấy: Liệu tôi, một ông già da trắng, có sẵn lòng làm việc cho một người phụ nữ da đen trẻ tuổi?
Về sau, cô ấy đã tâm sự với tôi rằng người dì giận dữ, cay nghiệt của cô ấy đã nhiều lần nói với cô khi cô ấy lớn lên, “những người da trắng là kẻ thù.” Từ góc nhìn của cô, chỉ việc đưa ra lời mời làm việc cho tôi cũng là mạo hiểm rồi. Cô ấy không sẵn sàng tiến thêm một bước nào, trước khi cô ấy chắc chắn rằng tôi sẽ không gây rắc rối cho bản thân.
Tôi cũng rất bối rối. Với tôi, toàn bộ tình huống dường như đã bị đảo lộn. Ở thế giới tôi xuất thân, đáng lẽ tôi phải là người tốt bụng, đủ lòng lương thiện để cho cô ấy một công việc, chứ không phải là người đi cầu xin để có một công việc. Tôi biết rằng đó là một quan niệm sai lầm, cực kỳ không cấp tiến, nhưng dù sao, nó cũng ở đó, ủ dưới bề mặt của tình huống.
Người phụ nữ trẻ này rõ ràng đã không quan tâm nếu tôi nói có hay không với lời mời làm việc của cô ấy. Làm thế nào mà cô trở thành một người thành công như vậy? Thế giới của tôi đã đảo lộn.
Thành phố New York, vào những năm 1945. Bố mẹ tôi dường như luôn đi đến các bữa tiệc cocktail và bữa tiệc tối. Tôi là một cậu bé cô đơn. Như thường lệ, họ không có nhà khi tôi trở về từ chiếc xe buýt trường Buckley, nhưng vẫn có Nana, như mọi khi, chờ đợi tôi với đôi tay dang rộng và một nụ cười tươi trên khuôn mặt. Tôi lao vào vòng tay ấm áp của bà ấy.
Người phụ nữ lớn tuổi này sống cùng chúng tôi trong ngôi nhà đá nâu hùng vĩ tại phía Đông con Phố 78. Bà ấy là đầu bếp của gia đình tôi, là tình yêu tuổi niên thiếu của tôi, và là bạn đồng hành thân thiết nhất của tôi. Tôi dành tất cả thời gian của mình với bà ấy trong căn bếp dưới tầng hầm, ấm áp và đầy mùi thơm của các món ăn. Những lúc đó tôi thường bắt chước Charlie Chaplin để làm bà ấy cười. Bà ấy đã nấu cho tôi nhiều món ngon từ các loại hạt và nho khô.
Khi bố bà ấy ở Virginia bị ốm, tôi đã nói với bà ấy rằng bà nên quay lại gặp ông. Hai tuần sau, bố bà qua đời. Nana nghĩ rằng tôi là người “được Chúa gửi đến”. Bà ấy nói với tôi rằng, tôi sẽ trở thành người của Chúa vào một ngày nào đó, một người truyền giáo. Tôi có hàm răng vẩu và đôi tai to, nhưng Nana luôn nói, “Cháu là một cậu bé đẹp trai.” Bà ấy nói với tôi rằng tôi sẽ trở thành một “kẻ sát gái” chính hiệu.
Rồi một hôm, tôi tình cờ nghe thấy bố mẹ nói chuyện trong thư phòng. Giọng họ rất nhỏ. Tôi phải rón rén đến gần cửa mới nghe được rõ hơn.
“Nana đã quá nhiều tuổi để leo cầu thang,” mẹ tôi nói.
Ngôi nhà đá nâu của chúng tôi có bốn tầng, với bảy mươi ba bậc thang dốc – tôi đã nhiều lần đếm đi đếm lại chúng trong lúc nhàm chán.
“Đúng vậy, anh nghĩ mọi chuyện bây giờ hơi quá sức với bà ấy,” bố tôi đồng ý.
Trái tim tôi trùng xuống vì sợ hãi. Bố mẹ không thể để Nana đi được. Tôi chạy đến bên bà ấy, bật khóc, nhưng không thể nói với bà ấy những gì tôi đã nghe.
Vài tuần sau, khi tôi từ trường trở về nhà như thường lệ, Nana đã không đứng chờ xe buýt để đón tôi nữa. Bà ấy đã đi rồi. Mẹ tôi đã thuê một người tị nạn từ Latvia làm đầu bếp. Cô ấy mười chín tuổi, và mẹ tôi nói với tôi rằng bà đang làm một điều tốt khi thuê cô ấy.
Cô gái người Latvia ấy làm việc rất chăm chỉ, nhưng hầu như không nói tiếng Anh và không nói chuyện với tôi, hay thậm chí là nhìn tôi. Cô ấy sợ đến gần tôi, hoặc bất cứ ai khác. Nhiều năm sau đó tôi mới biết được lý do – vì trước đây cô ấy đã từng bị người khác xâm hại.
Nhưng, lúc đó, tôi chỉ hiểu rằng Nana đã ra đi, và tôi lại chỉ còn một mình trong ngôi nhà rộng lớn. Căn nhà bếp thật lạnh lẽo và trống trải khi không có bà ấy, nhưng tôi không muốn rời khỏi căn phòng nơi bà ấy từng ở. Tôi lặng lẽ ngồi trên thành cửa sổ bếp, và nhìn những hạt mưa đua nhau đập vào kính. Tôi chọn một hạt mưa và nhìn xem nó có rơi xuống đáy cửa sổ nhanh nhất không. Tôi tự nhủ với mình, nếu tôi chọn đúng, tôi xứng đáng có một điều ước trở thành sự thật. Và tôi ước rằng Nana sẽ trở lại.
Cách ngôi nhà bằng đá nâu tôi sống hồi nhỏ chưa đến năm trăm mét, lúc này, tôi đang xin việc ở Starbucks. Tôi đột nhiên cảm nhận lại được hố sâu trong trái tim mình vì một người phụ nữ mà tôi đã không nhìn thấy sau gần sáu mươi năm.
Nana già hơn nhiều so với người nhân viên Starbucks đối diện với tôi ngày hôm nay. Nana hiền từ, vững chãi và dịu dàng. Còn người phụ nữ trẻ này rất chuyên nghiệp, nhỏ nhắn, cùng với dáng người tuyệt vời. Nana có hàm răng thưa thớt khi bà ấy nở nụ cười ấm áp. Nụ cười của người phụ nữ trẻ này là một màu trắng hoàn hảo, rực rỡ. Nana giống như một người mẹ đối với tôi. Người phụ nữ này ngay từ đầu đã làm rõ mối quan hệ của cả hai là của một người chủ với một nhân viên.
Thực sự hai người phụ nữ này không có điểm gì chung, ngoại trừ họ đều là người Mỹ gốc Phi. Giống như nhiều người da trắng mà tôi biết, tôi đánh giá cao ý tưởng về sự hòa nhập. Vậy mà khi tôi càng lớn tuổi, dường như trong vòng tròn quan hệ xã hội Waspy1 của tôi là thế này, những người da trắng mắc kẹt với người da trắng và người da đen với người da đen.
1 WASP dùng để chỉ những người da trắng thuộc tầng lớp thượng lưu và có gốc Anglo-Saxon theo đạo Tin Lành.
Đối với tôi, cởi mở tiếp xúc với một người phụ nữ Mỹ gốc Phi ở mức độ cá nhân đã mở ra những ký ức về mối quan hệ thực sự gần gũi duy nhất tôi từng có.
Nhân viên trẻ tuổi của Starbucks này đã không nhận ra rằng vì có Nana, tôi cảm thấy sẵn lòng làm việc với cô ấy, tôi không thể không tin cô ấy. Đó là một cảm giác phi lý, tôi tự nhủ. Làm thế nào mà một người đàn ông sáu mươi ba tuổi có thể bị ảnh hưởng bởi một cảm xúc từ trái tim của một đứa trẻ bốn tuổi, nhưng nó vẫn ở đó. Anh sẽ sẵn lòng làm việc cho tôi chứ?, câu hỏi của cô ấy lặp lại lần nữa trong đầu tôi.
“Tôi rất muốn làm việc cho cô.”
CHÚNG TA SẼ CHẲNG BAO GIỜ NGỜ ĐƯỢC NHỮNG CÁI GIÁ MÌNH PHẢI TRẢ
Thật may mắn. Những đứa con của tôi chính là lý do chính tôi muốn kiếm tiền. Đây không phải lỗi của chúng. Đây là lỗi của tôi, toàn bộ là do tôi
Crystal hầu như không nhìn tôi, cô ấy nói:
“Chúng tôi cần mọi người. Đó là lý do tại sao chúng tôi tổ chức sự kiện tuyển dụng ngày hôm nay. Và tôi ở đây để phỏng vấn mọi người về các vị trí như nhân viên pha chế.” Crystal đều đều nói, cứ như thể cô ấy đang đọc cho tôi quyền Miranda1 thay vì đang giới thiệu một công việc.
1 Quyền Miranda là quyền của người phạm tội, cảnh sát có nghĩa vụ phải thông báo những quyền này với người phạm tội đó trước khi thẩm vấn.
“Nó chỉ là một vị trí cơ bản, nhưng sẽ có những cơ hội tuyệt vời. Tôi thậm chí chưa bao giờ học hết cấp ba, và bây giờ tôi đang điều hành một cửa hàng lớn. Mỗi người quản lý được quyền điều hành cửa hàng của riêng mình và thuê những người họ muốn.”
Cô ấy đưa cho tôi một tờ giấy.
“Đây là mẫu đơn xin việc. Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu một cuộc phỏng vấn trực tiếp.”
Cô đưa tay ra.
“Tên tôi là Crystal.”
Toàn bộ khoảng thời gian đó, tôi vẫn ngồi bên cạnh cốc Latte và giấy tờ ở góc bàn. Chiếc cặp trên bàn rơi xuống đất khi tôi lúng túng bước ra khỏi chỗ ngồi, bắt tay cô ấy và nói, “Tôi tên là Mike.”
Tôi đã đặt tên cho công ty của mình là Michael Gates Gill & Friends vì tôi yêu những âm thanh ngân nga khi đọc tên đầy đủ của mình. Nhưng ở đây tôi cảm thấy rằng, xưng “Mike” có lẽ sẽ tốt hơn. Cách duy nhất.
“Mike,” Crystal nói, cô sắp xếp giấy tờ trên mặt bàn, vẫn không nhìn vào tôi, “Tất cả Cộng sự ở Starbucks đều dùng tên của mình, và họ đều nhận được những quyền lợi tuyệt vời.”
Cô ấy đưa tôi một tập tài liệu lớn.
“Xem cái này và anh sẽ thấy tất cả quyền lợi về y tế.”
Tôi háo hức cầm lấy tập tài liệu. Tôi không biết là vị trí này sẽ đi kèm với bảo hiểm y tế. Giá cả giờ quá đắt đỏ để tôi có thể trang trải cho bảo hiểm y tế của mình, nên tôi phải từ bỏ nó. Đó là một sai lầm mà tôi gần đây mới nhận ra hậu quả nghiêm trọng. Bất kỳ sự bối rối nào tôi còn có đối với công việc bây giờ liền bay vèo ra ngoài cửa sổ.
Khoảng một tuần trước đó, tôi đi kiểm tra sức khỏe hàng năm với bác sĩ của mình. Bình thường, ông ấy sẽ cho tôi một bảng kết quả ngon lành. Nhưng lần này, ông ta lắc đầu và nói, “Có lẽ là không có gì nghiêm trọng, nhưng tôi muốn anh đi chụp cộng hưởng từ (MRI).”
“Tại sao vậy?”
“Tôi chỉ muốn chắc chắn. Anh bảo anh thấy ù ù tai đúng chứ?”
“Đúng vậy, ù nhẹ,” tôi trả lời vội vàng. Tôi chưa bao giờ cho Bác sĩ Cohen một lý do để nghi ngờ về tình trạng sức khỏe của tôi. Tôi còn không nói với ông ta khi tôi bị ốm. Ông ấy là một người tin tưởng vào chủ nghĩa “yêu cho roi cho vọt” – nghĩa là ông ấy sẽ liên tục tìm vấn đề ở chỗ tôi.
“Ù nhẹ cũng là ù!” Ông nói bằng giọng chán ngán thường trực của mình. Ông ấy đang dần mất kiên nhẫn với những pha tránh né vấn đề đầy điêu luyện của tôi. “Chụp MRI đi, sau đó anh hãy gặp Bác sĩ Lalwani.”
“Bác sĩ Lalwani?” Điều này nghe chẳng khả quan gì cả.
“Michael, anh là một kẻ hợm hĩnh,” Bác sĩ Cohen nói với tôi, “và điều đó có thể hủy hoại anh vào một ngày nào đó. Bác sĩ Lalwani là bác sĩ hàng đầu về tai. Ông ấy có bằng tiến sĩ ở Stanford. Anh hài lòng chưa?”
Sau một thời gian dài điều trị và tiếp xúc với tôi, Bác sĩ Cohen đã quá hiểu tôi.
Tôi đã chụp xong MRI, thứ mà bác sĩ Cohen bảo chỉ mất có vài phút thôi.
Nhưng sự thật là tôi đã nằm đó mất ít nhất nửa tiếng. Một điềm chẳng lành. Tôi cũng không ưa tiếng các bác sĩ khác đi ra đi vào phòng khám.
“Có chuyện gì thế?”
“Không có chuyện gì ạ,” một bác sĩ trẻ lễ phép nói với tôi. “Chúng tôi sẽ gửi kết quả MRI đến cho Bác sĩ Lalwani. Ông ấy muốn gặp ông.”
Tối đang cực kỳ bực mình, tức giận với Bác sĩ Cohen vì đã yêu cầu chụp cái MRI này. Tôi vẫn luôn khỏe mạnh suốt cả quãng đời. Và tôi sẽ không gục ngã lúc này. Tôi không thể gục ngã lúc này.
Bác sĩ Lalwani để tôi đợi cả buổi chiều. Người ra rồi lại người vào văn phòng của ông ấy, cuối cùng, Bác sĩ Lalwani xuất hiện, mỉm cười ngoác tận mang tai. Đó có phải là một dấu hiệu đầy tích cực không?
Lalwani ra hiệu mời tôi vào văn phòng của ông ấy. Nó là một căn phòng nhỏ, chất đống giấy tờ. Nhìn không an tâm chút nào. Tôi thích ngồi ở một văn phòng lớn ở góc, với một chiếc ghế sô- pha thoải mái hơn. Rõ ràng là ông ấy đã không quá thành công trong lĩnh vực của mình.
“Ông Gill,” ông ta nói.
“Hãy gọi tôi là Michael,” tôi tỏ ra thân thiện nhất có thể. Nhưng ông ấy, lần này cười còn tươi hơn, ngoan cố nói. “Ông Gill, tôi có vài tin xấu với ông… nhưng ông chắc hẳn cũng đã biết có chuyện gì đó không ổn rồi… tôi nói đúng chứ?”
Tôi đã biết chuyện gì đó không ổn? Ông ta điên à? Tôi tưởng mọi chuyện đều ổn.
“Ông đang nói gì vậy?” Tôi gần như không kiềm chế được sự lo lắng và cơn giận dữ trước phong thái điềm tĩnh của ông ta.
“Ông gặp một bệnh hiếm có. May mắn là, nó nằm trong chuyên môn của tôi.”
“Nó là cái gì?” Tôi gần như hét lên, nhưng Bác sĩ Lalwani vẫn thong dong đến lạ thường.
“Một bệnh rất rất hiếm.” Ông ta cười lần nữa. “Chỉ một trong mười triệu người Mỹ mới mắc phải.”
Tôi đợi chờ, trong cơn phẫn nộ, nhưng bằng bản năng, tôi biết mình phải để bác sĩ làm theo cách của họ. Tôi đã sợ hãi đến nỗi sẵn sàng đầu hàng trước phong cách học thuật của ông ta.
“Trong ông có một thứ được gọi là u thần kinh thính giác. Theo chuyên môn của tôi, nó rất hiếm. Nó là một khối u nhỏ nằm ở dưới bộ não của ông… chính nó đã gây ảnh hưởng đến thính giác của ông.”
Trong giây lát tôi không thể nhìn thấy hay nghe thấy bất cứ thứ gì. Cứ như thể tôi đã bị nện một đòn thẳng vào đầu và tim. Tôi nghĩ tôi đã tắt thở.
Bác sĩ Lalwani, như cảm nhận được sự đau khổ tột cùng của tôi, vội vã nói tiếp.
“Tình trạng này không gây tử vong.” Ông ta nói. “Chúng ta có thể tiến hành phẫu thuật. Nhưng tôi phải nói với ông, ca phẫu thuật này rất nghiêm trọng.”
Tôi hoàn hồn lại chỉ để nghe những lời âm u bất ổn này. Từ “nghiêm trọng” phát ra từ miệng của một bác sĩ phẫu thuật không phải điều tôi muốn nghe.
“Ý ông là sao?”
“Chúng tôi sẽ khoan vào hộp sọ, và sau đó làm một cuộc phẫu thuật trên não ông. Tôi là một bác sĩ phẫu thuật não… và đây LÀ một cuộc phẫu thuật não, theo đúng nghĩa đen.”
Ông ấy rất tự tin về bản thân. Tôi ghét ông ấy, vì quá nhiệt tình với việc mổ xẻ kia.
“Khả năng nghe của ông có thể sẽ không phục hồi. Khối u là nguyên nhân gây ù tai. Phải mất một hay hai tuần theo dõi ông mới có thể rời bệnh viện.”
“Sau một, hai tuần tôi mới có thể rời bệnh viện á?” Tôi lẩm bẩm nhắc lại.
“Và sẽ phải mất vài tháng để ông có thể hoàn toàn hồi phục. Nhưng khả năng hồi phục rất là cao. Tỉ lệ tử vong rất hiếm. Chỉ có vài người tử vong vì căn bệnh này.”
Vài người… tử vong? Ông ta bị điên à?
“Khi nào tôi phải làm phẫu thuật?” Tôi lắp bắp nói. Miệng khô khốc, tôi chẳng thể nói rõ ràng.
“Tôi muốn thực hiện ngay… nhưng ông có thể đợi vài tháng, quay lại, chúng ta sẽ chụp cộng hưởng từ lần nữa và xem khối u có phát triển không. Tôi đoán khối u của ông có lẽ sẽ không phát triển nhanh đâu.”
Cuối cùng, một tia hi vọng lóe sáng. Như hầu hết mọi người, tôi ghét phải vào bệnh viện. Những người bạn tôi đã lìa đời trong bệnh viện. Chưa kể tôi đã rỗng túi. Bất kỳ sự kéo dài thời gian nào đều là món quà từ Chúa.
Tôi nhanh chóng đứng dậy, bắt tay ông ta, rời khỏi văn phòng đó và lập tức gọi Bác sĩ Cohen.
Ông ấy không yên tâm.
“Nghe như ông cần phải phẫu thuật.” Ông nói.
“Vâng,” tôi nói, giả vờ đồng ý, “nhưng tôi sẽ đợi vài tháng nữa để chụp MRI mới.”
Tôi đang câu giờ.
Từ bỏ bảo hiểm y tế của chính mình đã là rất tệ, nhưng không thể chi trả bảo hiểm y tế cho con cái tôi còn tệ hơn. Tôi tự hỏi khối u này có phải là hình phạt cho những hành vi tôi đã làm không.
Bây giờ, ngồi đối diện với Crystal, tôi chăm chú đọc tờ thông tin của Starbucks về những quyền lợi liên quan đến bảo hiểm.
Chúng thật đa dạng, và bao gồm cả bảo hiểm răng và tai – điều tôi chưa từng được hưởng khi là một nhân viên kỳ cựu ở JWT.
Tôi ngước nhìn Crystal với đầy hi vọng. “Cái này có bảo hiểm cho con cái không?”
“Anh có bao nhiêu đứa con?”
“Năm.” Tôi nói, nghĩ lại chuyện mình đã quen nói là “bốn”. Cyrstal cười. Sau đó cô ấy đáp lại đầy thân thiện.
“Anh có vẻ bận rộn nhỉ.”
“Đúng là thế.”
Tôi không nói thêm gì nữa, mọi chuyện quá rắc rối để giải thích trong một buổi phỏng vấn.
“Được rồi,” cô tiếp tục nói, vẫn giọng nói tích cực đó, “năm đứa con của anh, tất cả có thể nhận được bảo hiểm chỉ với một khoản khấu trừ nhỏ.”
Thật may mắn. Đứa con nhỏ nhất của tôi, Jonathan, là lý do chính tôi muốn kiếm tiền. Đây không phải lỗi của thằng bé. Đây là lỗi của tôi, toàn bộ là do tôi.
TÔI ĐÃ TỰ TAY HỦY HOẠI CUỘC SỐNG CỦA CHÍNH MÌNH
Những định kiến sai lầm của con người đôi khi thật buồn cười
Tôi gặp Susan, mẹ của Jonathan, tại phòng tập gym, nơi tôi tham gia ngay sau khi bị đuổi việc. Tôi cần một lý do để ra khỏi nhà mỗi ngày. Và tập thể dục đã trở thành lý do mới để tôi tỉnh giấc và đi ra ngoài.
Một buổi sáng nọ, tôi nằm nghỉ trên chiếc thảm tập. Lúc này trong căn phòng không có ai, thi thoảng nó được dùng cho lớp tập yoga. Susan bước vào. Cô ấy không nhìn thấy tôi và tưởng căn phòng vắng người. Cô vừa khóc vừa dựa vào tường.
“Cô ổn không?” Tôi hỏi. Tôi không được tự nhiên khi ở cạnh những người đầy xúc động.
Cô giật mình, nhưng không thể ngừng khóc.
“Anh trai tôi đang bị bệnh ung thư… chỉ còn vài ngày nữa…” “Khó khăn nhỉ.” Tôi vừa nói, vừa ngồi dậy, chuẩn bị đi về.
“Và mới năm ngoái, tôi mất bố vì ung thư phổi.”
“Khổ cho cô quá,” tôi lặp lại lần nữa, đứng dậy. Đáng lẽ tôi nên tiếp tục bước đi về phía cánh cửa, nhưng tôi lại cảm thấy mình không thể để cô ấy chìm nghỉm trong nỗi buồn.
Tôi tiến lại gần cô ấy.
“Đừng lo,” tôi nói, không biết những lời này từ đâu mà ra. “Cô sẽ sớm hạnh phúc hơn bao giờ hết.”
Cô ngước lên nhìn tôi. Susuan nhỏ nhắn, cao chỉ hơn một mét năm, với mái tóc đen dày và đôi mắt nâu. Tôi cao trên một mét tám, lưa thưa tóc và đôi mắt xanh. Chúng tôi hoàn toàn tương phản, một cặp đôi kỳ lạ.
Susan gạt những giọt nước mắt đi nhưng dòng lệ vẫn không ngừng tuôn trào rơi.
“Cái gì cơ?” Cô nói, không thể tin vào điều cô vừa nghe.
Tôi cũng không thể tin vào những điều tôi vừa nói. Những từ ngữ điên rồ này từ đâu ra vậy?
Nhưng tôi đã lặp lại lần nữa.
“Cô sẽ hạnh phúc hơn bao giờ hết.”
Cô ấy gật đầu, như thể đã hiểu phần nào. Tôi quay người đi.
“Tôi thích những người đàn ông tập yoga,” cô nói, “nó cho thấy sự khéo léo.”
Susan và tôi bắt đầu mối quan hệ trên nền tảng của những hiểu lầm. Cô nghĩ tôi là một người mê yoga. Thực sự thì, tôi không thích yoga. Tôi không thích uốn dẻo người. Nó chỉ khiến tôi thấy mình thật cứng nhắc.
Tôi cứng nhắc về nhiều điều. Thân thể. Trí tuệ. Cảm xúc. Tôi thích những bài hát cũ, lối sống cũ. Tới tận giờ, cách sống cũ kỹ vẫn không có vấn đề gì với tôi. Susan không biết tôi thực sự như thế nào. Gặp tôi ở phòng tập yoga, cô nghĩ tôi là con người khéo léo, tinh tế có thể hiễu rõ những điều sâu thẳm và tích cực của đời sống. Như kiểu tôi là một nhà thông thái.
Những định kiến sai lầm của con người đôi khi thật buồn cười.
Susan hiểu nhầm về tôi, và tôi cũng hiểu nhầm về Susan. Tôi coi cô ấy là một đứa trẻ mồ côi đáng thương, một người cần an ủi và bảo vệ. Vậy mà về sau tôi mới biết được, cô ấy là một bác sĩ tâm thần học thành công với cả dàn bệnh nhân trung thành.
Tôi nghĩ cô ấy cần tôi.
Cô ấy nghĩ tôi có thể giúp cô ấy. Cả hai chúng tôi đều quá sai lầm.
Ấy vậy mà, giữa chúng tôi có một sức hút với nhau ngay từ lần đầu tiên gặp mặt. Phải chăng chính việc chúng tôi hợp nhau là minh chứng cho câu nói “những điều đối lập nhau sẽ thu hút nhau”? Nhất là vào mỗi buổi sáng ở phòng tập gym, tôi chẳng có gì để làm. Và cô ấy có hai tiếng trước khi gặp bệnh nhân.
Từ khi bị đuổi việc, tôi cảm thấy mình không thể thân mật với vợ tôi. Sự thất bại về hình thể cộng hưởng với những thất bại trong sự nghiệp đã khiến tôi thấy mọi thứ là dấu hiệu của sự lụi tàn không tránh khỏi.
Cho tới khi tôi gặp Susan.
Dẫu vậy, bất chấp mọi sự cuốn hút giữa cả hai, tôi tiến về phía cửa. Tôi đã từng rất cứng nhắc và không ngoại tình… đặc biệt với những người tôi gặp ở một phòng tập bình dân.
“Anh có muốn uống cà phê không?” Susan dịu dàng hỏi tôi khi tôi tiến dần về phía cửa. Tôi gần như không nghe thấy cô nói. Cô nói như thì thầm.
Tôi bỗng nhiên nói: “Cũng được, mình cùng uống cà phê đi.”
Chuyện gì sẽ xảy ra khi uống một tách cà phê với một người buồn khổ chứ? Chúng tôi có thể gọi một cốc latte ở Starbucks và cô ấy sẽ vui lên.
Nhưng, thay vì Starbucks, cô ấy mời tôi đến căn hộ của cô. Tôi đi theo cô ấy, bị cuốn theo. Và sau đó, tôi gặp Susan vào mỗi buổi sáng cô ấy rảnh – khoảng hai hay ba lần một tuần.
Susan không còn trẻ. Ở khoảng bốn mươi lăm, cô ấy kể với tôi rằng bác sĩ phụ khoa đã cho cô ấy biết bản thân không thể có con. Vì vậy, cô ấy nói việc cưới xin chả quan trọng.
“Hôn nhân là vì con cái,” cô ấy nói. “Nhưng em lại không thể có con.”
“Chưa kể đến chuyện anh đã kết hôn”, cô ấy nhắc nhở tôi, liếc nhìn về chiếc nhẫn.
Tôi thừa nhận lý lẽ của cô ấy với bao tội lỗi trong tim. Tôi yêu Susan nhiều hơn mỗi ngày, nhưng tôi cũng muốn giữ cuộc sống hiện tại. Tôi yêu vợ tôi và muốn bốn đứa con của mình được sống trong một môi trường gia đình bình yên.
Rồi chuyện gì đến cũng phải đến, Susan gọi tôi khi tôi ở nhà – một điều cô ấy chưa bao giờ làm trước đây.
“Em cần gặp anh.”
“Khi nào?” Lúc đó là bảy rưỡi sáng, tôi còn chưa kịp ăn sáng.
“Ngay bây giờ.”
Cô ấy đứng im lặng trong căn hộ mình, rèm cửa mở ra, để lộ dòng Sông Đông1. Đó là một sáng tháng Ba, những ánh nắng đã lấp lánh trên mặt nước.
1 Sông Đông là một eo biển thủy triều nước mặn ở thành phố New York.
“Micheal,” cô ấy thì thầm. “Em mang thai. Và Chúa nói với em rằng em nên giữ đứa bé.”
Trái tim tôi ngừng đập. Đây không phải là điều tôi dự định. Tôi thất nghiệp và đang vật lộn để nuôi sống gia đình của chính mình. Sự thật mà nói, tôi không cần thêm một đứa con.
“Anh đang nghĩ gì?” Cô ấy hỏi.
“Em phải tự quyết định.” Tôi nói.
“Hãy nói với em đi.”
“Không,” Tôi đứng bật dậy. Tôi sẽ không bảo cô ấy phá thai.
Đây có thể là cơ hội có con duy nhất của cô ấy.
“Nó là một phép màu, Micheal. Và em cần sự giúp đỡ của anh.” “Anh không có một xu dính túi.”
Cô ấy cười. Susan có một hiểu lầm nữa về tôi. Cô nghĩ rằng tôi giàu có vì tôi hay ăn mặc bảnh bao và trông sang trọng. Cô ấy không biết rằng đằng sau phong cách sặc mùi tầng lớp thống trị, tôi đang nghèo đi mỗi ngày.
Tôi đã phải giữ bí mật về mối quan hệ với Susan. Nhưng khi Jonathan chào đời, tôi buộc phải nói với vợ tôi. Cô ấy không chịu nổi điều đó.
“Ngoại tình là một chuyện,” vợ tôi nói, “Có con lại là một chuyện khác.”
Betsy rất tỉnh táo.
“Em không thể làm được,” vợ tôi nói. “Em không thể sống mãi với tình trạng này được.”
Vì vậy chúng tôi ly dị “trong hòa bình”, mặc dù vợ tôi có quyền nổi điên với tôi.
“Em đã nghĩ mình sẽ dành hết phần đời còn lại với nhau.” Cô ấy nói. Tôi cảm thấy thật tệ.
Những đứa con của tôi, nay đã trưởng thảnh, chúng thông cảm theo cách của người trưởng thành, nhưng cũng tổn thương và tức giận. Tôi để lại căn nhà lớn cho Betsy, và cô ấy có đủ tiền để sống qua ngày. Nhưng tôi biết đây không phải chuyện tiền bạc. Tôi đã hủy hoại cuộc sống của vợ tôi.
Tôi đã tự tay hủy hoại cả cuộc sống của chính mình.
Tôi thuê một căn hộ nhỏ ở ngoại ô New York. Cố gắng làm một điều đúng sau khi gây ra một đống lỗi lầm, tôi quyết tâm ở bên cạnh Susan và đứa con mới chào đời của tôi, Jonathan. Tôi thường ghé thăm vào bốn, năm giờ sáng và chơi với Jonathan để Susan có thể chợp mắt một lúc.
Tôi chỉ làm điều đó vì nghĩa vụ. Nhưng chuyện bất ngờ đã xảy ra. Tôi càng ngày càng gần gũi với Jonathan. Và thằng bé cũng quấn lấy tôi.
Jonathan và tôi thường cùng nhau ngắm bình minh. Khi những đứa con khác của tôi còn nhỏ, tôi không có thời gian ngắm nhìn chúng đón nhận từng khoảnh khắc kỳ diệu. Tôi làm việc 24/7 tại JWT.
Bây giờ, tôi được ban cho một cơ hội nữa để làm người bố – theo nhiều nghĩa, một cơ hội tôi không đáng được nhận.
Tôi thích ngắm nhìn Jonathan lớn lên, ngắm nhìn thằng bé vẫy cánh tay nhỏ nhắn vung vẩy như đang chỉ hủy dàn nhạc mỗi khi tôi cất tiếng hát. Hay tôi thích nghe tiếng cười giòn giã của Jonathan mỗi khi tôi tung hứng con thú nhồi bông.
Một ngày, khi tôi đang đặt thằng bé vào trong nôi, Jonothan bỗng mở mắt và cười với tôi. Thằng bé mở miệng và âm thanh tuyệt diệu phát lên “Ba ba.” Hai tiếng đơn giản đến nhói lòng.
Nghĩ về lần đã bỏ lỡ những giây phút nhiệm màu này với những đứa con khác khiến tim tôi thắt lại. Và vì gì cơ chứ?
Vì một công ty đã thưởng cho lòng trung thành của tôi bằng tờ giấy đuổi việc. Tôi muốn ngồi với mỗi đứa con của mình và nói rằng: Con chỉ có một cuộc đời; hãy nhìn gương bố, hãy sống khôn ngoan. Biết điều gì là quan trọng trong đời mình.
Tôi càng ngày càng dành ít thời gian tìm kiếm khách hàng mới, và ngày một dành nhiều thời gian hơn với Jonathan. Thằng bé yêu tôi và cần tôi. Tôi là một ai đó tuyệt vời trong mắt Jonathan.
Hình như Jonathan là người duy nhất cảm thấy vậy trong những ngày gần đây. Susan dần dần mất hứng thú với tôi, đầu tiên là với tư cách một người nói chuyện. Cô ấy bảo tôi “nhàm chán”. Tôi không cởi mở trước những ý kiến mới. Sau đó, cô ấy mất hứng thú với tôi với tư cách một tình nhân. Cô ấy bảo tôi “quá đơn điệu”.
Theo một cách nào đó, tôi càng có nhiều thời gian dành cho cô ấy (sau khi đã ly dị và có ít khách hàng lẫn công việc để làm hơn, tôi có nhiều thời gian cho mình), tôi càng ít hấp dẫn với cô.
Cô ấy tưởng tượng tôi là một người đàn ông đứng trên đỉnh xã hội Mỹ, sung túc, năng suất, thành công và hạnh phúc. Nhưng giờ cô nhận ra tôi chỉ là một cậu bé tự ti, không giỏi đối mặt với hiện thực.
Jonathan là người hâm mộ cuối cùng tôi có, và là người bạn thân nhất của tôi. Nhưng bây giờ, thằng bé bắt đầu đi học, và tôi lại có thêm nhiều thời gian trong tay. Tôi chẳng còn mấy lý do để trốn tránh công việc và nhu cầu kiếm một nghề để tự nuôi sống mình. Tôi còn không thể chu cấp cho con mình bảo hiểm y tế.
NGAY CẢ NHỮNG NGÀY TĂM TỐI, LUÔN CÓ BÓNG DÁNG CỦA HI VỌNG
Có lẽ Crystal cũng biết rằng tôi còn nhiều điều phải học, nhiều định kiến phải bóc tách. Mặc dù vậy, cô ấy vẫn sẵn sàng chấp nhận rủi ro, băng qua rào cản về tầng lớp, màu da và giới tính để cho tôi công việc
Tôi làm thế nào mà trở nên vô dụng trong cả cuộc sống cá nhân cũng như trong sự nghiệp vậy nhỉ? Tôi cố gắng gạt đi những lời tự trách, những suy nghĩ tiêu cực, tập trung vào Crystal, vào buổi phỏng vấn bất ngờ này.
Bằng may mắn hay do một ý nghĩ nhất thời, Crystal quyết định cho tôi một cơ hội – có lẽ là cơ hội cuối cùng tôi có – để đối diện với vòng xoáy lụn bại này. Tôi không muốn vuột mất nó.
Tôi ngước nhìn Crystal, cố gắng nở nụ cười tự tin.
Crystal không tin vào điều đó. Rõ ràng cô ấy đang cố gắng cân bằng giữa sự khó chịu của bản thân với tôi và sự cống hiến cho công việc. Cửa hàng của cô ấy rất cần người mới. Và tôi cũng rất cần một công việc. Hãy thuyết phục cô ấy nào, tôi tự nhủ. Thuyết phục cô ấy, đây là buổi gặp mặt trời định. Tôi cố động viên mình tích cực lên.
“Tôi muốn đặt thêm vài câu hỏi về kinh nghiệm làm việc của anh.” Crystal nói bằng một giọng đầy chuyên nghiệp.
Tôi bỗng nhiên rất lo lắng. Sau khi biết về những lợi ích y tế Starbucks cung cấp, tôi thực sự muốn công việc này. Liệu Crystal có là một người phụ nữ giống kiểu Linda White, người đã đâm tôi một đao? Tôi không quan tâm, miễn sao cô ấy thuê tôi. “Anh đã từng làm trong lĩnh vực bán lẻ chưa?”
Câu hỏi của cô ấy làm tôi giật mình.
Tôi cố gắng suy nghĩ… nhanh nào, bán lẻ là gì nhỉ?
“Như Wal-Mart1 chẳng hạn?” Cô gợi ý. Tôi cảm thấy, lần đầu tiên trong cuộc phỏng vấn này, Crystal quyết định đứng về phía tôi. Tất cả chuyện này có thể bắt đầu bằng một trò đùa hay một lời thách thức với cô ấy, nhưng có thể, chỉ có thể thôi, Crystal đã nhìn thấy tiếng kêu cứu trong tôi.
1 Wal-Mart là tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới được thành lập vào năm 1962 tại Mỹ.
Bỗng nhiên tôi nhận ra, cuộc sống giàu sang đã ngăn cách tôi với cái thực tại ai cũng biết. Có thể Crystal muốn kéo tôi lên, vậy mà tôi còn không thể nắm lấy sợi dây thừng cô ấy ném cho. Tôi chưa từng bao giờ vào trong Wal-Mart.
Crystal đánh dấu lên giấy của cô và tiếp tục. Tôi rất lo lắng. Mọi chuyện không ổn tí nào.
“Anh đã từng phải đối mặt với khách hàng trong tình huống khó khăn chưa?” Crystal đọc câu hỏi trong bảng và ngước lên nhìn tôi. Nhưng đôi mắt của cô dịu dàng hơn, bây giờ trông như cô ấy đang động viên tôi.
Chuyện là thế, vậy mà tôi vẫn lúng túng. Nói chuyện với CEO của Ford có khó không? Có, nhưng điều đó chẳng giúp tôi có công việc này được. Tôi nhớ tôi đã từng làm quảng cáo cho Burger King và đứng ở quầy hàng một buổi sáng để cảm nhận công việc.
“Tôi từng làm tại Burger King.” Tôi trả lời. Crystal cười thật tươi với tôi.
“Tốt,” cô nói. “Và anh đã xử lý với khách hàng thế nào khi có vấn đề?”
“Tôi lắng nghe kỹ điều họ đang nói, sau đó sửa sai, cuối cùng là hỏi họ tôi có thể làm điều gì để mọi việc tốt hơn không.” Tôi tuôn một loạt những lời lảm nhảm trong một cuốn hướng dẫn tôi từng viết về cách xử lý vấn đề.
Crystal lại cười, đánh dấu trên giấy.
“Anh đã từng làm việc với rất nhiều người trong hoàn cảnh áp lực chưa?” Cô hỏi.
“Rồi,” tôi trả lời một cách mơ hồ. Tăng ca, làm việc đến đêm muộn trong chiến dịch quảng cáo cho Christian Dior hoàn toàn khác biệt với việc phục vụ Latte cho hàng trăm người lúc cao điểm.
Crystal đánh dấu. “Anh biết gì về Starbucks? Anh đã từng đến cửa hàng chúng tôi chưa?”
Tôi hồi tưởng. Trong nhiều tuần nhiều tháng săn việc, tôi đã lăn lê, ngồi ở rất nhiều cửa hàng Starbucks khắp New York. Tôi nắm lấy cơ hội và thể hiện mình. “Những cửa hàng Starbucks ở ga Grand Central thường rất đông khách. Không cái nào có chỗ trống cả nên tôi ít ngồi ở những chỗ đó. Nhưng cửa hàng ở Đại lộ Thứ năm, Phố 45 thực sự thoải mái, cửa hàng ở Đại Lộ Park có khung cảnh rất tuyệt, và…”
“Được rồi, Mike,” Crystal ngắt lời tôi. “Tôi hiểu rồi.” Cô cười. “Anh là một khách hàng trung thành của chúng tôi, tôi nghĩ anh sẽ thích câu hỏi này: Đồ uống yêu thích nhất của anh là gì?”
Một lần nữa, tôi có thể thực sự hào hứng trả lời. Tôi yêu các dạng thức khác nhau của cà phê, và Starbucks là nơi tôi thường đến để uống chúng.
“Điều khác biệt giữa một cốc Latte và một cốc Cappuccino1 là gì?” Crystal hỏi.
1 Cappuccino là một thức uống cà phê nóng có nguồn gốc từ Ý. Được pha chế với ba thành phần chính với tỉ lệ đều nhau, gồm cà phê Espresso, sữa đánh nóng và bọt sữa.
Tôi thích cả hai nhưng tôi không biết đâu là điểm khác biệt giữa chúng. “Tôi không chắc lắm… Cappuccino có ít sữa hơn chăng?”
“Rồi anh sẽ được học.” Cô ấy nói, lại đánh dấu một lần nữa, nhưng tôi nghĩ lần này phản ứng rất tích cực. Chỉ câu “Rồi anh sẽ được học” cũng đủ củng cố sự tự tin trong tôi. Tôi suýt nữa từ bỏ ý tưởng rằng mình có thể học hay làm một điều gì đó mới, hay có bất cứ ai sẽ đầu tư thời gian giúp tôi học công việc mới.
Crystal đứng dậy. Cuộc phỏng vấn đã kết thúc.
Tôi cũng đứng dậy theo, suýt nữa làm đổ cốc Latte vì hưng phấn. Chúng tôi bắt tay.
“Cảm ơn, Crystal.” Tôi nói, trân trọng hơn bất cứ lúc nào trong cuộc đời mình. Cô ấy chắc hẳn đã cảm nhận được sự chân thành sau câu nói thường nhật đó.
Cô cười. Có điều gì buồn cười về những điều tôi nói nhỉ? Rõ ràng bây giờ cô đã hiểu rõ toàn bộ sự việc. Và cả tôi. Có thể tôi đã cho cô ấy thấy “kẻ địch” là một kẻ cô ấy có thể dễ dàng giải quyết.
Hoặc, tốt hơn nữa, có thể cô phát hiện ra rằng tôi không chỉ là một người đàn ông da trắng già nua, mà còn là một người chân thật cô ấy có thể giúp. Bất kể lý do là gì, cô ấy đã dần thả lỏng hơn với tôi.
Rồi cô nghiêm túc nói. “Công việc không dễ dàng đâu Mike.” “Tôi biết. Nhưng tôi sẽ làm việc chăm chỉ. Tôi hứa với cô.”
Cô ấy cười, lẫn trong đó là một chút tự hào. Sau này, tôi mới biết lý do đằng sau. Tám năm trước, khi cô còn lang thang trên đường phố, cô không thể tưởng tượng ra rằng, trong tương lai, một người Mỹ da trắng điển hình, mặc bộ com-lê hai nghìn đô-la, sẽ đến cầu xin cô cho một công việc.
Crystal chắc chắn đã nhận ra sự chân thành trong quyết tâm vượt rào của tôi – từ uống Latte sang phục vụ Latte. Nhưng bây giờ ngẫm lại tôi mới nhận ra, có lẽ lúc đó cô ấy cũng biết rằng tôi còn nhiều điều phải học, nhiều định kiến phải bóc tách.
Mặc dù vậy, cô ấy vẫn sẵn sàng chấp nhận rủi ro, băng qua rào cản về tầng lớp, màu da và giới tính để cho tôi công việc.
“Tôi sẽ gọi ông trong vài ngày nữa, Mike.” Cô ấy nói. “Để thông báo kết quả cho ông.”