T
ôi đợi trong bãi đỗ xe của trường, nhìn ngắm những vệt hơi phát sáng của máy bay trên đường chân trời đỏ rực.
Như vẫn thường xuyên xảy ra, khi một trong những hiện tượng thiên nhiên hoà cùng với khao khát và ký ức của tôi, tôi lại cảm thấy trong lòng khẽ động. Năm mười chín tuổi, tôi chuẩn bị thi tốt nghiệp. Tương lai đã trải ra trước mắt và tôi cảm thấy niềm phấn khích khôn nguôi của một người trẻ chưa mắc phải sai lầm lớn nào trong đời.
Mười lăm phút sau, chiếc Fiat màu đỏ cuối cùng cũng lái vào sân trường. Tôi trèo vào ghế phụ ngồi và hôn lên má Alva.
“Bạn vẫn muộn như mọi khi.” Tôi nói. “Mình thích bạn phải đợi đấy.”
Cô ấy nhả côn và nhanh chóng tăng tốc.
“Ở nhà bạn thế nào rồi?” Cô ấy hỏi. “Có chút chuyện nào dính dáng đến phụ nữ mà mình cần phải biết không?”
“Bạn biết đấy, mình không còn là một đứa trẻ buồn rầu…”
“Jules, bạn là một đứa trẻ u sầu khủng khiếp.”
Alva sẽ không để yên. Cô ấy hỏi tôi về một cô gái cụ thể trong lớp; sẽ thật không phải nếu tôi nói tên cô ấy ra ở đây. “Chuyện gì đã xảy ra với cậu ấy vậy? Bạn có gặp cậu ấy trong kỳ nghỉ không?”
“Bị cáo viện dẫn quyền giữ im lặng của mình.”
“Nào, nói cho mình biết đi. Chuyện tiến triển thế nào rồi?”
Tôi thở dài. “Bọn mình không gặp nhau.”
“Ôi trời, ông Moreau, mình mong đợi nhiều hơn ở bạn.”
“Mình rất vui. Dù sao thì mình không nghĩ là cậu ấy có hứng thú với mình đâu.”
“Bạn có biết bạn đẹp trai thế nào không? Tất nhiên cô ấy có hứng thú với bạn rồi.”
Alva nở một nụ cười thật tươi. Cô ấy thích thúc đẩy sự tự tin của tôi và gán ghép tôi với nhiều cô gái.
Về chuyện này, tôi nên cập nhật thêm rằng tôi đã cao lớn rất nhanh trong vài năm qua. Tóc tôi đen như tóc của bố tôi, tôi cũng được thừa hưởng bộ râu chắc khỏe của ông ấy và thỉnh thoảng tôi mới cạo. Nó khiến tôi kinh ngạc về vẻ ngoài trưởng thành, gai góc và lông lá của tôi.
Trong những năm cuối của quãng đời ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã có hai mối tình ngắn ngủi, nhưng tôi thực sự không quá chú tâm vào mặt tình cảm. Ở thời điểm đó, tôi quan tâm nhiều hơn đến nhiếp ảnh. Tôi học tất cả mọi thứ liên quan đến các phản ứng hóa học cần thiết để phơi sáng âm; tôi tìm thấy một căn phòng trống dưới tầng hầm của khu nhà nội trú mà tôi được phép sử dụng làm phòng tối.
Tôi thường đi ngao du về vùng nông thôn; tôi có thể ngồi hàng giờ với chiếc máy ảnh của bố ở bờ hồ hoặc đi lang thang qua các cánh đồng và rừng cây trước khi trở về vào buổi tối muộn với chiến lợi phẩm của mình. Qua lăng kính của Mamiya, mọi thứ trở nên sống động: vỏ cây đột nhiên in hằn những khuôn mặt, dòng nước chảy cũng trở nên có ý nghĩa, con người cũng có vẻ khác lạ bất ngờ. Đôi khi tôi chỉ hiểu được biểu cảm gương mặt của họ khi tôi nhìn họ qua khung ngắm.
“Hiện tại mình không muốn nghe thêm lời bào chữa nào nữa.” Alva ngồi bên cạnh tôi nhấn mạnh. “Bạn không thể lúc nào cũng ngại ngùng được, bạn chỉ còn vài tuần nữa thôi.” Cô ấy ca thán: “Bạn muốn rời trường mà không có chuyện gì xảy ra với cậu ấy à?”
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và không nói gì. Khung cảnh đang tối dần, như thể lớp sơn lót đầu tiên đang được sơn lên để làm nền cho đêm tối.
Một lúc sau, Alva thúc vào người tôi. “Bạn đang nghĩ gì mà mặt mũi lại thành ra thế này?”
“Tại sao, trông mặt mình thế nào?”
Alva đã bắt chước khá tốt vẻ mặt của một ai đó đang nghiền ngẫm, lạc vào một thế giới trong mơ và trông hơi thất thần.
“Bạn đang nghĩ gì thế?” Cô ấy hỏi lại, nhưng tôi không trả lời.
Từ khi tôi đến trường nội trú, hầu như mỗi ngày chúng tôi đều gặp nhau. Alva đã trở thành người nhà của tôi; ở nhiều khía cạnh, tôi gần gũi với cô ấy còn hơn cả với anh chị và bác của tôi. Nhưng vài năm trở lại đây, cô ấy đã thay đổi. Vẫn có những khoảnh khắc tôi có thể dỗ dành được một nụ cười nhẹ nhàng hiếm hoi của cô ấy, hoặc vẫn có những khoảnh khắc chúng tôi nghe nhạc cùng nhau, nhìn nhau và biết rõ đối phương đang nghĩ gì. Nhưng bây giờ còn tồn tại một Alva thứ hai nữa, một người càng ngày càng xa rời tôi, ngồi trên ghế dài, hút thuốc, hoàn toàn ghê tởm bản thân và luôn nói những điều như sẽ tốt hơn nếu cô ấy chưa bao giờ được sinh ra.
Mái tóc đỏ và làn da trắng ngần của cô ấy đã thu hút nhiều người ngưỡng mộ, nhưng cô ấy đã không có bạn trai đầu tiên mãi cho đến khi gần mười bảy tuổi. Sau đó, cô ấy đã ngập ngừng bắt đầu những mối quan hệ với một hoặc hai đàn anh. Nhưng không giống với Liz, từ những gì tôi biết, chỉ yêu tình dục và có thể nhìn thấy điều gì đó đặc biệt ở bất kỳ người đàn ông nào; với Alva, tình dục chỉ như cô ấy đang sử dụng cơ thể mình làm vũ khí chống lại chính mình mà thôi. Ngay khi người đó nảy sinh tình cảm với mình, cô ấy sẽ nhanh chóng từ chối anh ta. Như thể có thứ gì đó bên trong cô ấy đã vỡ tan, và bất cứ ai đến quá gần cô ấy đều tự cắt mình thành từng mảnh.
Sau đó, ở tuổi mười bảy, cô ấy hoàn toàn tránh xa đàn ông. Tất cả mọi cách tiếp cận có vẻ đều làm cô ấy chán ghét, kéo theo những tin đồn rằng cô ấy có hứng thú phụ nữ hơn. Hoặc lập dị. Alva không quan tâm. Thay vào đó, cô ấy vùi đầu học hành đến mức ám ảnh và đọc những cuốn sách về triết học: Sartre và rất nhiều sách của Kierkegaard. Gần đây cô ấy bắt đầu quay lại gặp gỡ ai đó nhưng chúng tôi chưa bao giờ nói về điều này.
Tối hôm đó, chúng tôi lái xe đến một quán rượu. Alva đã phải gọi cho mẹ mình từ một bốt điện thoại trên đường đi. “Với Jules.” Tôi nghe cô ấy nói. “Không, mẹ không biết cậu ta, đó là một người khác.” Giọng cô càng lúc càng lớn. Cuối cùng, cô ấy hét lên: “Con sẽ đến khi con cảm thấy thích,” và đập mạnh ống nghe.
Mẹ cô ấy theo dõi từng bước đi của con gái mình với sự cảnh giác cao độ, và hơn một lần Alva đã đe dọa rằng sau kỳ thi cuối kỳ, cô sẽ biến mất và không bao giờ quay lại. Tuy nhiên, chính xác điều gì đã xảy ra giữa hai người họ thì tôi không biết. Alva luôn giữ khoảng cách giữa tôi với gia đình cô ấy và từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào về bố mẹ. Tôi đã đón cô ấy đi từ nhà cô ấy vài lần, nhưng cô ấy luôn đợi tôi ngoài cửa nên tôi không vào nhà.
“Mọi thứ ổn chứ?” Tôi hỏi khi cô ấy quay trở lại xe.
Cô ấy gật đầu và khởi động động cơ, nhưng nó vẫn đang ăn mòn cô ấy, tôi thấy dường như mắt cô ấy tối hơn. Alva thường lái xe rất nhanh, nhưng lần này cô ấy thực sự chạy đua vào các khúc cua. Cô ấy mở cửa sổ và tóc bay bay trong gió. Đó là một trong những khoảnh khắc mà tôi rất lo lắng rằng cô ấy có thể bằng cách nào đó gây nguy hiểm cho tôi - tôi không thể tìm ra cách nào khác để diễn đạt. Alva đã chơi trò chơi này với tôi trong nhiều tháng nay. Cô ấy hoàn toàn biết rằng tôi sợ hãi khi cô ấy lái xe quá nhanh và cô ấy cũng biết rằng tôi không muốn thừa nhận điều đó trước mặt cô ấy. Vì vậy, cô ấy lái chiếc Fiat màu đỏ ngày càng nhanh hơn vòng qua các khúc cua; cô ấy có vẻ thích thú với tình cảnh tôi vặn vẹo trên ghế nhưng vẫn cố chấp im lặng. Mỗi lần như thế, cô ấy lại đi xa hơn một chút. Và vào cái đêm đặc biệt này, khi tôi nhận ra rằng cô ấy sẽ không bao giờ dừng lại, rằng cô ấy đã chuẩn bị sẵn sàng cho mọi thứ đến giới hạn, tôi đã từ bỏ.
“Lái chậm lại đi.” Tôi nói khi cô ấy lại tiếp tục lái quá nhanh lúc đến gần một khúc cua khác.
“Bạn sợ à?”
“Đúng, chết tiệt. Làm ơn lái chậm lại đi.”
Alva ngay lập tức nhả chân ga, nở một nụ cười đắc thắng và khó hiểu đến lạ lùng.
Cô ấy đỗ chiếc Fiat màu đỏ bên ngoài quán rượu làng quê hôi hám Jackpot, tụ điểm ăn chơi của đám học sinh trung học. Ở đây thường bật nhạc rock kiểu cũ trên máy hát tự động; bàn bi-a thì cũ mòn xơ xác. Ở phía sau, bên cạnh tấm bia phi tiêu là hai cái máy đánh bạc, thứ cám dỗ bí ẩn đối với mọi kẻ thất bại trong vùng.
Thay vì đi vào quán rượu, chúng tôi ở lại ngồi trong xe một lúc. Alva vặn nhỏ đài và mở một lon bia. Rồi cô ấy nhìn tôi đầy ẩn ý.
“Mở ngăn đựng găng tay ra đi.”
Ở bên trong, tôi tìm thấy một món quà hình chữ nhật được bọc trong giấy nhiều màu sắc. “Cho mình à?”
Cô ấy gật đầu, tôi xé giấy bọc ra. Một cuốn album lưu niệm lưu giữ những bức ảnh thời chúng tôi còn đi học, mỗi bức ảnh đều đi kèm với một bài thơ nhỏ trìu mến. Cô ấy chắc hẳn đã dành hàng giờ để làm nó.
Tôi đã rất xúc động, đến nỗi tôi không thể nói được lời nào trong giây lát. “Tại sao bạn lại làm cái này?”
Cô ấy nói, khá tùy ý: “Ồ, thì tại mình nghĩ bạn sẽ thích nó.”
Tôi nhìn ngắm những bức ảnh. Những bức ảnh chụp chúng tôi bên hồ, trong các chuyến đi chung đến các buổi hòa nhạc và lễ hội, tại một lễ hội đường phố ở Munich, hay trong phòng ở nhà nội trú của tôi. Tôi ôm lấy Alva, và khi cô ấy nhìn thấy tôi hạnh phúc, cô ấy đã đỏ mặt.
Như thường lệ, cô ấy nói về cuốn sách yêu thích của mình, Tâm hồn là một kẻ săn đuổi cô đơn1 của tác giả Carson McCullers. “Bạn nhất định bạn phải đọc nó.” Cô ấy nói.
1 The heart is a lonely hunter
“Ừ, mình biết, mình sẽ đọc mà.”
“Làm ơn đi, Jules. Mình muốn biết bạn nghĩ gì về nó. Cách các nhân vật lang thang một mình vào ban đêm, thao thức. Cuối cùng, tất cả họ đều dừng chân ở quán cà phê này, quán duy nhất mở cửa vào ban đêm.” Cô ấy luôn hào hứng khi nói về sách. “Mình muốn trở thành một nhân vật văn học như vậy. Một người lang thang khắp thành phố một mình trong bóng tối và đến quán cà phê sau nửa đêm.”
Giọng của Alva trầm lắng nhưng đôi mắt cô ấy lấp lánh; tôi rất thích điều đó.
Tôi đã kể cho cô ấy nghe về những kỳ nghỉ của tôi ở Munich và chuyện tôi đi tìm ngôi nhà nơi tôi lớn lên. “Tất cả đều đã được tân trang lại. Ngay cả chiếc xích đu và nhà trên cây trong sân cũng không còn nữa; họ đang trồng hoa ở đó. Ngôi nhà trông thật khác lạ. Khi ở đó, mình cảm thấy như thể mình đang bị theo dõi, giống như một tên trộm.”
Không giống như tôi, Alva hầu như không bao giờ kể về thời thơ ấu của mình. Chỉ có một lần cô tâm sự rằng, khi còn nhỏ, vào những ngày đặc biệt tốt đẹp với gia đình, cô luôn cảm thấy đau đớn vì khoảnh khắc đấy sẽ trôi qua. Càng nghĩ về điều đó, tôi càng nhận ra bản thân mình trong lần quan sát ngắn ngủi này.
Tôi trông thấy hai người bạn cùng lớp ra khỏi quán Jackpot.
“Bạn có muốn không?” Alva hỏi.
Tôi không biết phải trả lời như thế nào, nhưng cảm thấy nên ngồi thẳng dậy trước đã. Sau đó, tôi thấy cô ấy cuốn thuốc. Tôi chưa bao giờ dùng ma túy.
“Ừ, chắc chắn rồi.” Tôi nói. “Bạn lấy cái đó ở đâu thế?”
“Mình là trùm của một băng đảng ma túy, mình chưa bao giờ nói cho bạn biết điều đó sao?”
“Trùm? Bạn đã khử ai chưa?”
“Trong một số trường hợp, mình buộc phải làm chuyện đó.” Cô ấy nhìn tôi một cách thuyết phục nhất.
Alva thực sự đã rất kiềm chế cho đến khi có liên quan đến ma túy. Khi cuốn thuốc xong, cô ấy rít lấy một hơi, rồi đưa cho tôi.
“Bạn phải hít thật sâu và giữ khói ở bên trong.”
Tôi gật đầu, lúc mới đầu tôi ho sù sụ nhưng sau một lúc thì cũng học được cách. Đầu tôi bay bay. Tôi nằm dài trên ghế phụ và lại nghĩ về căn hộ mà tôi đã phải rời đi khi còn nhỏ. Việc khiến tôi rất sốc là tôi gặp khó khăn khi cố nhớ lại những hình ảnh chính xác về nó; tôi hầu như không thể nhớ được từng phòng riêng lẻ trông như thế nào nữa. Đồng hồ treo ở đâu trong bếp? Những bức ảnh cuối cùng tôi treo trên tường là những bức nào?
Khi tôi đang suy nghĩ chuyện này, một chiếc taxi hiện lên trong trí nhớ của tôi, rẽ vào góc đường dưới ánh đèn đường ban đêm. Tôi cứ nhìn thấy cảnh này trước mắt. Tôi muốn hét lên điều gì đó với chiếc taxi, nhưng nó đã biến mất. Tôi biết rằng hình ảnh này rất quan trọng đối với tôi, nhưng cùng lúc đó, tôi cũng cảm thấy ký ức này vẫn chưa chín muồi, giống như một bức ảnh vẫn đang nằm trong bồn rửa.
“Có chuyện gì vậy?” Alva hỏi.
“Không có gì, sao bạn lại hỏi mình như vậy?
“Bạn đang run rẩy.”
Tôi nhận ra rằng mình đang run và hít thở sâu vài lần. Cuối cùng thì tôi cũng bình tĩnh lại và hình ảnh chiếc taxi đang khởi hành mờ đi.
“Quan hệ của cậu với anh chị thế nào?” Cô ấy hỏi. “Thường thì bao lâu bạn lại gặp họ?”
Tôi nhìn sâu vào cuộn thuốc và tự hỏi liệu tôi có nên kể cho cô ấy nghe về việc tôi và anh chị tôi đã trở nên xa lạ với nhau như thế nào. Nhưng tôi chỉ nhún vai. “Mình nghĩ là chị gái mình hiện đang sống ở London. Còn anh trai mình thì đang ở Vienna.”
“Tức là bạn không thường xuyên gặp họ nữa?”
“Không… Thực tế là hầu như không gặp nữa.”
Alva lấy cuộn thuốc khỏi tay tôi và rít một hơi, khiến nó phát sáng. Cô ấy bật đài lên và nhắm mắt lại. Trong một lúc, cô ấy chỉ ngồi đó, bất động. Sau đó, vẫn nhắm mắt, cô ấy với lấy tay tôi. Cô ấy không làm gì khác, không tiến lại gần hơn, chỉ nắm chặt nó. Tôi bóp tay một lần. Cô ấy cũng vậy. Rồi cô ấy rút tay về.
***
Cuối tuần đó, lần đầu tiên sau một khoảng thời gian rất dài, Marty đã bất ngờ đến thăm tôi. Sau khi anh ấy kiểm tra phòng, chúng tôi đi ra ngoài xe của anh ấy, một chiếc Mercedes đã qua sử dụng. Tôi chưa bao giờ thực sự hiểu anh trai tôi đang làm gì với tấm bằng khoa học máy tính của anh ấy, nhưng rõ ràng anh ấy đã có trong tay rất nhiều “miếng bánh” thành công. Trước đó một thời gian, anh ấy đã thành lập một công ty với người bạn cùng phòng cũ của mình, Toni và một bạn học giàu có: nó liên quan đến (đối với tôi) các khái niệm trừu tượng về “mạng máy tính“ và “thông tin“. Những năm tháng không mấy vui vẻ ở trường dường như đã rèn giũa cho anh sự quyết tâm: Marty đã biến quá khứ, hiện tại và tương lai thành một nấc thang ba bậc đưa anh tiến thẳng lên trên.
“Anh có nghĩ rằng công ty của anh sẽ thành công không?” Tôi hỏi.
“Mọi người sẽ muốn bọn anh.” Anh trai tôi cười toe toét. “Bọn anh mạnh mẽ từ trong trứng nước!”
Chúng tôi đến chỗ chiếc xe. Tôi rất vui khi thấy Toni cũng đến. Vẫn vạm vỡ như hồi còn đi học, anh ấy thản nhiên dựa vào cửa chỗ ghế lái, nhai một quả táo.
“Moreau, Jules.” Anh chào hỏi.
“Brenner, Anton.” Tôi đáp lại.
Chúng tôi ôm nhau. Vài năm trước, khi tôi tham gia đội điền kinh, Toni và tôi thường cùng nhau nâng tạ trong phòng thể chất của trường. Thỉnh thoảng, chúng tôi đi uống bia sau đó. Anh ấy đã dạy tôi một vài chiêu bài và trò ảo thuật, lúc nào cũng say sưa nói về Liz. Sau đó, khi anh ấy không còn có thể chơi thể thao sau ca phẫu thuật đầu gối lần thứ hai, anh ấy đã đòi quyền được kết hôn với chị gái tôi như một sự an ủi.
Khi tôi đề cập chuyện này với anh ấy, anh ấy chỉ xụ mặt, “Cô ấy đã hồi âm bức thư tình của anh chưa?”
Chúng tôi cùng nhau đi xuống hồ. Marty, trong một khoảnh khắc thiên tài, đã đưa ra tiên đoán về Internet: “Sẽ có một thế giới mới, Jules à, em hiểu không? Thế giới cũ đã được sắp xếp và đo lường, nhưng sớm thôi tất cả chúng ta sẽ có thể trở thành những người tiên phong lần nữa.” Tôi nhìn chằm chằm bộ trang phục của anh ấy: tóc ngôi lệch, kính không viền, vest và giày da tết. Một sinh viên xuất sắc cần mẫn của Harvard đã xuất hiện từ cái kén của một gã mọt sách áo đen. Mặc dù anh trai tôi không có một khuôn mặt đặc biệt hấp dẫn, với chiếc mũi dài và khuôn miệng mỏng (Liz đã từng nói khuôn mặt ấy “giống như một bức phác thảo bằng bút chì vẽ vội của Sempé”), anh ấy trông đã đẹp hơn gấp mười lần so với thời đi học, và anh ấy tràn đầy năng lượng.
“Anh trai em sẽ trở thành quản lý hạng nhất; anh luôn biết điều đó.” Toni nói. “Anh chỉ đang núp bóng anh ấy.”
Tuy nhiên, Marty vẫn bị rối loạn vận động: anh ấy luôn cảm thấy thôi thúc phải bước qua mọi vũng nước trên con đường chúng tôi đi. Ngay cả ở trường, anh ấy cũng không bao giờ có thể rời khỏi phòng mà không ấn tay nắm cửa xuống nhiều lần. Đôi khi là bốn lần, rồi mười hai, rồi tám lần nữa. Với sự chính xác khoa học của một kẻ điên, dường như anh ấy đã phát triển một hệ thống có logic bên trong cho riêng nó; mặc dù tôi luôn tính đếm lại tất cả nhưng tôi chưa bao giờ tìm ra cách giải quyết nó.
Hai người họ tra hỏi tôi về cuộc sống ở nhà. Tôi phải nói gì đây? Sau chín năm, tôi đã hoàn toàn làm chủ được vai trò của một đứa trẻ nội trú vui vẻ, hòa đồng đến mức đôi khi, trong một vài khoảnh khắc, tôi thậm chí còn tin rằng mình thực sự vô tư đến vậy. Nhưng tôi vẫn chưa bao giờ thổ lộ điều gì về bố mẹ mình. Mong muốn chân thành nhất của tôi chỉ là được làm một người bình thường, không phải là đứa trẻ mồ côi chết tiệt nữa. Tôi đã cất giữ cẩn thận và niêm phong những ký ức về bố mẹ mình, để họ đọng lại thành hạt bụi trong một góc tâm thức của tôi, và mặc dù tôi đã từng thường xuyên lui tới thăm mộ của họ ở Munich, tôi đã không còn đến đó từ rất lâu rồi.
“Nhân tiện, mặc dù anh không muốn làm em lo lắng,” Marty nói, “nhưng Liz đang sống tệ lắm. Gần đây chị ấy đến tìm gặp anh ở Vienna và chị ấy trông có vẻ mệt mỏi. Chị ấy dùng ma tuý nhiều quá.”
“Nhưng chị ấy luôn như vậy mà.”
“Anh đang nói đến những loại ma tuý nặng ấy. Anh nghĩ bây giờ chị ấy đã hối hận vì bỏ học rồi.”
“Điều gì khiến anh có suy nghĩ như vậy?”
“Chị ấy có vẻ buồn khi cùng anh đến trường đại học. Và anh biết chị ấy hối tiếc về điều đó.”
Tôi không thể nghĩ ra bất cứ điều gì để nói. Trong nhiều năm, tôi hầu như không nghe thấy tin gì từ Liz; ít nhất bây giờ chúng tôi cũng đã mơ hồ liên lạc lại. Lần cuối cùng tôi gặp chị ấy là vài tháng trước đó, ở Munich. Một cuộc gặp cho có lệ, như mọi khi.
Để thay đổi chủ đề, anh trai tôi kể cho tôi nghe về bạn gái của anh ấy, Elena, người mà anh ấy đã gặp ở trường đại học. Khi tôi hỏi anh ấy có yêu chị ấy không, Marty bác bỏ câu hỏi. “Tình yêu,” anh ấy nói. “Đó là một khái niệm văn học ngu ngốc, Jules ạ. Nó chỉ là phản ứng hóa học mà thôi.”
***
Tôi chạy ngắn trên đường chạy một trăm mét với tốc độ nhanh nhất có thể. Alva nằm trên bãi cỏ, đọc sách. Bãi cỏ đầy cát và đường chạy đang trong tình trạng tồi tệ; tuy nhiên, sân thể thao là một thứ gì đó giống như linh hồn của trường học. Tất cả mọi nhóm người sẽ gặp nhau ở đây vào các buổi chiều để thảo luận về kế hoạch của họ cho buổi tối, để đọc sách, hoặc đơn giản chỉ để giết thời gian.
Tôi là một vận động viên chạy tốt; tôi không phá vỡ bất kỳ kỷ lục nào, nhưng tôi đã mang một vài chiến thắng về cho đội tuyển điền kinh của chúng tôi trong các cuộc thi thể thao. Thở hổn hển, tôi dừng lại trước mặt Alva. Cô ấy đang cầm một cuốn sách nhỏ của Reclam trên tay. Bất cứ khi nào cô ấy đọc, tôi lại thấy có gì đó trong cô ấy khác đi. Khuôn mặt cô ấy giãn ra, miệng mở nhẹ, dường như đột nhiên cô ấy trở nên không thể công kích, được bảo vệ, che chở.
Tôi thoáng thấy hai dòng của một bài thơ, và đọc to lên:
Trước mắt chúng ta Thần chết vĩ đại.
Số phận của chúng ta đã khép lại trong bàn tay an tĩnh của Ngài…
“Nghe ấm lòng thật đấy.” Tôi nói. “Đoạn tiếp theo như thế nào?”
Alva đóng sập cuốn sách nhỏ lại. “Tiếp tục đi, chạy thêm một vòng nữa!” Cô ấy vui vẻ nói.
Sau khi tập luyện, tôi đi tắm, thay đồ và mang theo máy ảnh quay lại chỗ cô ấy. Tôi chụp vài tấm ảnh cho cô ấy, rồi nằm xuống bên cô ấy trên bãi cỏ. Tôi nghĩ chính Alva là người đầu tiên nói về việc cô ấy chắc chắn muốn có con sau này.
“Bạn muốn có bao nhiêu đứa con?” Tôi hỏi.
“Mình thích có hai cô con gái. Một đứa sẽ độc lập và trái ngược với mình rất nhiều, đứa còn lại sẽ rất tận tâm và luôn tìm đến mình bất cứ khi nào con bé cần lời khuyên. Con bé cũng sẽ viết những bài thơ không bao giờ có ý nghĩa.”
“Và điều gì sẽ xảy ra nếu cả hai cô con gái của cậu hoàn toàn thất bại hoặc lập dị?”
“Chà, chúng được phép hơi lập dị một chút.” Alva mỉm cười. Nếp nhăn nhỏ giữa trán cô biến mất.
Sau đó, cô ấy nói một cách nghiêm túc, “Mình phải cảnh báo bạn, Jules ạ, nếu mình ba mươi tuổi và không có con, và bạn cũng không có con, mình muốn có một vài đứa con với bạn. Bạn sẽ là một người bố tốt, mình hoàn toàn chắc chắn về điều đó.”
“Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là chúng ta phải ngủ cùng nhau trước.”
“Mình chấp nhận tình huống chẳng đặng đừng này mà.”
“Ừ, có lẽ là bạn sẽ chấp nhận đấy. Nhưng ai nói là mình sẽ sẵn lòng chứ?”
Cô ấy nhướn mày. “Cậu không sẵn lòng à?”
Cuộc trò chuyện ngập ngừng trong giây lát.
Xấu hổ, tôi liếc về phía khu nhà nội trú. Lớp xi măng nóng của bãi đậu xe lấp lánh như những mảnh thủy tinh dưới ánh nắng.
“Ừ, nghe hay đấy.” Tôi nói. “Mình cũng không muốn trở thành một người bố già nua. Giới hạn của mình cũng là ba mươi. Do đó, mình sẵn sàng đơm hoa kết trái cùng bạn sau đó nếu cần.”
“Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không còn biết nhau nữa khi chúng ta ba mươi?”
“Điều đó không bao giờ có thể xảy ra.”
Cô ấy nhìn tôi thật lâu. “Những điều như vậy luôn có thể xảy ra.”
Mắt mèo của Alva có màu xanh lục; không nhạt và tối như tờ đô-la, nhưng sáng như thảm cỏ. Màu xanh lá cây là sự tương phản hấp dẫn với màu đỏ trên mái tóc cô ấy, nhưng đôi mắt ấy thường ánh lên một nét gì đó không thân thiện, gần như lạnh lùng. Đó không phải là đôi mắt của một đứa trẻ mười chín tuổi mà là của một người phụ nữ, hờ hững và không còn trẻ nữa. Tuy nhiên, khi cô ấy nói “Những điều như thế luôn có thể xảy ra”, có gì đó trong mắt cô ấy thay đổi; tất cả sự lạnh lùng đã tan biến mất.
Một giọt nước rơi trên cánh tay cô ấy. Chúng tôi nhìn lên. Những đám mây nặng nề che phủ lấy mặt trời; tiếng sấm đì đùng vang vọng từ hư không. Vài giây sau, trời mưa như trút nước.
Chúng tôi vơ vội lấy đồ đạc và chạy vọt về phòng. Alva tìm thấy rượu gin mà Toni đã mang cho tôi trong chuyến thăm cuối cùng của anh ấy. Cô ấy liên tục rót đầy ly của chúng tôi và không thực sự để ý rằng chúng tôi đã dần dần uống cạn sạch từ lúc nào. Rượu làm tôi phấn chấn hẳn lên. Tuy nhiên, Alva lại rất căng thẳng.
“Anh ấy đã kết thúc với mình.” Cô ấy đột ngột nói.
Bạn trai của cô ấy khoảng ngoài hai mươi tuổi, một người buôn bán ô tô khá xa xỉ ở thị trấn; tôi không thích anh ta. Alva lắc đầu. “Nhưng có lẽ là do mình đã đối xử tệ với anh ấy. Mình xứng đáng phải nhận kết cục này.”
“Không, bạn không tệ vậy đâu. Dù sao thì bạn cũng đã quá tốt với tên ngốc đó rồi.”
“Tin mình đi, mình đáng bị anh ấy bỏ rơi mà.” Cô ấy chua xót mỉa mai: “Jules ạ, con người mà bạn luôn nhìn thấy ở mình không phải là mình đâu.”
“Không, ngược lại ấy. Bạn không nhìn thấy con người bạn.”
Cô nhún vai, uống cạn ly và ngay lập tức rót đầy lại. Lúc này cô ấy hơi lắc lư. Cảm ơn anh, Toni, tôi nghĩ. Không hiểu tại sao anh lại mang chai gin này đến cho em, nhưng em nợ anh lần này.
Tôi nhớ cảm giác lúc cô ấy nắm tay tôi trên chiếc Fiat.
“Bạn có nhớ lúc mình ngồi cạnh bạn vào năm lớp sáu không?”
“Điều gì khiến bạn nghĩ đến việc đó vậy?”
“Chỉ vì… tại sao lại là bạn cơ chứ?”
“Bạn là học sinh mới và bạn ăn mặc kỳ quặc lắm; tất xanh và đỏ, chẳng có gì ăn nhập với nhau cả. Bạn trông rất buồn và tuyệt vọng nữa. Mọi người đều đem bạn ra làm trò đùa.”
“Họ làm thế á? Mình không bao giờ nhận ra đấy.”
“Mọi người cũng buồn cười vì bạn lúc nào cũng đọc ngược các từ. Lanh động, mình nhớ từ này. Hoặc Có thuyện gì chế thay vì Có chuyện gì thế.” Alva cầm chiếc áo vest chì mà tôi luôn mặc khi đi chạy lên và ngắm nghía. “Đó là lý do tại sao mình đến ngồi cạnh bạn: bạn sẽ không còn đơn độc như vậy nữa. Nhưng sau đó khi tất cả mọi người bắt đầu trêu chọc mình và nói rằng mình yêu bạn, mình đã chuyển về chỗ cũ.”
“Bạn khá là nhát gan.”
“Đúng vậy.”
Chúng tôi nhìn nhau rất lâu.
“Alva, bạn say rồi.” Tôi nói.
“Không, Jules, bạn mới say ấy. Bạn bắt đầu uống gin từ bao giờ thế?”
“Vẫn luôn như vậy mà, một chai một ngày trước khi đến lớp.” Tôi bước lại gần và lấy cái áo ra khỏi tay cô ấy. “Có quá nhiều điều bạn không biết về mình.”
Cô ấy dán chặt mắt vào tôi. “Ồ? Giả dụ như?”
Có một khoảng lặng. Câu hỏi không được trả lời càng lâu thì nó càng chuyển từ vui tươi sang nghiêm túc. Tôi cười trừ, nhưng tiếng cười đó giống như một tiếng thở hổn hển hơn.
Vì Alva không muốn đóng vai chính trong cảnh này, tôi theo bản năng của mình bật bừa một bản nhạc lên: Via Con Me của Paolo Conte, bài hát mà mẹ tôi đã chơi cho tôi nghe ngay trước khi bà mất.
Tôi nhìn Alva, mái tóc ẩm ướt của cô ấy vẫn xõa trên mặt. Có vẻ như chiếc váy của cô ấy hơi bó; cô cẩn thận kéo nó xuống để che đôi chân trần của mình. Vào khoảnh khắc đó, tôi bắt đầu chuyển động theo âm nhạc. Đầu gối tôi run run.
“Bạn nhảy đẹp thật.” Cô ấy nói, giọng nói tràn đầy ngạc nhiên.
Thay vì trả lời, tôi mời cô ấy khiêu vũ cùng. Thậm chí còn đưa tay ra khi cô ấy vẫy tay từ chối. “Thôi nào,” tôi nói. “Chỉ một bài này thôi… Đến đây nào!” Tôi đóng giả thành một anh chàng người Ý hào hoa, cất cao lời bài hát trên sân khấu:
Thật tuyệt vời, thật tuyệt vời, thật tuyệt vời, chúc em tôi may mắn
Thật tuyệt vời, thật tuyệt vời, thật tuyệt vời
Anh đã mơ về em...
Alva nhoẻn miệng cười. Sau đó, khuôn mặt cô ấy tối sầm lại, và tôi cảm thấy suy nghĩ của cô ấy đột nhiên bay đến nơi nào khác. Cơ thể cô ấy mềm nhũn, có lúc cô ấy còn lắc đầu. Sự thất vọng đã lấy đi hơi thở của tôi. Tôi mím chặt môi lại, và trong một lúc tôi đã nhảy một mình, một tên ngốc can đảm. Tuy nhiên, cuối cùng, tôi tắt nhạc đi; sau đó không lâu Alva thu dọn đồ đạc rồi rời đi.
***
Kỳ nghỉ lễ Ngũ tuần1 năm 1992 trôi qua êm đềm, cho đến một ngày tôi thấy bác ở trong bếp, chìm trong suy nghĩ, trong mắt bác ánh lên một tia sáng kỳ lạ. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng bác đã già đi. Và sau đó tôi đã hiểu. Ngày đó là sinh nhật của mẹ tôi. Tôi xấu hổ vì tôi đã hoàn toàn quên mất. Tuy nhiên, tôi chỉ đồng ý vì phép lịch sự khi bác muốn ngồi trên ghế xô-pha cùng với tôi và xem ảnh gia đình.
1 Lễ Ngũ tuần (hay Lễ Chúa Thánh thần Hiện xuống) là một ngày lễ của Kitô giáo, được cử hành vào ngày thứ năm mươi tính từ lễ Phục Sinh.
Tôi nhìn thấy mẹ tôi khi còn là một cô bé, khi còn là một thiếu nữ và khi bà là một phụ nữ trẻ với mái tóc ngắn thời trang, mặc chiếc váy ngắn đứng giữa một nhóm học sinh. Ánh mắt ngưỡng mộ của bác hướng về người đàn ông đẹp trai bên cạnh mẹ tôi. Ông ấy mặc áo sơ mi trắng và thắt cà vạt ngắn; tay áo ông xắn lên, miệng ngậm một cái tẩu thuốc, và mắt ông sáng rực khi nói chuyện với những người khác.
“Bố của con rất hấp dẫn, rất thông minh.” Bác tôi nói. “Ông ấy thích thảo luận về mọi thứ trong nhiều giờ liên tục.”
Trong bức ảnh tiếp theo, tôi thấy bà nội người Pháp của tôi, người luôn có nét cứng ngắc ở khuôn miệng. Có cả Marty bé nhỏ, với đàn kiến của mình. Liz trong bộ váy công chúa với chiếc nơ hồng trên tóc và tôi ở phía sau, há hốc miệng nhìn chị ấy. Trong một bức ảnh khác, tôi, lúc đó chín tuổi, đang ở trong bếp và tập trung nhìn xuống một cái chảo. Mùi thức ăn quen thuộc lập tức xộc vào mũi tôi. Tôi đã không nấu ăn trong nhiều năm; nhưng tôi chưa từng thích nấu ăn sao? Hay bây giờ tôi chỉ tưởng tượng ra nó vì những bức ảnh thôi? Tôi căng não và thấy nhiều ký ức ngày càng rõ ràng hơn.
Một bức ảnh khác chụp tôi nở nụ cười toe toét, tự tin trước đây của mình, đang đứng trước một cái khung chơi leo trèo có rất nhiều bé trai, bé gái vây quanh.
“Con luôn muốn trở thành trung tâm của sự chú ý.” Bác tôi nói. “Một người có khí chất thực sự. Nếu trời cao có cấm ai đó không được nhảy theo giai điệu của con thì con cũng sẽ tìm cách để người đó thấu hiểu và tin tưởng được. Chẳng có thứ gì nguy hiểm đối với con cả.”
Tôi có cảm giác bác đang nói về một ai đó khác.
“Thật ạ?” Tôi hỏi.
“Con là một đứa trẻ đặc biệt.” Bác nói. “Marty luôn là người thông minh, Liz là một cô gái quyến rũ, nhưng con thì khá khác biệt - tinh tế hơn nhiều so với hầu hết những đứa trẻ khác.” Bác cười. “Kể cả khi con cứ líu lo không ngừng.”
Cuối cùng chúng tôi xem đến bức ảnh chụp mẹ tôi đang nhìn tôi mơ màng trong khi tôi viết gì đó vào cuốn sổ màu đỏ của mình.
Bác tôi ngừng lật trang và dừng lại trước bức ảnh này. “Mẹ con yêu con rất nhiều.” Bác ấy nói. “Con là tình yêu của em ấy.”
Tôi nhìn chằm chằm vào bức ảnh mẹ tôi. Khi còn nhỏ, bà ấy gọi tôi là “ốc sên bé bỏng” vì ở ngoài trời, tôi thường vươn mình như một con ốc sên và hấp thu tất cả mọi thứ xung quanh. Bất cứ khi nào tôi không chắc chắn về điều gì, tôi sẽ hỏi xin lời khuyên của bà ấy. Bà ấy là chiếc la bàn dẫn lối của tôi. Tôi trầm ngâm nhìn bà ấy đang nhìn tôi, khuôn mặt quen thuộc của bà ấy, bàn tay bà ấy đặt lên vai tôi.
Trước sự ngạc nhiên của mình, tôi thấy mắt mình đã rưng rưng.
“Đó là...” Tôi đã bắt đầu.
Bác ghì đầu tôi xuống và ôm tôi. Tôi cảm nhận được sự ấm áp của bác ấy và không thể kìm lòng được. Tôi bắt đầu khóc vì tôi đã không khóc trong rất nhiều năm.
“Con nhớ mẹ con rất nhiều.” Tôi cứ lặp đi lặp lại lời đó khi bác tôi vươn tay vỗ về an ủi tôi sau lưng.
***
Bữa tiệc được tổ chức trong một căn nhà gỗ trên núi không có điện và nước máy. Tất cả các bài kiểm tra viết đã kết thúc, kềm sắt của hệ thống trường học đã được nới lỏng, chỉ còn lại các bài kiểm tra vấn đáp. Đồng môn của tôi đã quyết định cùng nhau ăn mừng một lần nữa. Âm nhạc phát ra từ một máy nghe nhạc CD di động; chúng tôi đã cười to hơn mức cần thiết và đưa ra những lời bình phẩm ngớ ngẩn. Việc hoàn thành các bài kiểm tra cũng giống như thể chúng tôi vừa cướp một ngân hàng và bây giờ chỉ cần nghĩ xem nên làm gì với số tiền đó.
Đột nhiên Alva biến mất. Cô ấy thường xuyên đi một mình, nhưng một giờ sau, khi cô ấy vẫn chưa trở lại, tôi đã đi tìm cô ấy. Tôi tìm thấy cô ấy ở cách căn nhà gỗ vài trăm mét. Cô ấy đang đứng trên một tảng đá, nhìn chằm chằm vào vực sâu.
Tôi dùng chân đá vào một viên đá. Alva quay lại.
“Chuyện gì vậy?”
“Không có gì.” Cô ấy nói.
Chúng tôi ngồi cạnh nhau, thả chân đung đưa giữa vực thẳm. Vầng trăng toả rạng trên thung lũng trước mặt.
“Mình đã đọc những câu chuyện của bạn ngày hôm qua.” Cô ấy nói. “Mình thích chúng lắm. Thực sự rất thích.”
Trong vài tuần qua, tôi đã bắt đầu viết lách trở lại. Như thể cánh cửa tuổi thơ của tôi lại mở ra lần nữa, tôi nhận ra rằng niềm yêu thích kể chuyện của tôi vẫn còn vẹn nguyên như khi tôi lên mười. Truyện ngắn của tôi được lấy nguyên mẫu từ An Indomitable Heart (tạm dịch: Trái tim không khuất phục) của A. N. Romanov, người mà Alva tôn thờ gần như bằng Tolstoy hay McCullers.
“Bạn thực sự tài năng, Jules ạ.” Cô ấy nói. “Bạn phải tiếp tục viết; một ngày nào đó bạn nhất định sẽ trở thành tác giả.”
“Mình không biết. Ảnh chính xác hơn, chân thực hơn.”
“Đôi khi lời nói dối còn tốt hơn nhiều.”
Tôi phải thực hiện nghĩa vụ dân sự bắt buộc của mình ở Munich. Tối hôm đó, tôi đã hỏi cô ấy liệu cô ấy có thể chia sẻ căn hộ của mình với tôi không, và có lẽ là một người khác nữa. Alva không chắc. Cô ấy vẫn thường nói rằng điều đầu tiên cô ấy muốn làm là đi du lịch hoặc đi và sống ở một nơi xa. “Gần như chẳng có gì ở đây có thể níu chân mình.” Cô ấy nói rồi cười lớn. “Mình phải yêu điên cuồng ai đó hoặc thứ gì đó thì mới ở lại được.”
Tôi cảm thấy mình cần phải làm gì đó để buộc cô ấy gần tôi hơn. Đồng thời tôi đang kéo tất cả nỗi sợ hãi của mình lên từ một đáy giếng sâu và bẩn thỉu. Từ trước đến giờ, Alva luôn đẩy tất cả mọi người đàn ông tiếp cận cô ấy ra xa. Cô ấy không muốn khiêu vũ với tôi và chỉ có thể có một lý do duy nhất cho sự từ chối này. Tôi làm cái gì vậy? Tôi tiếp tục suy nghĩ. Tôi phải làm gì bây giờ?
“Bạn có biết bố đã nói gì với mình trước khi ông ấy qua đời không?” Tôi lo lắng động đậy ngón tay. “Ông ấy nói có một người bạn thực sự - một tri kỷ rất quan trọng. Một người mà bạn sẽ không bao giờ mất, người sẽ luôn ở đó vì bạn. Ông ấy nói rằng điều đó quan trọng hơn tình yêu nhiều.”
Alva quay sang tôi. Đôi môi cô lấp lánh dưới ánh trăng. “Tại sao bạn nói như vậy?”
“Đôi khi mình nghĩ bạn đến đây là vì mình hay mình đến đây vì bạn. Mình có thể tưởng tượng chúng ta sẽ là bạn của nhau suốt cuộc đời và mình vô cùng vui mừng khi chúng ta được biết nhau ở đây. Mình không nghĩ có ai khác có ý nghĩa hơn với mình như bạn.”
Tôi đặt tay lên vai cô ấy và tôi nhận ra rằng mình hiếm khi chạm vào cô ấy như thế này. “Điều mình đang cố gắng nói là: hãy cùng mình đến Munich.”
Cô cân nhắc. “Hãy bàn về tất cả mọi thứ vào tối mai nhé. Đến lúc đó, mình sẽ quyết định xem chúng ta có cùng sống chung trong một căn hộ không. Được chứ?”
“Được chứ. Mình sẽ nấu vài món, nếu bạn thích.”
“Bạn nấu ăn? Bạn có biết làm thế nào không thế?” Cô ấy thích thú. “Ừ, nghe hay đấy. Đón mình ở nhà mình lúc bảy giờ nhé?”
Tôi gật đầu. Tôi cảm thấy rằng cô ấy muốn ở một mình một lúc nữa, vì vậy tôi đã tự mình trở về. Tôi chắc chắn rằng mình đã khiêu vũ với những người khác trong căn nhà gỗ và đã có một khoảng thời gian vui vẻ bên họ, nhưng tôi hầu như không nhớ được gì về chuyện đó. Đúng hơn, đó là cuộc trò chuyện thứ hai tôi có với Alva khiến tôi bận tâm trong nhiều năm.
Khi tất cả chúng tôi đi ngủ, một vài chiếc giường đã sớm có người nên những người còn lại nằm rải rác trong căn nhà gỗ trên chiếu và túi ngủ. Đó là một đêm se lạnh, và tôi thấy lạnh vô cùng. Tôi đã quá say và không tài nào có thể chợp mắt được; nếu tôi nhắm mắt, mọi thứ sẽ bắt đầu quay. Alva ở ngay bên cạnh tôi, tôi liên tục nghe thấy cô ấy tua đi tua lại chiếc Walkman của cô ấy. Cuối cùng cô ấy cũng đặt nó xuống.
Im lặng… Im lặng.
Đối với tôi, đây là lúc công việc thực sự của màn đêm bắt đầu. Giống như một thám tử đang điều tra hiện trường vụ án, tôi lật lại các sự kiện cụ thể trong ngày và tất cả chúng vẫn ở đó. Mọi cử chỉ của Alva mà tôi đã cố gắng diễn giải lại; mọi cuộc trò chuyện mà chúng tôi đã có. Ví dụ như chúng tôi nói về những người đồng môn của mình, hầu hết họ đều không nhận được sự chăm sóc từ ai trên thế giới này. “Đôi khi mình nghĩ rằng có những người thực sự không biết họ sẽ chết.” Chuyện này thực sự làm tôi khó chịu. Tại sao Alva lại nói về những thứ như vậy? Cô ấy đang nằm ngay bên cạnh tôi, nhưng tôi vẫn khao khát cô ấy. Tôi đã tưởng tượng cuộc sống với cô ấy ở Munich sẽ như thế nào. Nghĩ về bữa tối ngày hôm sau, thời điểm chúng tôi sẽ thảo luận mọi thứ.
Tôi vừa chìm vào giấc ngủ thì cô ấy thúc vào người tôi. “Jules. Bạn còn thức không?”
“Ừ. Chuyện gì thế?”’
Cô thì thầm: “Pin Walkman sắp hết rồi và mình không thể ngủ nếu không nghe gì đó. Mình luôn phải đánh lạc hướng bản thân, nếu không…”
Tôi đợi cô ấy nói hết câu, nhưng cô ấy không làm thế.
“Vậy mình kể cho bạn nghe một câu chuyện nhé?”
Cô ấy khẽ cười. “Không, mình chỉ muốn hỏi xem mình có thể đến nằm cạnh bạn không. Nếu có ai đó nằm bên cạnh mình thì cũng không tệ lắm.”
Tôi gật đầu và cô ấy chui vào túi ngủ của tôi. Không có đủ chỗ cho chúng tôi nằm cạnh nhau nên cô ấy đặt nửa thân người lên trên tôi. Tôi thấy ngạc nhiên vì cảm giác mát mẻ, sức nặng thân thể và trên hết là sự mềm mại của đôi chân, của toàn bộ cơ thể cô ấy. Cô ấy cũng lạnh, nhưng cái lạnh của tôi hòa quyện với cái lạnh của cô ấy và chúng tôi thấy ấm áp hơn. Tôi cảm thấy hơi thở của Alva đều đặn phả vào cổ mình, làm tôi nhột nhột. Ý thức được sự gần gũi lạ lẫm của cô ấy - ngực cô ấy ở trên vai tôi, đầu gối cô ấy đặt trên chân tôi - tôi cương cứng. Tôi không biết liệu cô ấy có để ý không. Tôi nằm đó một lúc không nhúc nhích, rồi choàng tay qua người cô ấy.
“Mình cứ nghĩ về chị gái mình, mọi lúc. Không bao giờ dừng lại được.”
Giọng của Alva như sắp vỡ. Tôi ngạc nhiên ngẩng đầu lên. Cho đến lúc đó, cô ấy chưa bao giờ nói với tôi rằng cô ấy có chị gái.
Tôi cẩn thận hỏi: “Có chuyện gì với chị gái bạn à?”
“Mình không biết… Chị ấy lớn hơn mình một tuổi, chúng mình không thể tách rời, làm mọi thứ cùng nhau. Cha mẹ chúng mình nói rằng chúng mình giống như một cặp chị em sinh đôi vậy. Và rồi đó, một vài năm trước… chị ấy biến mất.”
Tôi nghe mà choáng váng. Tôi có cảm giác những người khác đang theo dõi chúng tôi, và tôi nghển cổ. Tuy nhiên, Alva dường như đã quên tôi trong giây lát. “Tên chị ấy là Josephine,” cô ấy tự nói với chính mình. “Nhưng chúng mình luôn gọi chị ấy là Phine.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Không ai biết… Một ngày nọ, chị ấy đã không trở lại sau vở múa ba lê.” Giọng của Alva run run vang vọng. “Cảnh sát đã tìm kiếm chị ấy, tất nhiên. Họ lật từng viên đá trong cả khu vực… Các hoạt động tìm kiếm đã diễn ra trong nhiều tháng… Nhưng ngoài chiếc áo khoác của chị ấy, họ không tìm thấy bất cứ thứ gì. Ngay cả cơ thể của chị ấy cũng không…”
Cô ấy quay mặt đi. Tôi cảm nhận được sự tuyệt vọng đằng sau lời nói của cô ấy và không biết phải làm gì. Tôi chỉ có thể ở đây, ngay bên cạnh cô ấy. Tôi nhớ lần cô ấy rời khỏi lớp học khi chúng tôi đang xem phim.
“Tại sao bây giờ bạn mới nói với mình?”
Cô ấy không trả lời. Ánh sáng đầu tiên của buổi sáng chiếu vào căn nhà gỗ và đường nét của những người bạn cùng trường đang ngủ của chúng tôi dần hiện ra trong bóng tối.
“Mình quá mệt mỏi.” Cô ấy nói. “Hãy nói về chuyện này vào tối mai nhé.”
Cô ấy rúc vào người tôi. “Bạn không được phép ngủ trước đâu.” Cô ấy thì thầm, gần tai tôi đến mức khiến tôi nổi da gà. “Điều đó rất quan trọng, Jules ạ. Rất quan trọng.”
“Mình hứa.” Tôi vuốt một lọn tóc trên khuôn mặt cô ấy. Bàn tay Alva vuốt ve ngực tôi trong chốc lát, rồi dừng lại luôn ở đó; và khi hơi thở của cô ấy trở nên chậm hơn, đều hơn, tôi hôn lên thái dương của cô ấy và thì thầm: “Anh ở đây là vì em.”
Ngày hôm sau, tôi vào thị trấn để mua thức ăn cho bữa tối. Tôi đã đăng ký chỗ trong bếp cho học sinh ở khu nhà nội trú và bắt xe buýt đến ngôi làng nơi Alva sống. Tôi ngạc nhiên khi thấy lần này cô ấy không đợi tôi ở ngoài nhà như cô ấy vẫn thường làm. Tôi bấm chuông cửa. Không có ai cả. Khu vườn được chăm sóc cẩn thận; mặt trời lặn phản chiếu qua ô cửa sổ không tì vết. Tôi không thể ngừng nghĩ về chị gái của Alva; rồi tôi bấm chuông một lần nữa.
Cuối cùng tiếng cửa bật mở vang lên và tôi cứ thế bước vào trong.
Đèn ngoài hành lang mờ ảo. Mẹ của Alva đứng đó trong bóng tối, khuôn mặt bà bị bóng tối chia cắt. Bà ấy cầm một điếu thuốc trong tay và tay kia cầm ống nghe điện thoại; giọng bà ấy có vẻ to và căng thẳng. Bản thân Alva thì vẫn chưa thấy đâu. Mùi sốt bolognese nồng thoang thoảng trong bếp. Đột ngột, những tiếng sủa lớn vang lên; hai con chó đốm to con chạy về phía tôi. Trông chúng hoàn toàn giống nhau, đến từng cái đốm nhỏ nhất, và chúng nhìn tôi, dựng ngược lông lên.
“Ta đoán là con muốn gặp Alva.” Mẹ cô ấy nói, khi bà ấy cúp máy. Khuôn mặt bà ấy có cái vẻ chán nản lạ lùng.
Tôi gật đầu và đi theo bà ấy vào bếp, hai con chó chạy lon ton theo sau tôi.
“Trước tiên con có muốn uống một ly nước trái cây hay nước ngọt không?” Bà ấy hỏi khi đang tiến đến tủ lạnh.
“Dạ không, con cảm ơn.” Tôi nói và bà ấy dừng lại. “Con có hẹn ăn tối với Alva; con chỉ muốn đến đón cô ấy. Cô ấy ở trên lầu ạ?”
Có lẽ có điều gì đó trong giọng nói của tôi, điều gì đó đầy hy vọng, khiến mẹ cô ấy bực bội. Bà ấy nhìn tôi chằm chằm rất lâu. “Chúa ơi, con còn trẻ quá.” Bà ấy vừa đánh giá tôi vừa thở ra một làn khói. Tôi cảm thấy không thoải mái.
“Đúng thế, con bé ở trên lầu.” Bà ấy nói. “Con gõ cửa cũng chẳng ích gì đâu, con bé lại đang mở lớn nhạc rồi.”
Tôi đi lên cầu thang, đi những bước cuối trước khi tới cửa phòng của Alva. Tôi đã ở bên ngoài cửa phòng của Alva. Tôi mở nó ra - và đông cứng người, à không, lao thật nhanh ra khỏi nơi đó. Ngay trước khi tôi đóng cửa lại, thế giới của tôi đã sụp đổ hoàn toàn.
Tôi chạy xuống cầu thang. Những hình ảnh đó vẫn quay cuồng trong đầu tôi: những lon bia rỗng, cuốn sách toán và chiếc áo chui đầu trên sàn. Cái giường. Gã đàn ông đang khỏa thân nằm ngửa. Alva cũng trần trụi đang ngồi trên người gã ta. Những sợi tóc đỏ, đẫm mồ hôi; cần cổ của cô ấy hơi đỏ bừng vì gắng sức; chuyển động của cô ấy, chỉ chậm lại trong giây lát; khuôn miệng hơi mở của cô ấy. Những tiếng ồn mà họ đang tạo ra; và trên hết, cái nhìn ngắn ngủi nhưng xuyên thấu mà Alva dành cho tôi.
Một cái nhìn mạnh mẽ hơn bất kỳ câu trả lời nào: im lặng nhưng hung hăng, buộc tội và đồng thời là hối hận. Trong khoảnh khắc đó, tôi thấy ở cô ấy điều gì đó mà cô ấy đã và đang không muốn trở thành như vậy. Tuy nhiên, trên tất cả, tôi nhìn thấy chính mình qua đôi mắt của cô ấy: tôi đã trở thành gì và tôi chưa trở thành gì. Và bất cứ điều gì đã có giữa chúng tôi trong suốt những năm đó, chỉ một cái nhìn thôi cũng đủ khiến nó tan thành từng mảnh.
Khi tôi chạy xuống cầu thang, tôi cảm thấy cơn thịnh nộ khủng khiếp nhất trong tôi. Tôi không muốn chỉ là một cậu bé nữa, tôi muốn rũ bỏ mọi dấu vết của tuổi trẻ, tôi sẽ tự mình loại bỏ chúng nếu có thể. Mẹ của Alva đang đứng với hai con chó ở dưới chân cầu thang. Bà ấy định nói gì đó nhưng tôi chạy đi, ra khỏi làng và đi thẳng qua cánh đồng liền kề mà không quay lại.