N
hững chuyện xảy ra sau đó đều hoang mang và mơ hồ, màn sương mù dày đặc chỉ được chiếu sáng đây đó bởi một vài ký ức ngắn ngủi. Đứng trong phòng của mình ở Munich, tôi nhìn từ cửa sổ ra khoảng sân trong có chiếc xích đu và ngôi nhà trên cây, nhìn ánh sáng ban mai nhảy nhót trên những nhánh cây khẳng khiu ngoài đó. Đó là ngày cuối cùng tôi ở trong căn hộ của chúng tôi, nơi đã hoàn toàn trống rỗng. Tôi nghe thấy tiếng Marty gọi tôi.
“Jules, em có đến đây ngay không?”
Bất đắc dĩ quay đi, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ nhìn xuống khoảng sân thân yêu của chúng tôi nữa, nhưng tôi không cảm thấy gì cả, kể cả khi tuổi thơ của tôi đã trải qua ở đó.
Ngay sau đó: đêm đầu tiên ở trường nội trú, khi chúng tôi đến rất muộn và tôi bị tách khỏi anh trai và chị gái của mình. Mang theo vali, tôi đi bên cạnh một giáo viên trên hành lang trần, lót linoleum, có mùi giấm. Thầy ấy đi quá nhanh; tôi hơi bị tụt lại phía sau. Cuối cùng thầy ấy cũng mở một cánh cửa ra. Một căn phòng có ba giường, hai giường đã có người ở. Những đứa trẻ khác đang mắt nhắm mắt mở buồn ngủ. Tôi tắt đèn và thay quần áo trong bóng tối để không làm phiền họ. Giấu một món đồ chơi êm ái dưới gối, nằm trên chiếc giường mới, tôi nghĩ đến bố mẹ và anh chị tôi đang ở rất gần nhưng lại rất xa, nhưng tôi không khóc dù chỉ một giây.
Tôi nhớ về một ngày cũng trong mùa đông, khoảng vài tuần sau đó. Một cơn gió mạnh thổi qua vùng đồi núi phủ đầy tuyết. Tôi kéo cao khoá áo chống gió, đưa tay lên trước mặt và lê bước về phía trước. Nước mũi tôi chảy ròng ròng, giày của tôi nén sâu xuống lớp tuyết mới, làm phát ra những tiếng răng rắc sau mỗi bước chân. Cái lạnh là cú sốc với phổi của tôi. Sau một giờ, tôi ngồi trên chiếc ghế băng giá và nhìn xuống thung lũng. Mọi thứ có vẻ im lặng và xa lạ quá. Tôi tưởng tượng sẽ nhảy xuống, không khí lạnh cuốn lấy tôi ở phía trên lớp vỏ tuyết lấp lánh chỉ vài mét, một khoảnh khắc thót tim. Tôi thấy mình tăng độ cao nhanh chóng, vọt lên phía trên, tăng tốc, gió tạt vào mặt, trước khi bay với cánh tay dang rộng về phía đường chân trời, bay đi thật xa. Tôi quay lại nhìn ngôi trường, cảm thấy thật dễ chịu khi ở phía xa, và hình dung ra họ đang làm gì lúc này mà không có tôi. Tôi thấy họ trượt băng, nói chuyện về đám con gái, quậy phá và chém gió với nhau, đôi khi đi quá xa, cho đến khi một lát sau, tất cả lại bị lãng quên lần nữa. Những tia sáng đầu tiên bắt đầu ló rạng sau đám mây bụi, và tôi nghĩ về cuộc sống bỗng chốc bị thu hẹp lại trước kia của mình ở Munich; nhưng nỗi nhớ nhà giờ chỉ còn là một vết sẹo đang mờ dần.
Khi tôi về đến nhà nội trú thì trời đã tối, bầu trời đêm đen kịt. Tôi mở cánh cửa dẫn đến lối vào chính. Những giọng nói vui vẻ vang lên từ phía nhà ăn; và mũi tôi bị xâm chiếm bởi mùi thức ăn nồng nặc, mùi mồ hôi và chất khử mùi. Không khí đặc quánh với những mong đợi, tiếng cười và nỗi sợ hãi bị đè nén. Tôi bước xuống hành lang và thấy một cậu bé tôi không quen biết đang tiến về phía tôi. Cậu nhìn tôi đầy nghi ngờ, một người mới. Tôi bất giác dựng thẳng người dậy, cố gắng trông thật trưởng thành và không mắc bất kỳ sai lầm nào. Cậu bé lướt qua tôi, không nói một lời.
Tôi về đến phòng, ngồi trên giường và phủi tuyết trên tóc. Tôi chỉ đơn thuần hiện diện ở đó: một hồn ma, một sinh vật nhỏ bé, mười một tuổi. Tôi ngồi trong phòng, tê liệt và trống rỗng, trong khi tất cả những người khác đang ăn tối. Sau đó, tôi sẽ bị phạt vì vắng mặt. Tôi nhìn chăm chăm vào bóng tối.
***
Ngôi trường nội trú mà anh chị tôi và tôi ở sau sự ra đi của bố mẹ không phải là một trong những học viện ưu tú với sân tennis, sân khúc côn cầu và xưởng làm gốm như chúng tôi có lẽ đã từng hình dung. Thay vào đó, nó chỉ là một cô nhi viện nghèo ở tỉnh lẻ do nhà nước điều hành, có hai tòa nhà màu xám và một nhà ăn bên cạnh trường trung học địa phương. Vào buổi sáng, chúng tôi lên lớp học cùng đám trẻ em trong vùng; buổi chiều và buổi tối, chúng tôi ở trong phòng, bên hồ hoặc trên sân bóng đá. Kể cả khi bạn đã quen với cuộc sống tập trung này hay thậm chí khi bạn đã ở đó nhiều năm, bạn vẫn có thể cảm thấy buồn tủi vào những ngày đám học sinh được về nhà với gia đình sau giờ học còn bạn phải ở nguyên tại chỗ như một tù nhân, như thể bạn đã làm điều gì sai trái. Bạn chia sẻ căn phòng tồi tàn với những người xa lạ, những kẻ một lúc nào đó lại trở thành bạn bè. Sau một năm, bạn lại phải chuyển đi. Thật khó khi phải sống cả đời của mình với quá ít thời gian và không gian như thế; đã có rất nhiều cuộc tranh cãi, nhưng cũng có cả những cuộc trò chuyện kéo dài suốt đêm. Đôi khi chúng tôi nói về những điều thực sự nghiêm túc, những điều mà chúng tôi sẽ không bao giờ lặp lại vào ban ngày, nhưng phần lớn thời gian, chúng tôi chỉ nói về giáo viên hoặc nữ sinh. “Có phải cô ấy liếc nhìn tớ vào giờ ăn trưa hôm nay không?” Hoặc: “Sao, cậu không biết cô ấy à? Chúa ơi, Moreau, cô ấy là cô gái xinh đẹp nhất trong cái trường chết tiệt này đấy!”
Rất nhiều học sinh nội trú lọt vào tầm ngắm của cảnh sát khu vực hoặc thi trượt. Một vài trong số chúng còn sử dụng ma túy. Đôi khi, những thằng tội phạm đặc biệt sẽ giống như đám rác trôi nổi lềnh phềnh trên đại dương được quét vào những ngôi trường công buộc phải có nghĩa vụ tiếp nhận bất cứ học sinh nào. Đám trẻ trong làng buộc phải chứng kiến, khiếp sợ khi những kẻ điên cuồng từ thành phố xâm nhập vào vùng nông thôn của họ. Khi đó, họ sẽ hỏi bạn “Bạn cũng là người từ nhà à?”, tức là không có quá nhiều trường nội trú được coi là trại thương điên như cái trường này. Trong những bữa ăn, chúng tôi ngấu nghiến mọi thứ; nhưng không bao giờ là đủ. Cái đói luôn vồ vập lấy chúng tôi. Tuy nhiên, những tin đồn vẫn lặng lẽ liên tục chảy trôi: mọi người rất hay chú ý xem ai đã nói chuyện với ai, ai kết bạn với ai và ai là người được các cô gái quan tâm nhiều nhất. Không phải sự thay đổi nào cũng được chấp nhận. Có những bộ quần áo mới, ban đầu được chủ nhân tự hào phô diễn, nhưng nhanh chóng bị nhét trở lại tủ quần áo vì chúng không được đón nhận nồng nhiệt. Một số học sinh nội trú cố gắng thay đổi bản thân sau kỳ nghỉ hè; họ sẽ trở lại trường học, tràn đầy sự tự tin mới, nhưng trong vòng vài ngày, hầu hết sẽ trở lại con người cũ của họ. Bạn đã và sẽ vẫn là người giống như người khác nghĩ.
Cho đến tận lúc đó, trong tôi luôn có cảm giác an toàn, nhưng bây giờ, đôi lúc khi tôi nhìn thấy ánh sáng yếu ớt của buổi chiều tối chiếu trên một hành lang u ám, hoặc những tán cây tỏa bóng mờ ảo lên cảnh vật lúc chạng vạng, một thứ gì đó ở bên trong tôi chợt lóe lên. Việc đang ở trên một hành tinh lao xuyên qua không gian với tốc độ phi thường đối với tôi dường như cũng kinh hoàng như cái suy nghĩ mới, hỗn loạn rằng cái chết là không thể tránh khỏi. Nỗi sợ hãi của tôi lớn dần lên như một vết nứt từ từ lan ra mọi hướng. Tôi bắt đầu sợ hãi bóng tối, cái chết và sự vĩnh hằng. Những suy nghĩ này đã khiến thế giới của tôi trở nên chông gai hơn, càng thường xuyên suy ngẫm về chúng, hố sâu ngăn cách giữa tôi và những người bạn vô tư, vui vẻ của tôi càng lớn. Tôi chỉ có một mình. Và rồi tôi gặp Alva.
***
Trong những ngày đầu tiên đến trường mới, tôi đã pha trò trong giờ học. Lớp cũ của tôi vẫn luôn mong đợi những màn trình diễn như thế từ tôi nhưng khi tôi bắt đầu đùa có mục đích, tôi nhận ra trò đó không còn hiệu quả ở đây nữa. Tôi nhìn vào những khuôn mặt xa lạ của những người bạn đồng môn và cảm thấy rằng sự tự tin của tôi đã dần bốc hơi đi đâu mất. Cuối cùng không ai cười nữa cả và vai trò của tôi bị đóng băng. Tôi là một người bạn mới kỳ quặc, không để ý đến quần áo mình mặc vào mỗi buổi sáng và lúc nào cũng xoắn xuýt nói lộn từ khi lo lắng: ví dụ như “bẽ đỗ xai” thay vì “bãi đỗ xe”. Tôi không muốn trở thành trò cười của cả lớp, vì vậy tôi bắt đầu ít nói dần và cuối cùng ngồi cô lập ở phía sau. Cho đến một vài tuần sau đó, một cô gái đã đến và ngồi xuống bên cạnh tôi.
Alva có mái tóc màu đồng và cặp kính gọng sừng. Ấn tượng đầu tiên của tôi về cô ấy là một cô gái thôn quê duyên dáng, nhút nhát, ghi chép mọi thứ trên bảng đen vào vở bài tập của mình bằng những bút màu khác nhau. Nhưng có điều gì đó rất khác ở cô ấy. Alva đôi khi dường như cố tình tránh những đứa trẻ khác trong một vài ngày. Cô ấy sẽ ủ rũ nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, đầu óc như chỉ đang nghĩ về điều gì đó mà quên mất đi thực tại. Tôi không biết tại sao cô ấy lại muốn ngồi cạnh tôi; chúng tôi không nói chuyện dù chỉ một lời. Những người bạn của cô ấy cười khúc khích mỗi khi họ nhìn sang chúng tôi. Hai tuần sau đó, tôi lại ngồi một mình ở trong góc. Sự rời đi của cô ấy cũng bất ngờ như lúc cô ấy đến.
Sau đó, tôi thường liếc nhìn cô ấy trong lớp. Mỗi khi được gọi lên trả lời câu hỏi trên bảng, tôi thường thấy cô ấy đứng không vững, tay chắp sau lưng. Tôi lắng nghe giọng nói nhẹ nhàng và ngắm nhìn mái tóc đỏ, cặp kính cận, làn da trắng và khuôn mặt xinh xắn, xanh xao của cô ấy. Tuy nhiên, hơn tất cả, tôi thích những chiếc răng cửa của cô ấy, một trong số đó hơi khấp khểnh. Alva cố gắng không mở miệng quá rộng khi nói để không ai có thể nhìn thấy nó; khi cô ấy cười, cô ấy lấy tay che miệng lại. Mặc dù vậy, đôi khi lúc không có ai chú ý đến, cô ấy sẽ cười rạng rỡ và bạn sẽ có thể nhìn thấy chiếc răng cửa bị khấp khểnh, tôi thực sự thấy yêu điều đó. Tôi chỉ chăm chăn nhìn vào cô ấy dù ngồi cách xa mấy bàn học; nếu cô ấy liếc nhìn lại, tôi sẽ quay đi, xấu hổ và hạnh phúc.
Tuy nhiên, vài tháng sau đó, đã có một vài chuyện xảy ra. Vào một ngày mùa hè ẩm ướt và trong tiết học cuối cùng, chúng tôi được phép xem một bộ phim, một bộ phim trong tiểu thuyết của Erich Kästner. Khi phim chiếu được một nửa, Alva bắt đầu khóc. Cô ấy cúi gập người trên ghế ngồi, vai cô ấy rung lên và cuối cùng cô ấy bật ra tiếng khóc nức nở, làm các học sinh khác cũng chú ý đến. Giáo viên vội vàng dừng bộ phim - tại cảnh trong kỳ cắm trại nghỉ lễ - và chuyển sự chú ý sang cô ấy. Khi hai người rời khỏi lớp học, tôi thoáng thấy khuôn mặt đỏ bừng của Alva. Tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều bị sốc, nhưng hầu như không ai nói gì. Chỉ có một người nói rằng cha của Alva không bao giờ đến dự ngày của cha mẹ và nói chung là hơi kỳ quặc; có lẽ chuyện vừa rồi có liên quan đến điều đó. Tôi thường suy nghĩ về chuyện đó, nhưng tôi chưa bao giờ hỏi Alva. Dù là gì đi nữa, nỗi đau hẳn đã bí mật hình thành từ lâu trong sâu thẳm. Và kể từ đó, cô ấy đã bảo vệ nó rất kỹ.
Vài ngày sau, sau khi tan học, tôi đi bộ về nhà.
“Jules, đợi đã!”
Alva giật mạnh áo cho đến khi tôi quay lại. Cô ấy đi cùng tôi đến lối vào khu nhà nội trú.
“Bây giờ bạn định làm gì?” Cô ấy hỏi khi chúng tôi đứng ngập ngừng ngoài cửa. Cô ấy luôn nói rất nhỏ; bạn phải nghiêng về phía cô ấy mới có thể nghe thấy. Mặc dù cô ấy là học sinh bán trú và sống ở nhà cùng gia đình, nhưng cô ấy có vẻ không muốn về nhà.
Tôi nhìn bầu trời tối sầm. “Cũng không biết... Chắc là mình chỉ nghe nhạc thôi.”
Cô ấy đỏ mặt, nhưng không nhìn tôi.
“Bạn có muốn nghe cùng mình không?” Tôi hỏi, và cô ấy gật đầu.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi những người bạn cùng phòng của tôi không có mặt ở đó. Tôi được thừa kế chiếc máy quay đĩa của mẹ và bộ sưu tập của bà, gần một trăm album của Marvin Gaye, Eartha Kitt, Fleetwood Mac và John Coltrane.
Tôi nhét đĩa có ca khúc Pink Moon của Nick Drake vào. Một trong những tác phẩm yêu thích của mẹ. Trước đây tôi rất ít quan tâm đến âm nhạc; giờ mỗi lần mũi kim lách vào đĩa nhựa, đối với tôi, lại là một khoảnh khắc hạnh phúc.
Alva đang tập trung cao độ; nét mặt của cô ấy hầu như không thay đổi khi lắng nghe. “Mình rất thích bài hát này.” Cô ấy nói. Thật kỳ lạ, cô ấy không ngồi xuống ghế mà lại ngồi lên bàn của tôi. Cô ấy lấy một cuốn sách trong ba lô ra và chẳng nói chẳng rằng, bắt đầu đọc, như thể cô ấy đang ở nhà mình vậy. Tôi thích điều đó bởi cô ấy cảm thấy thật thoải mái khi ở bên tôi. Nắng chiều xuyên qua những đám mây khiến căn phòng tắm trong ánh sáng của màu rượu mạnh.
“Bạn đang đọc gì vậy?” Một lúc sau tôi mới hỏi. “Cuốn sách đó có hay không?”
“Ừmm.” Alva gật đầu và cho tôi xem tựa đề: Giết con chim nhại của Harper Lee. Giống như tôi, cô ấy cũng mười một tuổi. Tôi lại nhìn cô ấy đắm chìm trong những dòng chữ. Mắt cô ấy lướt đọc từng dòng, từ trái sang phải và trở lại một lần nữa, không có dấu hiệu dừng lại.
Cuối cùng, cô ấy gấp cuốn sách và nhìn ngắm đồ đạc của tôi. Một sinh vật lạ tình cờ đi lang thang vào phòng tôi và đang tò mò nghiên cứu cuốn truyện tranh Người nhện cùng chiếc máy ảnh trên kệ của tôi. Thứ đầu tiên mà cô ấy cầm lên là chiếc máy ảnh Mamiya, sau đó là những mẫu máy mới hơn mà bố tôi vẫn thường xuyên sử dụng trong những năm tháng cuối đời của ông. Cô ấy cố tình chạm vào từng đồ vật như thể muốn chắc chắn rằng chúng đều có thật.
“Mình chưa từng thấy bạn chụp ảnh.”
Tôi nhún vai. Alva cầm một bức ảnh gia đình có mẹ và bố tôi trong đó lên.
“Bố mẹ bạn đã mất rồi sao?”
Tôi khá ngạc nhiên trước câu hỏi này. Tôi nghĩ tôi thậm chí đã tắt nhạc trong giây lát. Từ khi đến trường, tôi chưa nói với ai về điều đó.
“Điều gì khiến bạn nghĩ như vậy?” Tôi hỏi.
“Mình đã hỏi giáo viên.”
“Tại sao bạn lại hỏi cơ chứ?”
Cô ấy không trả lời.
“Đúng vậy, bố mẹ mình đã mất cách đây sáu tháng.” Cổ họng tôi như cứng lại, không thể nói được từ nào, giống như thể tôi phải đâm một chiếc thuổng vào cánh đồng đóng băng để đào từng chữ.
Alva gật đầu, và trong một khoảng thời gian rất dài - dài đến bất thường - cô ấy đã nhìn vào mắt tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên cách chúng tôi có thể nhìn thấu thế giới nội tâm của nhau. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi đã nhìn thấy nỗi đau ẩn giấu đằng sau ngôn từ và cử chỉ của cô ấy; ngược lại, cô ấy cũng cảm nhận được điều ẩn giấu bên trong tôi. Nhưng chúng tôi không đi xa hơn thế. Cả hai chúng tôi đều chỉ dừng lại trước ngưỡng cửa của cả hai và không ai hỏi ai câu nào.
***
Gần ba năm sau đó, vào cuối năm 1986, Alva và tôi trở thành bạn tốt nhất của nhau. Mỗi tuần, chúng tôi nghe nhạc cùng nhau vài lần. Đôi khi, cô ấy sẽ kể cho tôi nghe điều gì đó về bản thân: chuyện cô ấy ngưỡng mộ các vận động viên thể thao; chuyện bố mẹ cô ấy là bác sĩ; hay chuyện sau khi học xong, cô ấy muốn đến Nga, quê hương của tác giả mà cô ấy yêu thích. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ nói về những điều thực sự quan trọng đối với chúng tôi, hoặc tại sao cô ấy đã khóc trong lớp lần đó khi chúng tôi xem phim.
Chúng tôi sắp bước sang tuổi mười bốn, và có một sự chia tách sâu sắc trong lớp khối Chín của chúng tôi. Một bên là Alva và những người bạn cùng lớp trông già hơn vài tuổi của chúng tôi, những người trông có vẻ thô lỗ và to lớn hơn. Bên còn lại là những bạn trưởng thành muộn, những người ngoài cuộc vụng về, phát triển chậm, mà tôi là một trong số đó. Tôi đã không lớn thêm chút nào trong nhiều năm; mặc dù ở thời thơ ấu, tôi đã bộc lộ một số dấu hiệu về khả năng thiên bẩm, giai đoạn thiếu niên này của tôi lại chứng kiến sự mờ nhạt, chẳng có chút tài năng nào thể hiện ra. Tôi luôn có khuynh hướng mơ mộng, nhưng tôi cũng có một khía cạnh khác, hoang dã hơn. Bởi vì bây giờ khía cạnh đó đã biến mất, tôi ngày càng thu mình lại, và đôi khi tôi thầm ghét bản thân vì con người mà tôi đã trở thành.
Một buổi tối mùa thu, tôi đến thăm anh trai tôi. Anh ấy ở cánh Tây, tầng hai, một khu vực nguy hiểm đối với đám học sinh nội trú ít tuổi hơn, những đứa dậy thì muộn như tôi. Ở tầng này, nơi chỉ dành cho những thanh niên mười sáu và mười bảy tuổi, bạn sẽ cảm nhận được sự bất an kỳ lạ đó. Khoảnh khắc khi một người bị khuất phục trước thôi thúc đột ngột phải vật lộn, ẩu đả, đánh đấm hoặc gào thét vì quá dư thừa năng lượng và buồn chán. Tôi thấy một vài nam sinh lững thững đi lang thang dọc hành lang; một số khác ngồi trong phòng, để cửa mở và nhìn chằm chằm vào tường như thể đang trù tính một kế hoạch nào đó; một số người trong số họ quan sát tôi với vẻ không hài lòng, giống như những kẻ săn mồi bị xâm chiếm lãnh thổ. Nghe có vẻ hơi đáng sợ và kỳ quặc nhưng tôi cũng chỉ phóng đại một chút thôi.
Phòng của anh trai tôi nằm ở ngay cuối hành lang. Không giống như chị gái tôi hoặc tôi, những năm qua không thực sự khiến Marty đau đớn nhiều; anh ấy cũng có ít thứ để mất hơn cả. Anh ấy giống như một con kiến không chùn bước sau cuộc chiến tranh hạt nhân. Anh cao một mét tám mươi ba, một gã khổng lồ cao lêu nghêu với khuôn mặt góc cạnh và mái tóc dài buộc đuôi ngựa. Cứ như thể Woody Allen1 bị buộc phải trải qua tuổi dậy thì lần thứ hai.
1 Woody Allen: Đạo diễn, tác giả, diễn viên nổi tiếng người Mỹ.
Ngày đó, anh ấy chỉ mặc quần áo màu đen và một chiếc áo khoác da cũng màu đen, liên tục nói ra những ám chỉ trí tuệ mà không ai trong chúng tôi hiểu được. Với chiếc mũi khoằm và cặp kính cận, anh ấy trông giống như một con bù nhìn theo chủ nghĩa hiện sinh. Với các cô gái, anh ấy không được may mắn bén duyên, nhưng ở tuổi mười sáu, anh đã trở thành thủ lĩnh của một băng nhóm toàn những kẻ lạc loài và lập dị. Binh đoàn bóng tối của Marty tập hợp tất cả học sinh nội trú người nước ngoài, những con mọt sách, những đứa lúc nào cũng tỏ vẻ mình thông minh với đủ mọi thể loại và bạn cùng phòng trong nhiều năm của anh ấy, Toni Brenner. Toni là người Áo duy nhất tại trường, hệ thống định vị nội bộ đã trục xuất anh ấy ra rìa vì chất giọng Vienna mạnh mẽ của anh ấy.
Tôi gần đến chỗ cửa phòng của Marty thì có hai cậu trai nhảy ra chặn đường tôi. Một người gầy, da xấu; với giọng cười khàn khàn và mái tóc xù mì, anh ta trông như một con linh cẩu. Người còn lại là một tên du côn đô con mà tôi không còn nhớ hắn trông như thế nào nữa.
“Này, Moreau!” Tên gầy cất tiếng rồi tóm lấy tôi. “Không nhanh như vậy đâu.” Cả hai đều cười khinh bỉ.
Thật nực cười, tôi nghĩ. Chính xác thì họ nghĩ họ là ai, một cặp hề ngu ngốc? Trong một khoảnh khắc, sự tức giận bùng lên trong tôi, giống như khi tôi quyết đấu. Nhưng sau đó tôi đã chịu thua. Tôi đang cố đùa với ai chứ? Giọng của tôi thậm chí còn chưa vỡ ra. Tôi là một trò đùa chết giẫm.
Tôi cất tiếng gọi anh trai tôi lớn hết mức có thể; cửa phòng anh chỉ cách đó một mét. Anh ấy không trả lời. Tôi lại gọi – “Cứu em với, Marty. Làm ơn!” Tôi hét lên và hét lên, nhưng cánh cửa phòng của anh vẫn đóng kín.
Hai tên đang giữ tôi lại cười toe toét, rồi lôi tôi vào phòng tắm. Một số học sinh chế giễu nhập bọn cùng với chúng trên đường đi; cuối cùng tôi được tận năm người hộ tống. Tôi vùng vẫy cố gắng thoát ra nhưng tôi không có cơ hội nào cả. Chúng giữ tôi dưới vòi hoa sen, vẫn mặc quần áo đầy đủ, cho đến khi tôi ướt sũng. Có mùi dầu gội rẻ tiền và nấm mốc bốc lên; tôi nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng cười của những tên đó. Sau đó, một trong số chúng nói rằng lột sạch đồ của tôi rồi để tôi nằm chết cứng trên sàn phòng tắm nữ hẳn sẽ thú vị lắm. Chúng tóm lấy tôi một lần nữa, trước điệp khúc của những tiếng cổ vũ ồn ào.
“Tao ghét lũ chúng mày!” Tôi phải mím chặt môi lại để kìm những giọt nước mắt.
“Này! Dừng ngay mấy cái trò tào lao này đi!”
Một chàng trai với mái tóc vàng cát bước vào phòng: là Toni, bạn cùng phòng của anh trai tôi. Tim tôi đập rộn lên. Anh ấy là vận động viên trượt tuyết tài năng, không cao, nhưng vạm vỡ; anh ấy tập luyện trong phòng thể chất gần như mỗi ngày. Toni đi đến chỗ con linh cẩu gầy guộc và ném nó bay ngang phòng tắm với một lực mạnh đến nỗi những đứa khác co rúm lại. Sau đó, anh ấy đến bên tôi.
“Em ổn chứ?”
Tôi vẫn còn rùng mình; nước trong vòi hoa sen lạnh như băng. Toni đặt tay lên vai tôi và đưa tôi đến phòng của anh trai. Anh ấy hơi tập tễnh sau ca phẫu thuật đầu gối lần thứ hai. Không biết liệu anh ấy có phải từ bỏ kế hoạch theo đuổi sự nghiệp trượt tuyết chuyên nghiệp hay không.
Đột nhiên anh ấy cười toe toét với tôi. “Chị gái em đã trả lời thư chưa?”
Anh ấy đang cố làm tôi vui lên. Giống như rất nhiều người khác, Toni yêu chị gái tôi đến tuyệt vọng. Vài tháng trước, tôi phải chuyển cho Liz một bức thư tình từ anh ấy, nhưng chị ấy chưa bao giờ hồi âm. Kể từ đó Toni luôn hỏi đùa tôi rằng liệu Liz đã đọc bức thư chưa.
Bước vào phòng của anh trai, những giọt nước trên người tôi vẫn tiếp tục rớt xuống sàn nhà. Marty, người ngày càng nghiện máy tính nặng trong những năm gần đây, ngẩng lên từ sau máy tính để bàn của anh ấy. “Chuyện gì xảy ra với em vậy?”
Tôi phớt lờ anh và nhìn ra bên ngoài. Những khung cửa sổ sáng ánh đèn của tòa nhà bên cạnh, khung cảnh về đêm của khu rừng ở phía xa. Marty liên tục gõ bàn phím của chiếc Commodore cũ, nhưng hành động giả tạo này không thể che đậy được sự cắn rứt lương tâm của anh ấy.
“Anh đã không chịu giúp em.” Tôi nói. “Em đã gào thét gọi tên anh.”
“Anh không hề nghe thấy tiếng em gọi.”
“Anh đã nghe thấy. Chuyện xảy ra ngay bên ngoài cửa phòng.”
“Jules à, anh nói thật đấy, anh không hề nghe thấy tiếng gọi của em. ”
Tôi trừng mắt nhìn anh. “Anh chỉ cần mở cửa là chúng đã thả em ra rồi. Anh chỉ cần làm mỗi một việc là xuất hiện thôi.”
Tuy nhiên, anh trai tôi không hề nhúc nhích, vì vậy cuối cùng tôi nói: “Ít nhất anh cũng phải thừa nhận rằng anh đã nghe thấy em gọi chứ. Anh làm thế thì em sẽ tha thứ cho anh.”
Vài giây sau đó, vì Marty vẫn chưa trả lời, tôi rời khỏi phòng. Những ngày đó, mỗi khi nghĩ đến anh trai mình, hình ảnh hiện lên trong đầu tôi luôn là cánh cửa đóng chặt.
***
Chúng tôi đi xuống hồ, tôi muốn cho Alva xem vài thứ. Ngày hôm đó là một ngày lạnh giá, nhạt nhòa và là lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi mang theo một trong những chiếc máy ảnh của bố. Trong khi tôi bó mình thật chặt với áo khoác chống gió, khăn quàng cổ và mũ, Alva lại ăn mặc vô cùng giản dị. Quần bò mỏng và một chiếc áo len dáng dài đã bạc màu. Giống như một đứa trẻ bị bỏ rơi, trốn chạy khỏi một giáo phái, nhưng dù cô ấy hẳn là lạnh muốn đóng băng, cô ấy vẫn không để điều đó thể hiện ra ngoài.
Khi chúng tôi bước đến bên hồ cũng là lúc hoàng hôn buông xuống. Một vài đứa trẻ sống ở nhà nội trú đang trượt băng.
“Đi cùng mình nào.” Tôi dẫn Alva đến một điểm hơi chênh vênh. Giọng của những người khác hầu như không thể nghe được nữa; chúng tôi đang đứng một mình trên mặt hồ đã bị đóng băng.
Alva hét lên. Cô ấy đã phát hiện ra con cáo. Có thể nhìn thấy rõ chiếc mõm cứng của nó xuyên qua lớp băng, nhưng một phần cơ thể của nó lại vẫn nhô lên khỏi mặt hồ, bộ lông xù xì lấm tấm những viên pha lê lấp lánh. Như thể nó đã chuyển động khi nó bị đóng băng vậy.
“Thật là một cái chết khủng khiếp!” Hơi thở của Alva bay như mây. “Tại sao bạn lại cho mình xem cái này?”
Tôi lướt găng tay trên mặt băng và lau tuyết để có thể nhìn rõ hơn đôi mắt của con cáo đã chết.
“Mình đã nhìn thấy một con chó chết đuối một lần rồi. Nhưng chuyện này thì khác. Mình nghĩ nó có thể làm bạn thích thú. Nó trông thật yên bình - thật vĩnh cửu.”
“Mình nghĩ chuyện này thật kinh khủng.” Alva quay đi.
“Bây giờ bạn nghĩ nó thật kinh khủng, nhưng mình cá rằng bạn sẽ vẫn nhớ tới con cáo đóng băng này trong hai mươi năm nữa.” Tôi không thể nhịn được cười. “Ngay cả trên giường bệnh, bạn vẫn sẽ nghĩ về con cáo bị đóng băng đó.”
“Đừng ngớ ngẩn, Jules.”
Tôi chụp một vài bức ảnh, sau đó chúng tôi đi bộ trở lại làng. Những màu sắc cuối cùng đang mờ dần ở đường chân trời, và toàn bộ cảnh vật xung quanh chìm dần vào bóng tối. Trời trở nên lạnh hơn, tôi nắm chặt tay mình thành nắm đấm trong túi. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được quán cà phê.
Bên trong, Alva xoa hai tay vào nhau. Gần đây cô ấy đã bắt đầu sơn móng tay. Tôi nghi ngờ nhìn chằm chằm vào những đầu ngón tay đỏ tươi của cô ấy: dấu hiệu của sự thay đổi, của những khởi đầu mới. Chúng tôi uống ca cao và nói chuyện về chị gái tôi, chuyện chị gặp rắc rối vì lén lút đi chơi vào ban đêm.
“Mình nghe nói chị ấy sắp bị đuổi học.” Tôi nói. “Chị ấy không coi trọng bất cứ điều gì.”
“Mình thích chị gái của bạn.” Đó là tất cả những gì Alva nói. Cô ấy và Liz đã gặp nhau một lần, trong phòng của tôi. “Và mình nghĩ chị ấy rất đẹp. Mình muốn có một cô chị gái xinh đẹp như thế.”
Tôi không biết phải nói gì về chuyện này. Sau đó, tôi thấy tên Linh cẩu đi ngang qua cửa sổ chỗ chúng tôi đang ngồi. Tôi tức giận trừng mắt nhìn theo hắn ta. Mặc dù vậy, Alva cứ chăm chăm nhìn tôi khiến tôi phát phiền. Trong một khoảnh khắc không phòng bị, tôi đã kể cho cô ấy nghe về trải nghiệm nhục nhã của mình trong phòng tắm, và giờ tôi sợ cô ấy có thể sẽ nghĩ tôi là một kẻ yếu đuối.
“Mình nên đấm hắn ta.” Tôi khoác lác, nhấm nháp cốc ca cao của mình. “Trước đây, mình sẽ chỉ… Mình không biết tại sao mình lại không làm gì cả.”
Alva bật cười. “Jules, mình nghĩ tốt nhất là bạn không nên làm gì cả. Hắn ta lớn hơn bạn rất nhiều.” Cô ấy nhướng mày. “Thật sự thì bạn cao bao nhiêu thế?”
“Một mét sáu mươi.”
“Ồ, thôi nào, bạn không thể cao đến mức đó được. Đứng cạnh mình nào.”
Cả hai chúng tôi đứng dậy và đứng sang bên cạnh bàn. Thật đáng xấu hổ khi Alva cao hơn tôi vài phân. Chúng tôi cứ đứng yên như vậy trong vài giây, mũi chạm mũi; tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa mới quá ngọt ngào của cô ấy. Rồi cô ấy lại ngồi xuống.
“Nhân tiện, bạn đang có một bộ ria mép màu sô-cô-la đấy.” Cô nói.
“Bạn có biết đôi khi mình nghĩ gì không?” Tôi quệt môi trên và nhìn cô ấy với vẻ hiếu chiến. “Tất cả những thứ xảy ra xung quanh mình đều giống như một hạt giống. Trường học, nội trú, chuyện đã xảy ra với bố mẹ mình. Tất cả những thứ đó được gieo vào mình, nhưng mình không thể nhìn thấy con người mà nó đang tạo ra. Thu hoạch chỉ đến khi mình trưởng thành, và đến lúc đó thì đã quá muộn.”
Tôi chờ đợi phản ứng của Alva. Trước sự ngạc nhiên của tôi, cô ấy chỉ mỉm cười.
Lúc đầu tôi không hiểu. Sau đó tôi quay lại và thấy đằng sau tôi là một cậu con trai cao lớn học trường cấp hai; cậu ta chắc cũng phải mười sáu tuổi rồi. Cậu ta đang đi về phía chúng tôi với nụ cười tự tin của một diễn viên. Cách Alva nhìn cậu ta khác hẳn cách cô ấy nhìn tôi; và khi cậu ta nói chuyện với cô ấy, cảm giác kém cỏi như tro tàn xâm chiếm lấy tâm trí tôi mà mãi đến tận nhiều năm sau này, tôi vẫn không thể thoát khỏi nó hoàn toàn.
***
Tôi tình cờ gặp chị gái tôi bên ngoài phòng ăn. Chị ấy đang ngồi trên một băng ghế dài như một nữ hoàng, xung quanh là các bạn cùng lớp, và đang hút thuốc. Liz mười bảy tuổi; chị ấy đang mặc một chiếc áo parka có mũ trùm đầu màu xanh ô liu và đi đôi Chucks. Mái tóc vàng của chị ấy xõa tung cả lên mặt. Đối với một cô gái mà nói thì chị ấy cao bất thường, ít nhất phải một mét tám mươi; chị ấy vẫn thích chạy hơn là đi bộ, thường nhầm lẫn sự ngưỡng mộ với tình cảm và làm bất cứ điều gì mà chị ấy muốn. Liz tò mò về cơ thể đàn ông. Nếu chị ấy thích ai đó, chị ấy sẽ không do dự hay chơi trò đuổi hoa bắt bướm đâu, chị ấy sẽ vồ vập vào luôn. Trong những kỳ nghỉ, chị ấy thường đi chơi với những người bạn lớn tuổi hơn, và hai lần – vô cùng tự hào – chị ấy đã được cảnh sát đưa về nhà.
Trong lúc các bạn cùng lớp đang chăm chú lắng nghe câu chuyện mà chị ấy kể về một vũ trường ở Munich thì một giáo viên bước đến bên cạnh chị ấy.
“Liz, em làm ơn vào đây được không? Thời gian cấm túc của em đã bắt đầu rồi.”
“Em vừa mới hút xong điếu thuốc thôi mà.” Chị tôi nói. “Em không hiểu tại sao em lại tiếp tục phải thực hiện cái việc cấm túc chết tiệt này một lần nữa.”
Liz có giọng trầm khá đáng sợ. Chị ấy cũng vẫn giữ thói quen nói hơi to một chút, như thể chị ấy đang ở trên sân khấu. Và, ở một khía cạnh nào đó, chị ấy đúng là đang đứng ở trên sân khấu của riêng mình thật.
Chị ấy bắt đầu tranh cãi với giáo viên trước mặt mọi người, chị ấy liên tục hét lên giận dữ: “Em không làm chuyện đó, quên nó đi!” Chị ấy luôn nói chuyện với các giáo viên như thể họ là bạn đồng trang lứa với mình. “Dù sao thì, em cảm thấy không khỏe.” – điếu thuốc vẫn kẹp trong khóe miệng – “Em ốm.”
Sau đó, chị ấy thậm chí còn không thể nhịn được cười. Chị ấy rít thêm một hơi thuốc nữa rồi phả khói. “Được rồi, em sẽ có mặt ở đó trong vòng năm phút nữa.”
“Ba.” Thầy giáo trẻ nói.
“Năm.” Liz đáp. Chị ấy nhăn răng cười với thầy ấy, ngổ ngáo và quyến rũ khiến thầy ấy phải tránh ánh mắt của chị.
Chuyện này xảy ra ngay trước lễ Giáng Sinh. Vòng hoa treo trên cửa chiếu nghỉ; bữa tối có lebkuchen1, quýt, các loại hạt và punch2. Cảm giác mong đợi chung đổ xuống khu nhà nội trú như một cái nắp chuông; nhưng tôi không thích những ngày lễ. Trong khu vực giới hạn của trường nội trú không có sự xuất hiện của phụ huynh, và thế là tôi với mọi người không khác nhau là mấy. Nhưng khi tôi đến nhà bác của tôi ở Munich trong khi các bạn cùng lớp của tôi về nhà với gia đình của họ, tôi lúc nào cũng thấy đau lòng.
1 Lebkuchen, còn gọi là Lebzelten, Pfeffer-, Gewürz- hay Honigkuchen, là một loại bánh ngọt, có nhiều gia vị và có thể để lâu được. Nó có nhiều dạng và biến thể khác nhau.
2 Là một loại cocktail.
Bác của chúng tôi khi đó cũng đã ngoài năm mươi, hiền lành và dễ mến; vào buổi tối, bác luôn cầm một ly rượu trên tay và đặt trò chơi ô chữ trên đùi. Sự ra đi của người em gái đã cướp đi nét mặt vui vẻ của bác; vài năm gần đây, bác ấy đã tăng cân, bần thần như một người đang xem một trò chơi mà họ không còn hiểu luật chơi nữa. Tuy nhiên, bác luôn cố gắng nở nụ cười rạng rỡ bất cứ khi nào chúng tôi cần cổ vũ. Bác đưa chúng tôi đi chơi bowling và đến rạp chiếu phim, kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về bố mẹ của chúng tôi; dường như bác cũng là người duy nhất có thể hiểu được tính cách phức tạp của Marty. Buổi tối hai người thường cùng nhau ngồi trong bếp, uống trà và nói chuyện. Khi anh ấy ở cạnh bác, giọng nói của anh ấy mất đi sự phô trương ẩn hiện; đôi khi, anh ấy nói với bác về việc anh ấy không thành công trong việc tán tỉnh các cô gái, anh ấy thậm chí còn để cho bác ôm anh ấy.
Vào những kỳ Giáng Sinh, chúng tôi cắm trại bằng nệm trên sàn phòng khách của bác. Liz là người luôn ném mọi thứ thành đống. Còn Marty luôn là người sắp xếp đồ đạc gọn gàng và dọn dẹp giường của mình một cách tỉ mỉ đến mức bạn không nỡ ngồi lên. Việc anh chị em thân thiết với nhau lại trở thành một điều kỳ lạ. Chúng tôi hầu như không làm bất cứ điều gì cùng nhau nữa; có quá nhiều thế giới song song ở trường. Chỉ cần ngồi cách nhau một bàn trong giờ ăn trưa thôi cũng có cảm giác như đang ở hai đất nước khác nhau rồi. Tuy nhiên, lúc này, cả ba chúng tôi lại đang ngồi trước TV, cùng xem một bộ phim tài liệu về Pha-ra- ông Ramses Đệ Nhị của Ai Cập. Theo như bộ phim đó, Ramses tin rằng ông ta mạnh mẽ không chỉ từ khi sinh ra mà còn ngay từ trong bụng mẹ. Ông ấy gọi đó là “mạnh mẽ từ trong trứng”. Anh chị em tôi nhanh chóng nắm bắt được từ khoá. Chúng tôi hỏi nhau là “Anh/em/chị có mạnh mẽ từ trong trứng không?” rồi phá lên cười. Và khi chúng tôi tán gẫu về một người nào đó hay làm hỏng việc, chúng tôi sẽ nói: “Chà, anh/em/chị có thể làm gì được chứ, cậu ta đâu có mạnh mẽ từ trong trứng đâu.”
Vào buổi sáng Giáng Sinh, trong lúc tôi đang tìm nến thì thấy chị gái mình lẻn vào trong nhà kho. Chị ấy nhanh chóng đóng cánh cửa lại sau lưng tôi.
“Giáng Sinh vui vẻ, nhóc.” Liz ôm tôi, sau đó tiếp tục cuộn thuốc. Tôi thích thú nhìn chị ấy liếm tờ giấy lọc, nhắm mắt lại khi làm như vậy.
“Chính xác thì em và Alva có quan hệ gì?” Chị ấy rít một hơi và nhả khói thành từng vòng nhỏ. “Con bé ấy là một lựa chọn tốt cho em đấy.”
“Không có gì đâu, chúng em chỉ là bạn thôi mà.”
Chị gái tôi gật đầu hài lòng, rồi huých tôi. “Em đã từng hôn một cô gái chưa?”
“Không, không có ai kể từ đó… Chị không nhớ à?”
Liz lắc đầu. Chị ấy dường như luôn chỉ sống trong hiện tại và quên rất nhiều thứ, trong khi tôi thích dành thời gian dài để chiêm nghiệm những điều mình đã trải qua và suy nghĩ về cách phân loại chúng.
“Chẳng trách em không có bạn gái, nhóc ạ.” Chị ấy nhìn bộ quần áo của mà tôi đã mua ở Woolworth’s khi đi với bác. “Em ăn mặc như một đứa trẻ tám tuổi đầy nông nổi. Chị em ta cần cùng nhau đi mua quần áo gấp.”
“Tức là em cần phải ngầu hơn á?”
Liz trầm ngâm nhìn tôi. “Nghe này. Điều chị sắp nói với em sau đây rất quan trọng, em không bao giờ được phép quên nó.”
Tôi háo hức nhìn chị. Tôi biết rằng tôi sẽ tin mọi lời chị ấy nói.
Chị ấy nói với tôi: “Em không ngầu. Chị e là em sẽ chỉ thế này thôi. Em cũng sẽ không bao giờ có thể thay đổi được điều đó đâu, vì vậy đừng cố quá làm gì. Nhưng ít nhất em nên làm cho mình ngầu hơn một xíu xiu.”
Tôi gật đầu. “Có đúng là chị sắp bị đuổi học không?”
Liz khịt mũi. “Gì chứ? Ai nói với em điều đó?”
“Em không có ý gì, chỉ là em có nghe được vài chuyện. Điều gì sẽ xảy ra nếu một ngày nào đó họ bắt gặp chị mang ma tuý? Ý em không phải cần sa đâu, ý em là… những thứ khác ấy.”
“Họ sẽ không làm vậy. Chị mạnh mẽ từ trong trứng mà.”
Tôi mong chị ấy sẽ nói thêm là “Và dù sao đi nữa, chị cũng không làm những việc như vậy”, nhưng chị ấy đã không ban ân huệ đó cho tôi. “Em biết đấy” – chị ấy phá lên cười ngặt nghẽo – “rất nhiều chuyện đã xảy ra trong vài tuần qua. Đôi khi chị thực sự nghĩ rằng chị chỉ...” Chị ấy khó khăn lựa lời.
“Chị nghĩ gì thế? Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
Rõ ràng là chị ấy thích thú khi thấy tôi mở to mắt nhìn chị ấy như vậy; nhưng dù chuyện gì có xảy ra thì Liz cũng chỉ lắc đầu. “À, không có gì đâu nhóc, quên đi. Chị sẽ không bị đuổi học, được chưa nào?” Chị ấy nháy mắt với tôi. “Nhiều khả năng chị sẽ trượt kỳ thi của mình.”
Sau đó, chúng tôi cùng bác trang trí phòng khách. Trên đài đang phát mấy bài nhạc Chanson1, nhất thời có cảm giác giống như trước kia, ngoại trừ hai người đã biến mất, ngoại trừ không có gì giống như trước đây nữa.
1 Tên gọi chung cho tất cả những bài hát Pháp có lời từ thời Trung cổ đến thời Phục hưng.
***
Bầu không khí thăng hoa vào đêm Giáng Sinh. Năm nay, lần đầu tiên Liz không tặng chúng tôi tranh chị ấy vẽ; thay vào đó, chị ấy đệm ghita để chúng tôi hát. Tôi thường thấy chị ấy ở trường, ngồi trên bậc thềm, băng ghế hoặc đường chạy, chăm chú luyện tập. Nhưng mặc dù chị sở hữu giọng hát đáng yêu, chị từ chối hát Moon River như mẹ chúng tôi đã từng làm.
“Chị sẽ chết bất đắc kỳ tử trước khi chơi bài hát chết tiệt đó mất.” Liz ngắm nghía móng tay của mình. “Chị đã từng rất ghét nó.”
“Chị thích nó mà.” Marty nói khẽ. “Tất cả chúng ta đều yêu thích nó.”
Sau bữa ăn tối, chúng tôi chơi Barricade. Trong một lúc lâu, Marty trông có vẻ sẽ giành được chiến thắng, cho đến khi tôi và chị gái tôi liên thủ vây lấy anh ấy và dùng những quân cờ nhỏ màu trắng dồn anh vào tường. Anh ấy hú hét và nguyền rủa chúng tôi, đặc biệt khi Liz tiếp tục chiến thắng và cất tiếng hét hân hoan.
Khi chúng tôi sắp xếp trò chơi, chị gái tôi nhét một trong những quân cờ màu trắng vào túi quần.
“Bùa may mắn.” Chị ấy thì thầm với tôi.
Đối với tôi, đó là khoảnh khắc đẹp nhất của Giáng Sinh năm ấy. Buổi tối có vẻ đang hướng đến một kết thúc yên bình cho đến khi bác của chúng tôi hỏi chúng tôi về trường nội trú.
Trong khi tôi giữ im lặng còn Marty tuôn ra một loạt lời phàn nàn (thậm chí lúc đó anh ấy đã có thể châm ngòi cho một cuộc cãi vã chẳng với một lý do cụ thể nào), Liz nói với vẻ cởi mở đầy khiêu khích về những buổi tối bên hồ, những bữa tiệc và các chàng trai. Chị ấy vui vẻ phân tích những điểm yếu của giáo viên hoặc cách cư xử vụng về của những người ngưỡng mộ chị và liên tục phá lên những tràng cười khả ố khi làm vậy.
Marty nghiêm mặt. “Liz, chị cứ luôn phải khoe khoang những câu chuyện của mình mới được đúng không? Em không muốn ngắt lời chị, nhưng nó phiền chết lên được.” Ngôn từ điển hình của Marty. Anh ấy luôn nói: Tôi không muốn... sau đó lại làm ngược lại hoàn toàn.
Liz vẫy tay miễn cưỡng. “Em chỉ đang bực mình vì em vẫn chưa có bạn gái thôi. Em có biết đám học sinh gọi phòng của em ở trường là gì không? Căn ngục thủ dâm.”
“Cái gì thế?” Bác của chúng tôi hỏi.
“Ôi, chị câm ngay đi.” Marty nghịch cổ của chiếc áo khoác da mà anh ấy không chịu cởi ra ngay cả khi đang ở trong phòng ấm. Khuôn mặt của anh ấy có màu của tờ giấy cũ, mái tóc dài của anh ấy bóng nhờn và gần đây anh ấy cũng bắt đầu nuôi râu dê. Trông anh như một tên trộm vặt dơ dáy ở Philly, kẻ có thể sẽ cướp siêu thị vào bất cứ lúc nào, bỏ trốn với năm đô-la và một hộp sữa.
“Chị nên lo lắng về những điều họ nói ở trường về chị thì hơn.” Anh ấy nói.
“Tại sao, họ nói gì à?” Liz hỏi.
“Ồ, không có gì.” Marty nói, rõ ràng là nhận ra mình đã mắc sai lầm.
Đầu tiên Liz nhìn anh ấy, sau đó nhìn tôi. “Em có biết nó đang nói gì không?”
Tôi chẳng nói chẳng rằng. Tất nhiên tôi biết anh trai tôi đang nói đến chuyện gì. Những câu chuyện người ta kể về chị gái của chúng tôi cũng đến tai tôi rồi. Chắc hẳn đám người tung tin toàn nói dối - những tin đồn chủ yếu lan truyền từ mấy gã trai thất vọng vì tỏ tình thất bại hoặc mấy cô nàng đố kị. Nhưng tôi thực sự biết gì về chị gái của mình?
“Người ta đã nói gì ở trường?” Giờ thì cả bác của chúng tôi cũng đang hỏi.
“Bọn họ nói rằng chị ấy là… một con điếm.” Marty nói. Ngay cả anh ấy cũng bị sốc bởi sức mạnh hủy diệt của những lời anh ấy nói. Tôi có thể thấy rõ ràng rằng anh ấy không muốn tiếp tục câu chuyện, nhưng dường như anh ấy đang phải chịu một sức ép vô hình nào đó từ bên trong. “Rằng chị ấy ngủ với đàn ông để được chơi ma túy.” Anh tiếp tục. “Một trong số họ thậm chí còn làm chị ấy có thai.”
Một tiếng động lớn vang lên. Liz ném chiếc thìa ăn đồ tráng miệng vào đĩa của mình. Chị ấy bật dậy và rời khỏi phòng. Vài giây sau, chúng tôi nghe thấy tiếng cửa căn hộ đóng sầm lại. Tôi chạy về phía cửa sổ và thấy chị gái tôi bước đi rất nhanh, biến mất vào trong bóng tối.
Chị ấy trở lại vào sáng hôm sau; nhưng vài tuần sau lễ Giáng Sinh, Liz đã bỏ học và biến mất khỏi cuộc đời tôi trong nhiều năm. Chị ấy nói với một người bạn cùng lớp rằng tốt nghiệp trung học không phải thứ dành cho chị ấy, rằng chị ấy muốn khám phá thế giới. Chị ấy nhất định phải làm điều đó. Hồi đó, tôi đã mất một thời gian dài cố gắng tìm ra lý do tại sao. Mỗi ngày tôi đều chờ đợi tin tức từ Liz, một lá thư giải thích, một tấm thiệp hay một cuộc gọi. Giống như một kẻ đi lang thang không biết mệt mỏi, tôi quay số của một thiết bị không dây và hy vọng đến cuối cùng sẽ có cơ hội tìm thấy một giọng nói. Nhưng tất cả những gì tôi nghe được từ chị gái của mình là nhiều năm tĩnh lặng.