• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tận cùng của cô đơn
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • Sau

Chuyến bay của thời gian(2005-2006)

T

ôi đã không mở món quà của Alva. Sau cuộc gặp gỡ, niềm hy vọng thầm lặng mà tôi đã mang theo suốt bao năm qua bị dập tắt. Kể từ đó, tôi thờ ơ với số phận của mình và những thứ xảy ra sau đó chỉ là một khoảng thời gian vô nghĩa, dùng một lần như tờ giấy nhàu nát.

Mãi hai năm sau, tôi mới nghe được tin của cô ấy. Lúc đó, tôi đã ở bên Norah, một đồng nghiệp cũ, được một thời gian. Cô ấy đến từ Bristol và giống như tôi, cô ấy mắc bệnh tưởng1; cả hai chúng tôi đều sẽ chuyển kênh ngay lập tức khi TV phát những bản tin về những căn bệnh khủng khiếp. Cô ấy không quá ngạc nhiên khi biết tôi đã ở trong nhà nội trú suốt quãng thời gian thanh xuân của mình. “Lần đầu tiên em thấy anh ăn ngấu nghiến như điên, em đã nghĩ: nhà tù hay trường nội trú.” Norah vừa trở lại Anh để thực tập ba tháng. Trước khi đi, cô ấy đã để lại một vài dấu hiệu để tôi biết rằng cô ấy đã yêu tôi. Tôi không yêu cô ấy như cô ấy yêu tôi, nhưng điều đó dường như không còn quan trọng với tôi nữa.

1 Chứng rối loạn lo âu về bệnh tật.

Ở hãng âm nhạc, tôi đã leo lên vị trí trưởng bộ phận tuyển trạch và quản lý nghệ sĩ; tôi đã đi khắp châu Âu để gặp gỡ các ban nhạc có bản demo đầy hứa hẹn. Công việc này là một đặc ân và có rất nhiều đồng nghiệp trẻ hơn phàn nàn về sự thăng tiến của tôi. Họ thắc mắc tại sao Jules lại có thể có được tất cả những đặc quyền đó và phàn nàn rằng tôi quá lạc hậu và thiếu đam mê. Nhưng sếp tôi vẫn luôn ủng hộ tôi, và những ban nhạc mà tôi đã ký hợp đồng thực sự đạt được thành công vang dội. Tôi không bao giờ tìm kiếm những nghệ sĩ đơn thuần chỉ có tài năng, bởi vì những người như thế nhiều đến kinh ngạc. Tôi tìm kiếm các ban nhạc và ca sĩkhao khát có được điều đó. Khao khát nhiều hơn tôi hồi đó, khi còn là một nhiếp ảnh gia. Tôi tin rằng bạn có thể ép mình sáng tạo, bạn có thể làm việc đó với trí tưởng tượng của mình, nhưng không thể làm thế với khát khao. Tài năng thực sự là khát khao. Tôi chắc chắn rằng đây là suy nghĩ làm phiền lòng các đồng nghiệp trẻ tuổi của tôi nhất.

Trong khi đó, Liz và Toni đã trở thành bạn tốt của nhau; chị gái tôi thường xuyên đi chợ trời cùng anh ấy, xem các buổi biểu diễn ảo thuật của anh ấy hoặc sẽ để anh ấy chở đi chơi bằng xe máy. Chỉ có một chủ đề duy nhất không bao giờ được thảo luận.

“Giữa hai người có gì không ạ?” Một lần, tôi đã hỏi chị ấy.

“Đừng có vớ vẩn. Toni quá thấp.”

“Nhưng anh ấy chỉ thấp hơn chị vài phân thôi. Đó thực sự là vấn đề quá nhỏ, chấm hết? Chị nông cạn thế ư?”

Chị gái tôi ném cho tôi cái nhìn tỏ vẻ tôi chẳng biết gì cả. “Dù sao thì cũng không có gì xảy ra cả; cậu ấy chỉ chăm sóc chị thôi.”

Tôi biết rằng tại một thời điểm nào đó, đã có một đêm chị ấy gặp phải chút khó khăn. Chị ấy gọi nó là một tập phim nhỏ. Chị ấy đã không thể liên lạc với tôi và trong cơn tuyệt vọng, chị ấy đã gọi cho Toni. Anh ấy ngay lập tức đến bên chị. Anh ngồi trên chiếc ghế bên cạnh giường chị suốt cả đêm.

“Và tại một thời điểm nào đó, anh đã nói với chị ấy rằng anh yêu chị ấy, luôn như vậy.” Toni đã kể cho tôi nghe sau đó. “Chị gái của em nói rằng chị ấy đã biết. Sau đó, anh nói rằng anh không mong đợi điều gì cả, anh chỉ muốn nói hết tất cả những gì trong lòng ra mà thôi.” Anh ấy cười. “Anh nói chỉ cần anh được chăm sóc chị ấy một chút trong tương lai là đủ rồi. Và em biết gì không?” Toni nhìn tôi. “Thực sự đủ rồi. Tất nhiên anh muốn nhiều hơn thế nhưng như thế này cũng tốt.”

“Vài tháng nữa, khi chị em có bạn trai mới, em có nên nhắc lại câu này của anh không nhỉ?”

“Tốt hơn là không nhé.”

Bây giờ Liz đã có một công việc ổn định. Chị ấy làm giáo viên ở một trường trung học. Trong bữa tối, chị ấy kể cho tôi nghe chuyện về một cậu học trò bí mật viết thư tình cho chị ấy. Chị ấy nói: “Cậu bé là một trong những học sinh tệ nhất trong lớp. Em ấy luôn viết sai chính tả từ feelings, lúc nào cũng thiếu chữ “g”. Dễ thương nhỉ?” Chị ấy cười, trông như một đứa trẻ rụt rè.

Nụ cười ấy đã gợi nhắc tôi nhớ đến một chuyện mà tôi đã quên từ lâu.

Tôi thấy mình nghĩ tới Alva và cuộc gặp gỡ với cô ấy ở Munich. Lúc đầu, tôi nghĩ đó chỉ là thứ tình cảm tái phát, nhưng sau đó tôi nhận ra điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí tôi lúc này không phải là Alva mà là câu trả lời cho câu hỏi trước đó cô ấy đã hỏi tôi: tôi đã cảm thấy như thế nào trong lần đầu tiên anh chị em tôi đến nhà nội trú sau khi bố mẹ tôi mất.

Hình ảnh từ từ hiện ra từ khoảng không trắng xoá giống như một tấm ảnh Polaroid đang thành hình.

Hơn hai mươi năm trước, trong đường hầm của quá khứ, tôi ngồi trên ghế sau xe và anh trai tôi ngồi ngay bên cạnh. Ở phía trước là bác Helene ngồi vị trí lái xe và Liz ngồi bên cạnh. Trong suốt chuyến đi, tôi đã cảm thấy chán nản vô cùng khi nghĩ đến cuộc sống trong nhà nội trú. Tôi cứ nghĩ mãi về đám tang của bố mẹ tôi, về hai cái hốc nhỏ mà bình đựng tro cốt của họ được đặt vào.

Quang cảnh mùa đông ở bên ngoài thật cằn cỗi; tia sáng cuối cùng của ban ngày đã biến mất. Giữa lúc tâm trạng đang u ám, chị tôi bắt đầu say sưa nói về ngôi nhà mới của chúng tôi.

“Chị cá là ở đó họ có đồng phục riêng cho học sinh.” Chị tôi nói. “Những chiếc áo sơ mi và váy cho con gái, còn con trai mặc vest cùng cà vạt.”

“Em không thích vest và cà vạt.” Marty đáp lại.

“Và nhà ăn chắc hẳn phải lớn lắm.” Liz tiếp tục nói. “Chị chắc chắn rằng họ cũng có cả hồ bơi. Và các sân thể thao, nơi mà các em có thể chơi quần vợt hoặc thậm chí là cả bóng gậy.”

“Em không thích chơi bóng gậy.” Marty nói. Tất cả những câu anh ấy nói trong nhiều tuần nay đều bắt đầu bằng Em không thích… “Nhân tiện, sao chị tự nhiên lại nhắc đến bóng gậy làm gì nhỉ?” Anh ấy hỏi. “Người ta chỉ chơi trò đó ở Anh hoặc Ấn Độ thôi.”

Nhưng Liz đã chuyển sang mô tả về các ký túc xá nguy nga tráng lệ và những căn bếp chung đầy tiện nghi rồi. Lúc đó tôi đã rất ngạc nhiên; bây giờ, sau hàng chục năm trôi qua, tôi mới hiểu được rằng chị ấy đang sợ hãi. Chị ấy đã viết tên mình trên khăn ăn lần cuối. Liz, Liz, Liz.

Những tấm biển chỉ dẫn đầu tiên hiện ra, dẫn chúng tôi đến trường. Tôi đã tưởng tượng rằng những học sinh ở đó sẽ chào đón tôi như thế nào trong vài ngày tới, và bụng tôi đau quặn lại.

Chị tôi lại nói: “Hẳn là sẽ tuyệt vời lắm. Em có nghĩ như vậy không?”

“Không đâu!” Marty đang lau kính và nhìn tôi đầy lo lắng.

Bác của chúng tôi – người đã chọn trường nội trú này cho chúng tôi, cũng đã cố gắng động viên. “Khi còn nhỏ, bác đã luôn mong muốn được đi học ở trường nội trú, nhưng mà bác không bao giờ được phép làm như vậy. Bác chắc chắn rằng nó sẽ rất tuyệt.”

“Chính xác bác ạ - nó sẽ rất tuyệt đấy ạ.” Liz nói với giọng ngớ ngẩn. “Chúng ta sắp được đến đó rồi. Chị rất mong đợi điều đó.”

Khi đến đó và nhìn thấy khu nhà nội trú tồi tàn, xập xệ trong bóng tối với chỉ vài ô cửa sổ sáng đèn, chị ấy im lặng không nói gì.

Tôi quan sát khu nhà nội trú từ bên trong ô tô trong khi bác tôi nói chuyện với quản lý khu nhà còn anh chị tôi xách hành lý ra khỏi cốp xe và đứng ngập ngừng trong bãi đỗ. Tôi bước ra ngoài và đang chuẩn bị xách vali đi cùng họ thì cô hiệu trưởng nói rằng các học sinh lớp sáu, bảy sống ở một khu đặc biệt, và tôi lại là một trong số đó. Trước khi tôi hiểu được điều này có nghĩa là tôi sẽ bị tách ra khỏi các anh chị của mình, tôi đã thấy Marty và Liz đeo túi xách của họ lên, và sau khi tạm biệt qua loa, biến mất vào tòa nhà lớn hơn trong số hai tòa nhà. Khi bước đến cửa, chị gái tôi đã quay lại và nhìn tôi lần cuối, một cái nhìn định sẵn kết quả theo sau đó. Chị ấy cố gắng nở một nụ cười, như một đứa trẻ rụt rè; sau đó chị ấy đã đi và nhiều năm sau đó mới quay trở lại.

***

Vào cuối mùa thu năm 2005, tôi đến thăm anh trai mình sau buổi biểu diễn ở Bavaria. Chúng tôi đã đến hội chợ chơi với Elena và các cháu trai, cháu gái của chị ấy. Những tia sáng vàng của buổi chiều chiếu trên những vòng quay ngựa gỗ và quầy bán đồ ăn vặt; tiếng ồn ào của âm nhạc và giọng nói phát ra từ mọi phía, và chúng tôi bị bao quanh bởi một mùi hạnh nhân cháy khét lẹt. Marty nói với tôi rằng chẳng bao lâu nữa mọi người sẽ chỉ đọc sách điện tử.

“Chuyện này thật là tào lao.” Tôi nói. “Những thứ như vậy đã khiến thực tế trở nên sáo rỗng. Sách, đĩa thu âm và phim ảnh đang bị vứt bỏ và số hóa vào một thế giới mà anh không bao giờ có thể bước vào được theo nghĩa đen. Trong tương lai, bọn trẻ sẽ chỉ ngồi quanh quẩn trong những căn phòng trống rỗng sơn màu trắng.”

“Những Đứa Trẻ Tường Trắng.” Anh trai tôi xen vào khi tôi đang nói. “Một cái tên hay cho một ban nhạc.”

Tôi cau mày. “Anh đã từng phải chờ đợi để một cuộn phim thành hình. Nhưng nó không chỉ là những bức ảnh mà chúng ta thích nhất, mà còn là sự mong đợi cuối cùng sẽ được cầm nó trên tay.”

“Vâng, thưa ông nội.” Marty nở một nụ cười trừ. “Không ai có thể quay ngược lại thời gian.”

Tôi xua tay miễn cưỡng. Nhưng khi nhìn lại, tôi nhận ra có một điều gì đó khiến tôi bận tâm trong cuộc trò chuyện đó, giống như một vết cắt nhỏ trên ngón tay mà phải mất một lúc sau bạn mới nhận ra được. Chính câu Không ai có thể quay ngược lại thời gian đã khiến tôi trăn trở suốt một thời gian dài.

“Em ổn chứ?” Marty thúc vào người tôi. “Trông em có vẻ xuống tinh thần.”

“Mọi thứ đều ổn mà anh.”

“Anh không biết.” Anh trai tôi nói. “Em cũng sắp ba mươi tuổi rồi đó. Đôi lúc anh lo lắng rằng thời gian dành cho em sắp hết. Gần đây, em cũng đã nói với anh rằng em ghét công việc hiện tại của mình.”

“Em nói là em sẽ không làm công việc đó mãi mãi. Vậy thì sao chứ? Mọi chuyện vẫn ổn cả. Anh hãy ngừng lo lắng mọi lúc mọi nơi đi.”

Có thể tôi đã hơi cao giọng khi đáp lại.

“Chết tiệt, Jules, anh không muốn tranh cãi với em đâu. Anh chỉ không muốn bất chợt em thức dậy vào một ngày và nhận ra mình đã năm mươi trong khi bỏ lỡ tất cả mọi cơ hội dành cho mình. Em vẫn còn đang mơ mộng đến một cuộc sống khác.”

Marty nắm lấy vai tôi. “Em phải quên quá khứ đi. Em có biết có bao nhiêu người có quá khứ tồi tệ hơn chúng ta không? Tuổi thơ của em và cái chết của bố mẹ chúng ta không phải là lỗi của em. Lỗi lầm của em là điều mà những chuyện đó đang làm với em đây này. Chỉ có bản thân em phải chịu trách nhiệm cho chính bản thân và cuộc sống của em thôi. Nếu em chỉ làm những điều em luôn làm thì em sẽ chỉ đạt được được những điều em luôn có.”

Tôi không nói gì. Thời gian còn lại của chúng tôi tại hội chợ, tôi giữ cho riêng mình. Sau đó, tôi bắt gặp hình ảnh của một tiền đạo cao lớn và có thứ gì đó chợt ập đến với tôi. Không ngừng lại để suy nghĩ, tôi đã trả tiền, nắm lấy chiếc búa và vụt mạnh nó xuống vạch với tất cả sức lực của mình. Quả cầu kim loại vọt lên trên, nhưng chỉ đạt tới 80%.

Tôi tập hợp tất cả những gì tôi có, tất cả sự tức giận cùng thất vọng dồn nén bấy lâu nay và đánh xuống một lần nữa. Lần này, quả bóng chỉ đạt được 65%.

Một giọng hề the thé chế giễu tôi từ bên trong thiết bị: “Đó là tất cả những gì mà bạn có sao?”

Tôi đánh xuống lần nữa. 70%.

“Thế thôi sao?” Giọng nói máy móc chói tai lại vang lên và nó cười đến mức khàn cả cổ.

Tôi đánh xuống điểm đen nhỏ hết lần này đến khác nhưng tất cả những gì tôi có không đủ, hoặc chưa đủ và quả bóng chẳng bao giờ chạm được tới đỉnh.

Tối hôm đó, tôi đã mở món quà của Alva.

***

Đó là một cuốn sách bìa mềm. The altered thought and Other stories (Tạm dịch: Suy nghĩ đổi thay và những câu chuyện khác) của tác giả A.N. Romanov. Một món quà đầy hoài niệm, giống như album của Nick Drake; Romanov đã từng là một trong những tác giả mà chúng tôi yêu thích khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Tôi đã đọc những lời nhắn gửi khá ngắn gọn nhưng tâm huyết của Alva trước. Sau đó, có vẻ như chồng cô ấy cũng đã viết gì đó.

Jules thân mến,

Vợ tôi lúc nào cũng chỉ nói những điều tốt đẹp về cậu.

Tôi hy vọng cậu thích đọc cuốn sách này.

Những lời chúc tốt đẹp nhất gửi tới cậu,

Alexander Nikolai

Tôi đọc đi đọc lại những dòng chữ này. Nó thực sự có thật sao? Tôi nhớ Alva đã từng say sưa kể về những truyện ngắn của Romanov khi còn đi học. Giọng điệu tôn kính của Alva được phô bày ra bất cứ khi nào cô ấy đọc một phần của câu chuyện cho tôi nghe. Tại sao cô ấy không nói với tôi rằng cô ấy đã kết hôn với ông ấy khi chúng tôi gặp nhau? Có phải vì cô ấy không muốn tôi cảm thấy bị sỉ nhục vì tôi không bao giờ có thể hy vọng sánh được với ông ấy không?

Tôi lấy chiếc Vespa và phóng thẳng về vùng nông thôn. Vào buổi tối, vào khung giờ xanh1, cảnh vật có một cái gì đó bí ẩn và hấp dẫn. Ánh sáng dường như đến từ một thế giới khác. Chỉ có tiếng khoan mờ đục của thành phố vẫn vang vọng ở phía xa. Và ở đây, tôi nhận ra, với cảm giác đau đớn về thể xác, rằng tôi đã không sử dụng thời gian của mình. Tôi đã phải vật lộn nhiều phút để bắt xe buýt, lãng phí nhiều năm vì không làm những điều mình muốn.

1 Khung giờ xanh (the blue hour): thời điểm bầu trời gần như đổ một màu xanh dương đậm và ánh sáng đủ dịu nhẹ để làm nổi bật các vùng tối của cảnh vật mà không cần thêm bất kỳ nguồn sáng nào khác. Giờ xanh là khoảng thời gian trước khi mặt trời mọc hoặc ngay sau khi mặt trời lặn. Giờ xanh thường được biết đến với ý nghĩa lãng mạn và hiệu quả thị giác tuyệt đẹp mà nó mang tới cho những khung cảnh giàu cảm xúc trong phim và nhiếp ảnh.

Cũng trong đêm đó, tôi đã viết e-mail cho Alva và chồng cô ấy với giọng văn hài hước. Tôi nói rằng cuối cùng tôi cũng đã đọc xong cuốn sách sau khi trì hoãn suốt mấy năm, và rất vui vì món quà cũng như sự tâm huyết đáng ngạc nhiên của họ. Không giống như mấy lần trước, Alva trả lời ngay lập tức. Cô ấy trả lời như sau:

Vợ chồng mình sẽ rất vui nếu một ngày nào đó bạn đến thăm chúng mình. Chúng mình đang sống trong ngôi nhà gỗ gần Lucerne; ở đó bạn luôn luôn được chào đón.

Hy vọng sớm được gặp lại bạn.

Alva

Việc hồi thư nhanh chóng cùng với lời mời được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như vậy khiến tôi cảm thấy xúc động trong lòng. Tôi lại lấy lại hy vọng một lần nữa giống như tôi đã từng hy vọng ở tuổi mười lăm. Giống như tôi đã từng hy vọng ở tuổi ba mươi. Đồng thời, tôi cũng cảm thấy rằng đã đến lúc tôi phải đặt câu chuyện này lại phía sau nếu không muốn dành cả đời để đuổi theo một bóng ma. Norah gọi cho tôi ngay sau đó, như một điềm báo, và nói rằng cô ấy rất mong gặp được tôi khi cô ấy quay lại; cô ấy đã dành cho tôi một bất ngờ. Cô ấy chỉ nói là: “Một điều thú vị. Bạn sẽ thích nó cho mà xem.” Sau cuộc nói chuyện, tôi nghĩ đến chuyện Norah đã muốn đi khiêu vũ với tôi đến nhường nào, chuyện cô ấy luôn mang loại bánh nướng mà tôi thích từ Anh về cho tôi và tôi nghĩ về khuôn mặt đáng yêu của cô ấy với nốt ruồi nhỏ xinh phía trên môi mà cô ấy vẫn thường gọi đùa là “Simon”. Một lần nữa, tôi nhận ra rằng tôi thích cô ấy, rằng tôi đã nhớ cô ấy suốt vài tháng qua, rằng cô ấy là thật. Rằng với cô ấy, tôi có một ý nghĩa đặc biệt gì đó.

Tôi đã đưa ra quyết định của mình sau cuộc trò chuyện với Toni. Căn hộ của anh ấy ở gần Oranienburger Strasse. Bàn bi-a khổng lồ được đặt trong phòng khách, những bản sao tranh của Rothko và những bức ảnh của Will Steacy treo đầy hành lang, văn phòng bày đầy đủ các dụng cụ, máy phát điện, máy mài, bàn là hàn và những thứ khác mà anh ấy cần để phục vụ cho công việc ảo thuật của mình. Màn ảo thuật mới nhất của Toni là bẻ cong hoặc thắt nút một chùm tia laze màu xanh lá cây trên sân khấu, luồn tay qua nó, sau đó treo một chiếc mắc áo lên nó, khiến trông có vẻ như chiếc mắc áo đang lơ lửng giữa không trung và chỉ được giữ bởi ánh sáng xanh lục bằng một cách không thể lý giải nổi.

Chúng tôi chơi bi-a, như chúng tôi vẫn thường làm mỗi khi tôi tới chơi. Chúng tôi đã từng chơi như vậy trong những ngày còn học nội trú, khi chúng tôi thường dành hầu hết các ngày cuối tuần bên máy Jackpot cùng anh trai tôi. Marty từng là một trong những người chơi bi-a giỏi nhất ở trường, giống như một nhân vật trong bộ phim hạng B với mái tóc dài bóng nhờn, chòm râu dê và áo khoác da màu đen. Chúng tôi chưa từng đạt đến đẳng cấp của anh ấy.

“Cô ấy có bạn trai rồi.” Toni nói khi chúng tôi đang chơi. “Đó là một người khá được.

“Giờ thì sao?”

Anh ấy nhìn chằm chằm vào những quả bóng bi-a, bối rối một lúc rồi chuyển mục tiêu sang quả bóng màu vàng. “Anh không biết. Anh nghĩ rằng anh yêu chị gái em và say đắm trong tình yêu với chị ấy. Phần yêu làm anh vui khi chị ấy có bạn trai. Nhưng phần say đắm trong tình yêu với chị ấy khiến anh chỉ muốn xé xác anh ta thành từng mảnh.”

Anh ấy bắn trượt. “Anh biết em luôn thắc mắc tại sao suốt nhiều năm qua anh vẫn không từ bỏ chị gái em.” Anh ấy nói. “Tại sao anh không hạn chế tiếp xúc với chị ấy, tìm hiểu một cô gái khác và có một cuộc sống tốt đẹp với cô gái ấy. Có một điều mà anh vẫn thỉnh thoảng hay ngồi một mình và nghĩ: thật xấu hổ khi chuyện của anh với Liz không thành nhưng hiện tại cũng khá tốt; chỉ là không thể tiến xa hơn được nữa thôi.” Anh ấy lắc đầu. “Anh không thể tự giúp mình được.”

“Em biết mà.”

“Chuyện của anh sẽ không bao giờ thành công và có lẽ sau sáu tháng nữa, anh sẽ nói điều gì đó khác đi và bắt đầu tự lừa dối bản thân mình, nhưng ít nhất hiện tại, anh đã thành thật một lần.” Anh ấy nhấn mạnh. “Ý anh là, nếu anh dành cả cuộc đời của mình để chạy sai hướng, sau tất cả nó có thể là một hướng đi đúng hay không?”

***

Một ngày tháng Giêng: ánh sáng buổi chiều tối xám xịt, ám muội chiếu vào toa tàu, rìa của những đám mây ánh lên thứ ánh sáng màu kim loại. Đoàn tàu giảm tốc độ rồi dừng lại. Ở Lucerne, Alva đang đợi tôi trên sân ga. Cô ấy hôn vào má tôi ba cái rồi dẫn tôi ra xe, nơi mà chồng cô ấy đang đợi tôi.

“Mình không thể tin được rằng bạn thực sự đã đến.” Cô ấy nói khi chúng tôi đi bộ, đúng y chang những gì tôi đang nghĩ.

A.N. Romanov đã sáu mươi bảy tuổi nhưng trông ông ấy trẻ hơn tuổi thật ít nhất phải mười tuổi.

“Alexander.” Ông ấy nói và đưa tay ra. “Rất vui được gặp cậu.”

Giọng của ông ấy gần như không thể nhận biết được. Romanov có dáng người cao, thanh mảnh và nổi bật với mái tóc màu xám gợn sóng, lịch lãm trong buổi tối hôm đó với bộ vest và áo sơ mi không cài cúc cổ. Khuôn mặt góc cạnh của ông ấy trông thật hấp dẫn, có nét tinh quái ẩn hiện ở khuôn miệng của ông ấy và ông ấy cũng toát ra một vẻ nam tính cổ điển; bạn sẽ không thể tưởng tượng được ra cảnh ông ấy né tránh trong một cuộc giao tranh hồi còn trẻ hay lúng túng không biết sửa ống nước rò rỉ thế nào.

Alva gọi chồng mình là Sasha thay vì Alexander, cách gọi quen thuộc của người Nga. Khi cô ấy chở chúng tôi đến ngôi nhà gỗ, Romanov nói qua với tôi về vùng này. Tôi đã bị choáng ngợp khi nghe thấy giọng nói tuyệt vời của người đàn ông này sau khi đọc rất nhiều lần những suy nghĩ thân mật của ông ấy trên giấy. Romanov đã có bước đột phá ở độ tuổi hai mươi: một trí thức hào hoa có những cuốn tiểu thuyết và tiểu thuyết ngắn được dịch ra ba thứ tiếng. Tuy nhiên, giờ đây danh tiếng của ông ấy đã giảm đi và chỉ có thể tìm thấy trên mạng. Bên cạnh các bài báo về cuộc hôn nhân đầu tiên của ông ấy, tôi cũng tìm thấy rất nhiều ảnh đen trắng; một số ảnh được chụp với các nghệ sĩ nổi tiếng thời đó, một số ảnh chụp ông ấy hút thuốc một mình bên ngoài một câu lạc bộ ở Camden.

Ông ấy và Alva không còn sống ở Lucerne nữa; trong hai năm qua, họ đã sống ở một ngôi làng nhỏ trên núi có tên là Eigenthal, dưới chân núi Pilatus. Đó là một vùng nông thôn thuần tuý; hầu như không ai sống ở đây ngoài một số nông dân và người dân địa phương, hầu hết các nhà nghỉ dưỡng ở đây dường như không có người ở. Ở phía xa xa văng vẳng tiếng còi du dương của chiếc xe bưu điện màu vàng.

Chúng tôi đến một cơ ngơi rộng lớn được bao bọc bởi một hàng rào gỗ mục nát. Bản thân ngôi nhà gỗ là một tòa nhà đồ sộ xây trên nền đá; tầng trên cùng với mái lợp bằng ván lợp được làm bằng gỗ. Phía sau có một khu vườn và một đồng cỏ, cả hai đều được phủ một lớp băng mỏng. Một nơi biệt lập dường như không hề có một chút liên hệ nào với thế giới hiện đại. Tôi xếp đồ đạc của mình vào trong phòng khách và trong giây lát, tôi tự hỏi mình đang thực sự làm gì ở đây.

Bữa tối của chúng tôi có Raclette1, khoai tây và rượu vang trắng. Đĩa hát đặt trên ngăn tủ kéo đang phát một bài nhạc jazz.

“Time Further Out.” Tôi nói. “Ông nghe bài này khi ăn tối sao?”

Romanov khá vui vẻ. “Thỉnh thoảng. Cậu có thích nó không?”

“Mẹ tôi rất thích Brubeck.”

1 Bắt nguồn từ Thụy Sĩ, là một loại phô mai được làm từ sữa bò nguyên chất với màu vàng nâu bắt mắt.

“Tôi đã từng gặp Dave một lần ở San Francisco. Anh chàng rất hòa đồng; chúng tôi đã cùng nhau đến một quán bar sau một buổi biểu diễn, trò chuyện hàng giờ.”

Alva thoáng nhìn tôi. “Bạn phải biết là Sasha đã theo dõi anh ta suốt những năm sáu mươi. Anh ấy đã đi theo anh ta từ buổi hòa nhạc này đến buổi hòa nhạc khác. Tại một thời điểm nào đó, Brubeck đã nói chuyện với anh ấy trong năm phút vì thương hại.”

Romanov đặt tay lên tay cô. “Tôi hầu như không biết làm thế nào để gây ấn tượng với cô ấy nữa. Tôi đề nghị mang Dave Brubeck đến cho cô ấy, nhưng cô ấy vẫn muốn nhiều hơn thế.”

Alva thích thú vuốt ve mu bàn tay ông ấy. Tôi đau lòng khi thấy họ trao nhau những cái nhìn thân mật. Tôi nhìn cái cách ông ấy làm hài lòng cô ấy, nụ cười bí ẩn của ông ấy, cái vẻ ông ấy là người duy nhất nhận ra điều gì đó buồn cười nhưng lại giữ nó cho riêng mình. Tôi hình dung những năm tháng hạnh phúc mà cô ấy đã trải qua với ông ấy. Có lẽ lúc đầu cô ấy vẫn còn giữ khoảng cách, nhưng dần dần sẽ tan chảy khi ở bên cạnh ông. Cô ấy thường cho tôi mượn sách của Romanov. Một số đoạn văn đã được gạch chân; chúng nói về cái chết của bố ông ấy và nỗi sợ hãi ăn mòn ông ấy, rằng ông ấy không có khả năng hạnh phúc. Và cô ấy vẫn ngưỡng mộ ông ấy từ đó đến giờ, tôi có thể thấy rõ điều đó.

“Tôi đã đọc lại Trái tim không khuất phục trên đường đến đây.” Tôi nói. “Cùng với The Snows of Kilimanjaro (Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro) của Hemingway, đó là truyện ngắn hay nhất mà tôi từng đọc.”

“Cảm ơn cậu, nhưng nó được đánh giá hơi cao.” Romanov rắc hạt tiêu lên phô mai của mình. “Cậu nên biết một điều là khi tôi viết nó, tôi mới hai mươi tuổi. Hơn nữa… cũng đã rất lâu rồi. Câu chuyện không chính xác, rởm đời và đầy sai lầm.”

“Tôi thấy nó cảm động.”

Romanov nhìn Alva. “Em đã trả bao nhiêu cho cậu ấy để cậu ấy nói điều đó thế?”

“Tài khoản của chúng ta hiện đang trống không.”

Ông ấy đưa tay về phía tôi, như lúc ở nhà ga. “Jules, cảm ơn vì những lời khen của cậu.”

Sau bữa tối, chúng tôi đi ra phòng khách ngồi. Tất cả chúng tôi đều đã uống hơi nhiều rượu. Má của Romanov đỏ bừng. Ông ấy vui vẻ nói với chúng tôi rằng ông ấy biết chính xác linh hồn ông ấy trông như thế nào. Ông ấy nói: “Nó có đường kính khoảng hai mươi lăm xăng-ti-mét và nó cao ngang ngực. Nó có màu bạc ánh xám lấp lánh và khi cậu chạm vào nó, sẽ có cảm giác giống như chọc tay lên lớp nhung thượng hạng trước khi lướt thẳng qua nó như thể xuyên qua không khí.”

Sau đó, ông ấy nói về tình bạn của mình với Nabokov và chuyến đi đến Trung Quốc. “Khi đó tôi bằng tuổi cậu và mỗi buổi tối, tôi đều cùng bạn bè lang thang ở một sòng bạc bất hợp pháp tại Macao.” Romanov đặt ly rượu xuống để có thể khua cả hai tay khi nói. “Ở đó có một bầu không khí tội phạm kỳ diệu lắm, mọi người đưa ra những lời đề nghị rõ ràng nhất; cậu sẽ tán tỉnh và trò chuyện với những kẻ lừa đảo và những doanh nhân ranh ma. Buổi tối đầu tiên, bạn bè của tôi muốn chơi máy đánh bạc trong khi tôi lại muốn chơi cò quay1, vì vậy chúng tôi thống nhất sẽ gặp lại nhau tại quầy thu ngân để đổi chip của chúng tôi vào lúc nửa đêm. Trong vài giờ sau đó, với một chút may mắn của người mới bắt đầu, tôi đã giành được hai nghìn đô-la – một số tiền tương đối lớn với tôi vào thời điểm đó. Sau đó, vào lúc nửa đêm, tôi đợi bạn tôi ở điểm hẹn nhưng bạn bè của tôi vẫn chưa ở đó.” Romanov nhấp một ngụm rượu. “Trong lúc chờ đợi, tôi chợt nhận ra rằng trên một chiếc bàn, màu đỏ xuất hiện hai mươi ba lần liên tiếp. Đây là thời điểm lý tưởng, tôi nghĩ thế, vì vậy tôi đã đến đó và đặt một trăm đô-la cho màu đen. Không mạo hiểm thêm. Màu đỏ lại xuất hiện lại. Tôi đặt thêm một trăm đô-la nữa cho màu đen, nhưng màu đỏ lại xuất hiện lần thứ hai mươi lăm. Để lấy lại tiền của mình, tôi đặt hai trăm đô-la cho màu đen lần nữa. Lại là đỏ. Tôi phải đặt cược bốn trăm đô-la. Một lần nữa, tôi trắng tay. Tám trăm đô-la. Màu đỏ. Ngay lúc đó, bạn bè của tôi đi tới. Tôi vay tiền và đặt hai nghìn đô-la vào màu đen. Hai nghìn! Nhưng nó lại xuất hiện màu đỏ lần thứ hai mươi chín. Và khi tôi, một kẻ phá sản, đang rời khỏi sòng bạc, tôi nghe thấy một người đánh bạc phía sau hét lên: Đen.”

1 Roulette: trò đánh bạc thông dụng nhất trong Casino. Roulette theo tiếng Pháp có nghĩa là “cái bánh xe nhỏ”. Trong trò chơi này, người chơi có thể chọn đặt cược vào một hay nhiều thể loại cược như số duy nhất, các nhóm số khác nhau, màu đỏ hoặc đen.

Như một giai thoại, nó không có gì nổi bật nhưng Romanov đã kể nó bằng kỹ thuật tính toán thời gian bậc thầy đến mức bạn phải bật cười vì Punchline1.

1 Punchline: Phần cuối của một câu chuyện hoặc một câu chuyện cười, giải thích ý nghĩa của những gì đã xảy ra trước đó hoặc làm cho nó trở nên vui nhộn.

Ông ấy lấy một điếu thuốc ra khỏi hộp đựng bằng bạc. “Thuốc lá chúc ngủ ngon của tôi. Cậu muốn một điếu không?”

Tôi cảm ơn ông ấy nhưng từ chối, ngưỡng mộ cảm giác thích thú khi ông ấy phả khói lên trần nhà và cái cách ông ấy có thể tận hưởng khoảnh khắc đơn giản này biết bao. “Alva nói rằng cậu và cô ấy đã biết nhau từ khi cậu còn trẻ?”

“Đúng rồi.”

“Tại sao cậu lại mất liên lạc với cô ấy?”

“Bởi vì…” Tôi liếc nhìn Alva, nhưng cô ấy đang cúi đầu. Một cảnh tượng mà tôi đã chôn giấu trong nhiều năm hiện lên trong tâm trí: một ngôi nhà dột nát với đồ đạc tồi tàn. Tôi chạy lên cầu thang và cảm giác khi nhìn thấy Alva khỏa thân trong khi ở thời điểm đó tình bạn của chúng tôi đang vỡ ra thành từng mảnh, bí mật thức dậy trong lòng tôi. Tôi vẫn thường tự hỏi: có phải mẹ cô ấy đã cố tình để tôi lên lầu không?

Romanov dò xét tôi, rồi nhìn Alva, và đột nhiên có một tia u sầu ánh lên trong đôi mắt ông.

Ông ấy đứng lên và đi về phía tôi. Chúng tôi cao bằng nhau. “Cậu còn trẻ, Jules ạ. Nhớ lấy. Cậu còn thời gian.” Tôi bị cuốn hút bởi cái cách ông ấy nhấn mạnh từ thời gian. Ông ấy hút một hơi cuối cùng, rồi dụi điếu thuốc vào gạt tàn. “Rất vui khi được tiếp đón cậu. Cậu cứ ở lại bao lâu tùy thích. Mọi người đến đây đều ngủ ngon lắm, rồi cậu sẽ thấy.” Ông ấy hôn Alva, sau đó thận trọng, chậm rãi đi lên cầu thang.

Khi ông ấy đi rồi, tôi ngồi xuống ghế xô-pha và tự rót cho mình một ly Fendant. “Bạn có phải là fan ruột của ông ấy không?” Tôi hỏi, nửa đùa nửa thật. “Nàng thơ của ông ấy?”

“Có lẽ là cả hai.” Cô nói. “Bất ngờ thật, Sasha đã không nói nhiều như vậy trong nhiều năm. Mình nghĩ anh ấy muốn gây ấn tượng với bạn. Anh ấy thậm chí còn đi mà không cần gậy; anh ấy không bao giờ làm cái gì bình thường.”

“Mình thích ông ấy. Làm thế nào mà bạn lại gặp được ông ấy thế?”

Alva ngồi lên một cái tủ kéo và co chân lên. “Cách đây mười năm, tại một hội nghị chuyên đề ở St.Petersburg, nơi mình đang làm công việc dịch thuật cho sinh viên. Khi đó anh ấy đã ngoài năm mươi và trông giống như một diễn viên, nhưng cũng có một chút gì đó của George Gershwin trong anh ấy. Mình chú ý đến anh ấy chủ yếu vì anh ấy nói tiếng Đức xuất sắc và đám phụ nữ thực sự lao vào anh ấy, mình chưa bao giờ thấy ai như vậy. Anh ấy bước ra diễn thuyết và trong lúc anh ấy nói, anh ấy liên tục nhìn về phía mình. Mình không biết nữa, có điều gì đó rất thoải mái ở anh ấy… Nó khiến mình mê mẩn.”

“Bố mẹ bạn phản ứng ra sao? Họ có đến đây thăm bạn không?”

“Một năm bố mình sẽ đến thăm vài lần. Mình không còn liên lạc với mẹ nữa. Mình và mẹ đã không nói chuyện kể từ khi mình rời trường học.”

Bên ngoài thật tĩnh lặng: những người được coi là gần đây nhất cũng sống cách đây rất xa, ẩn hiện dưới những đám mây bão đen như mực. Tôi nhìn Alva, người chẳng hề già đi bất chấp nhiều năm đã qua. Cô ấy đeo kính và buộc cao mái tóc đỏ. Trên cổ là hai vết sẹo màu ngà.

Cô ấy ngửa đầu ra sau. “Bạn biết đấy, mình muốn thành thật. Mình yêu Sasha,” – đột nhiên có chút chán nản – “nhưng bạn không được để buổi tối hôm nay lừa dối bạn. Suốt nhiều tháng nay, anh ấy đã không rời khỏi ngôi nhà gỗ này và gần đây anh ấy trở nên khá… đãng trí.”

Chúng tôi nghe thấy tiếng nước chảy trên lầu, rồi lại có tiếng bước chân.

“Chúng mình từng dành rất nhiều thời gian để đi du lịch. Những chuyến đi, phiên họp, hội nghị chuyên đề - anh ấy có rất nhiều bạn bè trên thế giới. Nhưng hơn hết, anh ấy rất năng nổ và hiếu kỳ. Trước khi quen anh ấy, mình luôn nghĩ anh ấy u sầu vì anh ấy viết ra toàn những điều buồn bã. Nhưng anh ấy lạc quan ngây ngô lắm và tính cách đó của anh ấy rất có tính lan toả. Đó là điều mình yêu thích nhất ở anh ấy.”

Alva rót thêm rượu cho chúng tôi. “Cách đây hai năm, Sasha ốm nặng. Hiện tại anh ấy đã bình phục nhưng nó đã khiến anh ấy thay đổi. Cứ như thể phép thuật của anh ấy biến mất, như thể anh ấy đột nhiên trở thành một ông già bình thường với những nỗi sợ hãi và sự lập dị thường thấy. Những ngày này, anh ấy dành tất cả thời gian của mình chỉ để ở trên lầu và viết; anh ấy quyết tâm hoàn thành cuốn sách của mình. Gần đây anh ấy nói rằng anh ấy có thể cảm nhận được cái kết của cuộc đời mình. Anh sẽ kết thúc trong chính căn phòng này, anh ấy nói, em cũng có thể cảm nhận được điều đó chứ? Mình ôm lấy anh ấy và thật điên rồ là mình cũng có thể cảm nhận được sự kết thúc của anh ấy đang đến gần.”

Cô ấy nhăn mặt và dừng lại một lúc. Sau đó, tự dưng cô ấy trở nên bình tĩnh và quay sang tôi. “Nhân tiện, anh ấy cũng biết bạn có viết văn.”

“Nhưng mình không viết văn, Alva à, bao nhiêu lần rồi. Đó chỉ là chuyện của nhiều năm trước thôi.”

“Có thể bạn không viết lên giấy nhưng bạn làm điều đó trong đầu.” Cô ấy nói bằng giọng nói trầm lắng và chạm vào cánh tay tôi. “Bạn luôn có sẵn những điều đó mà. Bạn là người ghi nhớ và lưu giữ những điều đó và bạn biết điều đó.”

***

Phía xa xa, núi Pilatus chìm trong ánh đỏ của bình minh. Dòng nước suối chảy ào ào. Hít thật sâu không khí trong lành. Sáng sớm, tôi chạy dọc bờ sông, băng qua các trang trại và các khoảng rừng. Một giờ sau tôi quay lại nhà gỗ, đổ mồ hôi và thở hổn hển. Trước sự ngạc nhiên của mình, Romanov đang đợi tôi ở bậc thềm ngoài cửa trước.

“Aha, một vận động viên.” Ông ấy nói. “Vợ tôi thích những chàng trai yêu vận động, nhưng tôi đoán là cậu cũng biết điều đó rồi.”

“Vợ của ông yêu các nhà văn hơn tất cả mọi thứ.”

Ông ấy đặt tay lên áo tôi. “Jules, đi với tôi một lát.”

Romanov dẫn tôi lên phòng làm việc của ông ấy. Nó có mùi khô hanh và bụi ấm. Một chiếc bàn lớn cùng một chiếc máy đánh chữ Olivetti, một chiếc bàn nhỏ trong góc, một cây đàn piano, một số trang bản thảo vương vãi xung quanh và một cây thánh giá bằng gỗ. Chỉ có thế thôi.

“Tôi cần không gian cho tâm trí của mình.” Romanov nói. “Tôi từng có hai giá sách đặt ở đây, nhưng sau đó tôi cứ muốn đọc thay vì viết nên chúng phải ra đi. Tôi phải làm việc. Thời gian trôi nhanh lắm.”

Thời gian trôi nhanh lắm dường như là phương châm sống của ông ấy; ông ấy lặp lại nó liên tục. Ông ấy nói với tôi rằng khi còn nhỏ, ông ấy có lần đã viết một bài thơ tên là Thời gian, Trôi nhanh nhưng nó đã bị thất lạc trong một lần chuyển nhà. Ông ấy đã lấy tiêu đề từ vở opera của Schubert, chỉ thay đổi một chút. Những dòng đầu tiên của bài thơ thời thơ ấu của ông ấy là:

Thời gian ơi hãy cứ bay đi,

đưa tôi đi theo với

Tôi chỉ tay vào cây đàn piano. “Ông có biết chơi không?”

“Một chút.”

Romanov đã thể hiện một trong những Điệu nhảy Tuyệt vời của Shostakovich. Những ngón tay của ông ấy dường như biết phải làm gì theo ý mình, dễ dàng tìm đúng phím. “Tôi đã bị nhạc viện từ chối.” Ông ấy nói. “Nhưng ít nhất tôi vẫn có chiếc máy đánh chữ Olivetti của chính mình. Vì vậy, cậu có thể nói rằng tôi đã dành cả cuộc đời mình để gõ phím, chỉ là khác nhau về mức độ sang trọng thôi.”

Khi hoàn thành bản nhạc, ông ấy đóng nắp chiếc đàn lại. Ông ấy dường như đang suy nghĩ điều gì đó. Cuối cùng, ông ấy chỉ vào chiếc bàn trong góc. “Nếu cậu muốn, cậu có thể làm việc hoặc viết ở chỗ này.”

“Cảm ơn anh, nhưng tôi không muốn làm phiền anh.”

“Cậu sẽ không làm phiền tôi đâu, ngược lại ấy chứ. Tôi từng thích ngồi viết trong thư viện, nhìn người khác làm việc mang lại cảm hứng cho tôi. Lúc đầu, Alva thường ngồi với tôi nhưng cô ấy quá tò mò, điều đó khiến tôi lo lắng.” Ông ấy nhìn tôi. “Vậy ý cậu thế nào nhỉ? Tôi sẽ rất vui khi có ai đó đồng hành làm việc cùng.”

Nghe có vẻ khá phiến diện, nhưng tôi có thể nghe ra rằng đây là một yêu cầu, vì vậy ngay sau bữa trưa, tôi đã đến và ngồi cùng ông ấy trong phòng làm việc. Bàn của ông ấy được đặt trước cửa sổ, của tôi thì ở cạnh tường. Romanov nhìn ra phong cảnh núi non ở Thụy Sĩ còn tôi chỉ nhìn thấy những thanh xà bằng gỗ. Ông ấy có một chiếc ghế da gắn bánh xe nhỏ còn tôi ngồi trên một chiếc ghế đẩu gấp bằng nhựa. Rõ ràng là một xã hội với hai tầng lớp.

Để bắt đầu, tôi tiếp tục chỉnh sửa một số báo cáo cho hãng âm nhạc của mình, nhưng tôi cảm thấy khó khăn. Cuối cùng, tôi đã đóng tài liệu lại và bắt đầu viết. Mặc dù việc được ngồi cạnh tác giả mà tôi tôn kính dường như có vẻ vô lý, chuyện này vẫn thúc đẩy tôi rất lớn. Trí tưởng tượng của tôi giống như một khu mỏ bỏ hoang, và khi tôi đi xuống đó trên chiếc xe goòng, tôi đã ngạc nhiên trước tất cả những thứ đang chờ được đưa ra ánh sáng ở dưới đó. Ngay lập tức, tôi nảy ra những ý tưởng và phác thảo mà chắc hẳn đã nằm im trong tôi suốt nhiều năm.

Romanov đang quan sát tôi.

“Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

“Cậu viết quá nhanh. Cậu thật sự đang đập từng nhịp vào bàn phím. Cạch cạch cạch.”

Tôi nhìn lướt qua chiếc máy Olivetti của ông ấy. Trang giấy trắng cuộn lên từ máy đánh chữ chỉ có vài dòng. Ông ấy đeo kính và mím môi thật chặt.

“Ông đang viết cái gì đấy?”

“Tôi đang hồi tưởng lại. Một cuốn tiểu thuyết gồm năm câu chuyện khác nhau. Tất cả chúng đều được kết nối và về cơ bản chúng xoay quanh cách ký ức định hình và định hướng chúng ta. Tất cả…” Romanov suy nghĩ một lúc rồi khịt mũi. “Tất cả đều kinh khủng.” Ông ấy đứng dậy. “Kinh khủng đến nỗi tôi thực sự muốn bê cái máy đánh chữ lên và ném nó ra ngoài cửa sổ. Lần xuất bản sách cuối cùng của tôi là sáu năm trước; tôi đã trì hoãn cuốn sách này nhiều lần rồi.”

Romanov đi đi lại lại trong phòng với sự giúp đỡ của một trong những chiếc gậy chống được dựng trong cái giỏ ở góc, thứ mà ông đã dựa vào để đi lại kể từ vụ tai nạn trong chuyến đi bộ đường dài vài năm trước đó. Ông vỗ trán. “Trong đây chẳng còn gì nữa cả. Giống như cái tủ đựng thức ăn đã bị đánh chén hết sạch. Tất cả đều nằm hết trong những cuốn sách đã xuất bản, những trang giấy nhàu nát và những lời nói rồi. Tôi không thể…”

Dường như ông ấy đã quên mất mình đang nói gì ở đoạn giữa của câu. Bỗng nhiên ông ấy quay đi. Lúc này tôi mới nghe thấy tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo trên tường trong góc phòng.

“Khi tôi bằng tuổi cậu, Jules ạ, tôi cũng đã viết nhiều như vậy. Cạch, cạch, cạch.” Ông ấy lại nói. “Tôi đã từng rất vô tư. Tôi đã nghĩ rằng mọi thứ sẽ tiếp diễn như vậy mãi mãi. Nhưng dần dần càng ngày càng ít. Tôi phải chấp nhận nó. Nhưng tôi không thể. Không phải là lúc cậu nghĩ An Indomitable Heart là câu chuyện hay nhất của tôi đâu. Tôi viết nó khi tôi hai mươi tuổi, ít nhiều thì nó cũng đã trôi qua rồi.”

Ông ấy dừng lại. Và rồi khoảnh khắc đáng sợ đã đến, khi tôi thấy ông ấy đổi chủ đề và kể cho tôi nghe câu chuyện về sòng bạc bất hợp pháp, từng chữ một, hết lần này đến lần khác.

***

Những ngày đầu tiên ở bên cạnh Alva cảm giác như được trở về nhà sau một hành trình dài. Tất cả những khoảnh khắc thanh xuân của chúng tôi đều có ý nghĩa rất nhiều đối với tôi hơn tất cả những gì đã xảy ra sau đó; mọi cuộc nói chuyện với cô ấy, mọi ánh nhìn, thậm chí là mọi sự thất vọng từ lúc đó đều in hằn trong trí nhớ của tôi như một tảng đá nguyên khối. Và bây giờ tôi đã trở lại với ngọn nguồn sự sống của tôi. Khi chúng tôi ngồi trong bếp uống rượu và ngây ngốc, khi chúng tôi đi bộ xuyên qua khu rừng mà không nói một lời nào, khi cô ấy chơi một bản nhạc vụng về trên chiếc piano cho tôi nghe và tôi kể cho cô ấy nghe những câu chuyện về anh chị tôi hay khi chúng tôi ngồi trên ghế xô-pha trong phòng khách vào ban đêm, nghe nhạc và Alva dựa vào tôi: trong tất cả những khoảnh khắc này, tôi hầu như đều có thể thấy quá khứ của chúng tôi được kết nối lại một cách tinh tế với hiện tại và tương lai của chúng tôi.

Ngày thứ ba trong chuyến thăm của tôi, Alva và chồng cô ấy lái xe vào thành phố từ sáng sớm. Sau khi họ đi, tôi đi lên tầng hai. Tôi phát hiện hai người họ ngủ ở hai phòng riêng. Phần này của ngôi nhà ngập tràn thứ mùi hăng hắc của các loại thảo mộc, thuốc muối và thuốc uống. Alva đã kể với tôi rằng Romanov phải uống nhiều thuốc mạnh kể từ khi phẫu thuật tuyến tiền liệt. Căn phòng của ông ấy có không khí của một cửa hàng đồ cổ; trên bàn đầu giường, bên cạnh chiếc đèn đan bằng liễu gai kiểu Á, quả địa cầu và một số cuốn vở là một con thỏ đồ chơi màu xám. Ngược lại, phòng của Alva trông có vẻ tạm bợ: một chiếc giường tròn với một tháp sách bên cạnh cao đến hông; những cây huyết dụ và cây ngọc giá đặt bên cửa sổ cao chạm trần nhà.

Lần này, khi tôi ra ngoài chạy bộ, tôi đã chọn một con đường dẫn qua vùng nông thôn miền núi ẩm ướt được bao quanh bởi những rặng thông. Con đường mòn dẫn tôi đi dần lên, đến tận Chräigütsch. Một cơn gió băng giá thổi qua những cánh đồng bên dưới.

Khi tôi trở lại nhà gỗ, không phải Romanov đang đợi tôi trước cửa nữa mà là Alva. “Mình đã nhìn thấy bạn từ phía cửa sổ.” Cô ấy nói. “Ai nghĩ được rằng mình sẽ được thấy bạn chạy trở lại chứ?”

Sau bữa sáng muộn, hai chúng tôi đi dạo. Nhà gỗ dựa lưng vào một khoảng rừng; cây cối mọc gần nhau đến nỗi bạn không còn nhìn thấy được bầu trời nữa, và đối với tôi, khu rừng có vẻ giống như một thế giới ngầm huyền diệu và kỳ ảo. Alva đi sát bên tôi, mặt đỏ bừng vì lạnh.

“Mình thường nghĩ đến chị gái của bạn trong những năm qua.” Tôi nói, sau một quãng dài im lặng. “Về việc họ chỉ tìm thấy chiếc áo khoác của chị ấy, mình ước gì bạn đã nói với mình sớm hơn. Mình sẽ có thể thấu hiểu bạn nhiều hơn nữa.”

Alva im lặng. Cô ấy nhặt một viên đá từ dưới đất lên và nhìn chằm chằm vào nó như thể nó là một thứ gì đó quý giá.

“Đối với mình thì việc kể cho bạn nghe tất cả mọi chuyện là quá sức.” Cô ấy ném viên đá đi. “Khi chị gái mình biến mất, bố mình đã gần như phát điên lên. Đối với ông, điều tồi tệ nhất là họ không tìm thấy manh mối dù là nhỏ nhất nào trên chiếc áo khoác của chị ấy. Ông ấy đã từ bỏ công việc của mình để tham gia vào tất cả mọi đội tìm kiếm và tự mình đi khắp nơi để nói chuyện với các nhân chứng. Ông ấy hầu như không ngủ và khi không thể tiếp tục được nữa, ông ấy đã phải nhập viện. Mẹ mình đã khóc suốt không ngừng trong vài tuần, và sau đó bà không bao giờ nói về chuyện đó nữa. Như thể Phine chưa bao giờ tồn tại. Bà ấy chưa bao giờ nhắc về chị ấy.”

Giọng của Alva trầm hơn. “Tất cả những gì mà bố mẹ mình làm sau đó là tranh cãi. Khi họ ly hôn, mẹ mình và mình đã chuyển đến một ngôi làng khác cách nhà khá xa. Mẹ con mình chưa bao giờ kể chuyện đó với ai. Sau đó, mình bị trầm cảm và có ý định tự tử. Nhưng mình liên tục nghĩ: điều gì sẽ xảy ra nếu một ngày nào đó Phine quay lại và mình không còn ở đó nữa?”

Tôi cố gắng trao cho cô ấy một cái ôm nhưng cô ấy đã tránh đi. Chúng tôi đi qua một đồng cỏ đóng băng. Trong một khoảnh khắc, tôi bị thôi thúc phải chạm tay vào hàng rào điện.

Cô ấy đặt tay lên vai tôi. “Những người khác trong lớp của chúng ta không biết những điều mà mình đã phải trải qua. Họ chỉ nói về những ngày lễ và bố mẹ của họ, và tất cả họ có vẻ rất hạnh phúc. Chỉ có bạn…” – một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi – “chỉ có bạn có vẻ không hạnh phúc. Đó là lý do mình đến ngồi cạnh bạn hồi đó.”

Chúng tôi đang đi về phía một ngôi nhà trọ trên dãy núi Alpine có cái tên kỳ lạ Unterlauelen.

“Vì vậy, bạn hiểu cảm giác đó.” Tôi nói một cách bình tĩnh. “Khi cuộc sống bị đầu độc bởi một thứ gì đó, ngay từ khi bắt đầu. Giống như dòng chất lỏng màu đen được đổ vào một chậu nước sạch.”

“Mình nghĩ rằng đi du lịch sẽ giúp ích cho mình. Sau khi nghỉ học, mình đã đến New Zealand sáu tháng, sau đó đến Nga. Sau này, mình cùng Sasha đi khắp nơi. Nhưng làm thế cũng chẳng giúp ích được gì.”

“Còn văn học, nó có giúp gì cho bạn không?”

“Đôi khi.”

“Và A. N. Romanov?”

Cô ấy cười. “Đôi khi anh ấy cũng giúp được mình. Thực ra, lý do mình đọc sách suốt ngày chỉ đơn giản là để chạy trốn, để bản thân được an ủi bằng một vài câu văn hoặc một vài câu chuyện. Khi còn nhỏ, mình muốn được trở thành một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết hơn bất cứ điều gì. Để được bất tử và sống mãi mãi trong một cuốn sách, sau đó mọi người có thể đọc thấy mình và quan sát mình từ bên ngoài. Mình biết điều đó thật là ngớ ngẩn.” Cô ấy có vẻ ngượng ngùng. “Mặc dù vậy, nếu thành thật mà nói, điều mình thích nhất vẫn là trở thành một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết.”

Và lúc đó tôi mới nhận ra lý do tại sao cô ấy lại cứ muốn dỗ dành tôi đến Thụy Sĩ. Cô ấy cảm thấy bị phản bội. Hẳn là cô ấy đã kết hôn với Romanov, một phần cũng bởi vì ông ấy đã tạo ra hai loại thuốc mà cô ấy yêu thích nhất: sự tự tin và ngôn từ hoa mỹ. Tuy nhiên, ở hiện tại, nhà cung cấp đó đã gần bảy mươi tuổi và trở nên không đáng tin cậy. Tôi tưởng tượng Alva đã phải trải qua quãng thời gian vài năm trên núi như thế nào: một hành tinh cô độc, quay quanh phòng làm việc trong căn nhà gỗ, nơi mà hàng ngày chồng cô càng đánh máy càng vô ích và hiếm khi nói chuyện với cô hơn.

Chúng tôi ngồi xuống trước một cái bàn trong căn nhà trọ. Cô ấy kể cho tôi nghe về bố của cô ấy: ông ấy đã tặng cô chiếc Fiat màu đỏ vào sinh nhật lần thứ mười tám và hiện tại ông ấy đã trở thành một nhà leo núi cừ khôi. “Nhân tiện, ông ấy rất thích thú khi nhận ra con rể của mình hơn mình mười tuổi.”

“Ông ấy khoẻ không?”

“Mình nghĩ là khá tốt. Ông ấy đang đi làm trở lại, là bác sĩ nội khoa của một phòng khám nhóm. Ông ấy luôn thích nói chuyện với bệnh nhân của mình. Mình thường đến thăm ông ấy tại nơi làm việc khi mình còn nhỏ.”

“Bạn chưa bao giờ kể với mình về ông ấy trước đây.”

Cô ấy nhìn chằm chằm vào đĩa thức ăn của mình. “Khi mẹ mình giành được quyền nuôi con, bố mình đã chuyển đến Augsburg. Mới đầu, mình vẫn tới thăm ông ấy vào cuối tuần, mình có phòng riêng, ông ấy tặng sách cho mình và cùng mình đi bộ đường dài. Sau đó, đột nhiên mình bị mất liên lạc với ông ấy trong nhiều năm. Mình đã nghĩ rằng đó là lỗi của mình, rằng có lẽ mình đã khiến bố nhớ đến chị gái mình quá nhiều; nhưng khi mình mười tám tuổi, ông ấy đã liên lạc với mình và bố con mình đã nói chuyện lại với nhau. Mình đã rất hạnh phúc khi có bố bên cạnh một lần nữa! Sau đó mình mới biết được là mẹ mình chưa bao giờ đưa cho mình những bức thư mà bố đã gửi. Mẹ mình đã nói với bố mình rằng mình không muốn gặp lại ông ấy nữa.”

“Tại sao bà ấy lại làm như vậy?”

“Mình không biết nữa. Mẹ luôn yêu thương Phine nhiều hơn một chút và mẹ không bao giờ tin là đã mất chị ấy. Mẹ con mình đã từng tranh luận rất nhiều. Mình và bà ấy nói với nhau những điều khủng khiếp. Bà ấy rất lạnh lùng với mình; mình đã rất vui vì cuối cùng mình cũng đã thoát khỏi bà ấy. Mình nghĩ là như vậy nhưng vài năm trước, bà ấy đã gửi cho bố mình một bức thư, nhờ ông chuyển cho mình. Không có địa chỉ để hồi âm lại. Hiện bà ấy đang sống ở nước ngoài, nhưng bà ấy không viết nhiều về chuyện đó. Dù sao thì đó cũng là một bức thư hay: một kiểu từ biệt.”

Alva lắc đầu. “Mình chỉ ước bà ấy đã nói tất cả những điều đó với mình khi mình còn nhỏ. Hồi đó mình chán ghét cuộc sống vô cùng. Mình có cảm giác rằng nếu chị gái mình biến mất và mẹ mình vẫn không yêu thương mình thì chắc hẳn mình không có chút giá trị nào cả. Mình muốn trở thành người xứng đáng với tất cả những điều này.”

Mắt cô ấy long lanh nước. Tôi nghiêng mình và ôm lấy cô ấy.

“Bạn sẽ ở lại lâu hơn chút chứ?” Cô ấy hỏi bên tai tôi.

Tôi nhìn thấy vẻ mặt van xin của cô ấy và nhận ra được toàn bộ ý nghĩa của những điều cô ấy đang hỏi trước cả khi cô ấy làm thế.

Tôi đã cố gắng nói với sếp về ý định nghỉ việc hai lần. Trong cuộc gọi đầu tiên, tôi giả vờ bị viêm phổi, nhưng vì tôi chưa bao giờ là một kẻ nói dối giỏi nên tôi đã gọi lại và nói với sếp của mình là tôi sẽ quay trở lại làm việc trước sự ngạc nhiên của ông ấy. Trái ngược với cách làm việc thường ngày của mình, tôi không hề nghĩ đến những hậu quả tiềm ẩn. Và tôi đã trả lời một bức thư rất tình cảm từ Norah rằng tôi không thể gặp cô ấy trong lúc này. Cô ấy đã viết thư cho tôi nhiều lần sau đó, cũng đã gọi điện và nhắn tin nhưng tôi đều không trả lời.

Trong khoảng thời gian chỉ có vài ngày, tôi đã vẽ ra một đường thẳng ngăn cách cuộc sống cũ của mình. Tuy nhiên, tôi thậm chí còn không chắc tương lai của mình có thể ở bên cạnh Alva hay không. Tôi chỉ biết rằng tôi không thể để cô ấy rời xa tôi một lần nào nữa. Rằng tôi không muốn dành cả đời để trả giá cho những sai lầm mà tôi mắc phải khi còn là một cậu thiếu niên.

“Anh không muốn nói với em điều này thêm một lần nữa, nhưng em không thể mang quá khứ trở lại hay thay đổi nó được.” Anh trai tôi nói qua điện thoại.

“Có.” Tôi nói. “Em có thể.”

***

Tôi lướt mạng trong phòng khách vài giờ trước khi nhận ra rằng Alva không có trong nhà. Lúc đầu, tôi đã nghĩ rằng cô ấy ở cùng Romanov trên tầng, nhưng tôi nhận ra rằng tôi đã không nghe thấy có tiếng bước chân của cô ấy hay tiếng vòi nước chảy nào cả. Trong một căn nhà cách âm kém như thế này, bạn sẽ luôn nghe thấy những âm thanh đó vào cùng một thời điểm trong ngày. Tôi đợi trong phòng khách ở tầng dưới một lúc trước khi đi ngủ. Đó là một ngày cuối tháng Hai, ngoài trời tuyết rơi dày đặc. Tôi bị đánh thức lúc sáu giờ sáng bởi tiếng đóng cửa trước. Sau đó, khi tôi hỏi Alva rằng cô ấy đã ở đâu, cô ấy chỉ nhún vai và nhìn tôi như thể cô ấy không biết tôi đang nói về điều gì.

Niềm đam mê làm vườn của cô ấy rất mới mẻ đối với tôi. Khi mùa xuân đến, cô ấy dành hàng giờ để chăm sóc rau hoặc thay chậu và tưới cây. Khi cô ấy bước vào vườn, dù móng tay có bẩn thỉu, cô ấy vẫn cảm thấy hạnh phúc. Trái ngược với cô ấy, lãnh địa của Romanov chính là căn nhà gỗ, và nếu tôi phải dùng một âm thanh để mô tả về nó, đó sẽ là tiếng lạch cạch chậm chạp, không biết mỏi mệt phát ra từ cái máy đánh chữ của ông ấy.

Một ngày nọ, ông ấy đột nhiên cầm cây gậy lên và thách đấu với tôi. Tôi nắm lấy một chiếc gậy chống khác của ông ấy và chúng tôi rào nhau trong giây lát. Khi tôi hỏi ông ấy cuộc thách đấu này có ý nghĩa gì, Romanov chỉ trả lời ngắn gọn: “Cách miêu tả tốt nhất mà cậu có thể dùng để nói về anh ấy là: anh ta vừa là một đứa trẻ vừa là một người đàn ông!”

Trận đấu kiếm rõ ràng đã khiến ông ấy kiệt sức; ông ấy ngồi xuống ghế và lau mồ hôi trên trán. “Bố mẹ cậu làm nghề gì thế Jules?”

“Họ đã chết trong một vụ tai nạn khi tôi mới mười tuổi.”

“Tôi xin lỗi.”

Tôi tuỳ tiện ra hiệu. “Còn bố mẹ ông thì sao? Họ như thế nào?”

Ông ấy kể cho tôi nghe về mẹ của mình, một nhà thơ xuất thân từ một gia tộc lâu đời ở Petersburg. “Bà ấy thích văn học Đức và tiếng Đức, vì vậy chúng tôi luôn có một bảo mẫu là người Đức. Ngược lại, bố tôi được giáo dưỡng đơn giản hơn nhiều. Ông sinh ra ở gần Yekaterinburg. Một người mơ mộng muzhik1 luôn nảy ra những ý tưởng kinh doanh tuyệt vời trong đầu nhưng không bao giờ hiện thực hoá thành công một ý tưởng nào cả. Ông đã bỏ nhà đi khi còn là một đứa trẻ trước Cách mạng tháng Mười. Ông ấy gặp mẹ tôi ở Mỹ, và sau đó chúng tôi chuyển đến sống ở Hà Lan. Đó là nơi bố tôi đã tự kết liễu cuộc đời mình.”

Tôi dò xét biểu cảm của ông ấy.

1 Thuật ngữ “nông nô”, theo nghĩa một nông dân không tự do của Nga hoàng.

“Thiếu thành công.” Ông ấy nói. “Ông ấy đã khiến một công ty khác bị phá sản; chúng tôi đã ở vào thế tận cùng không thể nghĩ được gì hơn và đã thực sự bị đuổi ra ngoài đường. Đó là lỗi của ông ấy. Vì vậy, ông ấy đã đặt dấu chấm hết cho nó. Một số người quen của chúng tôi cho rằng ông ấy thật hèn nhát. Tôi thì nghĩ rằng ông ấy làm thế là hợp lý.” Ông ấy nhìn vào mắt tôi. “Một người con trai luôn giữ quan hệ tốt và tự nhiên với mẹ của mình. Nhưng với bố của anh ta thì khác… Anh ta quan sát ông ấy, nghi ngờ nhưng tôn kính ông ấy. Anh ta tính toán cho bản thân mình và chống lại ông ấy. Tôi đã nghĩ về ông ấy trong suốt cuộc đời của mình.”

“Tôi hầu như không hiểu gì về bố của tôi.” Tôi nói. “Tôi thường tự hỏi mối quan hệ của chúng tôi sẽ như thế nào nếu như ông ấy còn sống. Chúng tôi sẽ làm gì với nhau? Hoặc không biết chúng tôi có thể trở thành bạn bè của nhau không? Tôi muốn ngồi trong quán bar và trò chuyện với ông ấy, chỉ có hai chúng tôi khi mà tôi đã trưởng thành. Tôi đã bỏ lỡ mọi thứ. Những cuộc trò chuyện, những khoảnh khắc nhỏ chỉ có hai bố con. Mãi cho đến khi tôi hai mươi tuổi, tôi mới biết được mình đã cạo râu sai cách. Tôi đứng trong phòng tắm với người bạn cùng phòng của mình. Cậu ấy chỉ tôi Luôn phải cạo từ dưới cằm lên. Tôi không biết điều đó.”

Tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh Romanov. Ông ấy vỗ vai tôi. “Cậu là một người đàn ông tốt, Jules. Tôi chắc chắn rằng bố cậu sẽ thích cậu.”

Cảm thấy xấu hổ, tôi hỏi: “Sao ông lại đến Thuỵ Sĩ?”

“Sao tôi lại chọn kết thúc ở đây ư? Người vợ đầu tiên của tôi sinh ra ở đây, và tôi đã thích đất nước này ngay từ lần đầu tiên. Ngoài ra, Alva muốn ra nước ngoài một lần nữa, sau rất nhiều năm. Tôi cũng vậy, thành thật mà nói. Tôi đã chuyển đến Nga sau chính sách perestroika1, nhưng tôi chưa bao giờ cảm nhận được cảm giác thân thương như ở nhà ở đó như tôi từng hy vọng.”

1 Chính sách thay đổi chính trị và kinh tế được Liên Xô tiến hành từ năm 1986 đến năm 1991. Cải tổ chính trị, bắt đầu từ quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô dưới sự đứng đầu của Gorbachov, dẫn đến những thay đổi đáng kể trong cuộc sống của đất nước và thế giới nói chung.

“Nhân tiện, tôi đã bắt đầu đọc những bức thư mà ông trao đổi qua lại với Nabokov. Có đúng là ông đã đến thăm ông ấy khi còn là một cậu bé không?”

Romanov cười và vuốt vuốt những sợi tóc trên trán. Trong một khoảnh khắc, ông ấy giống như một người không tuổi. “Thực tế tôi không nhỏ như vậy đâu. Tôi nghĩ lúc đó tôi khoảng mười sáu hoặc mười bảy tuổi và tôi vừa mới đọc xong Lolita. Đó là cuốn sách đầu tiên thực sự truyền cảm hứng cho tôi, mặc dù tôi chắc chắn rằng mình mới chỉ hiểu được một nửa những gì được viết trong đó. Nhưng chỉ mỗi sự dí dỏm vui tươi đó, sự thông minh về ngôn ngữ đó cũng khiến tôi khao khát được gặp ông ấy rồi. Khi đó chúng tôi vẫn sống ở Oregon. Vào một đêm nọ, tôi đã trốn nhà và bắt xe buýt Greyhound đến New York để gặp ông ấy ở Đại học Cornell. Nhưng hôm đó, trong tất cả các ngày, ông ấy lại không giảng bài. Tôi dùng giọng Nga đặc sệt để nói rằng tôi là cháu của ông ấy nên họ đã cho tôi địa chỉ riêng của ông. Vài giờ sau, tôi bấm chuông cửa. Ông ấy nhìn tôi kinh ngạc khi nghe tin tôi trốn nhà để đến đây gặp ông ấy. Chúng tôi đã gọi điện thoại cho bố mẹ tôi, sau đó chúng tôi uống trà và nói chuyện về các tác giả, các vận động viên quần vợt mà cả hai chúng tôi cùng ngưỡng mộ. Tôi gửi cho ông ấy tất cả những câu chuyện của tôi một cách tự nhiên; đến Thụy Sĩ sau này cũng vậy. Ông ấy luôn đọc chúng, mặc dù ông ấy hơn tôi tận bốn mươi tuổi.”

Chúng tôi im lặng mất một lúc. “Alva đã làm gì khi cô ấy ra ngoài vào ban đêm?” Tôi hỏi. “Cô ấy đã biến mất vài lần như thế rồi. Cô ấy dậy để làm gì?”

“Tôi không biết. Cô ấy không nói với tôi, nhưng cô ấy đã như thế từ khi chúng tôi mới biết nhau rồi. Tôi luôn có cảm giác không nên hỏi cô ấy về điều đó. Tôi không nghĩ cô ấy thích thế và cô ấy cần những cuộc đi dạo về đêm.”

Tôi gật đầu. “Alexander, tôi có thể hỏi ông một điều nữa được không? Tại sao ông cưới Alva?”

“Tại sao tôi lại cưới cô ấy ư?” Trong những ngày đó, Romanov thường lặp lại những câu hỏi mà tôi hỏi ông ấy. Tần suất ông ấy quên đồ, mất tập trung hoặc đi tìm kính đang dần tăng lên một cách báo động. “Tôi chắc chắn là Alva đã kể với cậu về hội nghị chuyên đề và cách cô ấy tiếp cận, rồi nói chuyện với tôi. Nhưng tôi đã biết rất rõ về người phụ nữ trẻ này từ trước. Cô ấy luôn giải thích mọi thứ cho những người khác và là người rất chú tâm vào tất cả những điều cô ấy làm. Cần mẫn, có, nhưng cũng bí ẩn lắm. Chắc hẳn cậu cảm thấy được rằng cô ấy đã trải qua rất nhiều điều.” Ông ấy tiếp tục nói với giọng tự hào. “Và tất nhiên cô ấy rất tuyệt. Đôi khi cậu sẽ nhìn thấu được một người khi ở khoảng cách xa, và cô ấy có vẻ là một người có thể vừa buồn vừa ấm áp lại vui vẻ cùng một lúc. Và cô ấy đọc sách nữa. Chúa ơi, người phụ nữ này đọc sách nhiều lắm! Trên bậc thềm, trên ghế, trên sàn nhà - mỗi phút rảnh rỗi, cô ấy đều có một cuốn sách đặt trên đùi.”

“Và sau đó?” Tôi hỏi khẽ.

Ông ấy suy nghĩ một lúc. “Alva đã rất dè dặt. Chúng tôi đi ăn cùng nhau một vài lần, nhưng cô ấy vẫn cứ ngại ngùng; cô ấy hầu như không nói bất cứ điều gì trước cả. Vào những lúc như vậy, tôi thường cảm thấy mình có nhiệm vụ phải giữ cho cuộc trò chuyện tiếp diễn, thậm chí còn phải diễn một chút. Nhưng khi ở bên cô ấy, lần đầu tiên tôi thấy mình tận hưởng sự tĩnh lặng trong tôi. Cô ấy giống như bàn tay lạnh đặt trên vầng trán nóng.”

Sau đó, tôi đứng một mình trước cửa sổ nhìn toàn cảnh trong phòng khách, nhìn ra bên ngoài trời đang tối dần. Lúc đầu, tôi thấy đêm trong căn nhà gỗ hơi kỳ lạ. Những chiếc mặt nạ châu Phi đang cười trên tường dường như trở nên sống động đáng sợ; đầu của những con chiến mã và các chiến lợi phẩm săn bắn khác nhìn chằm chằm vào người quan sát và thường thì, khi nhìn ra ngoài cửa sổ, bạn sẽ không thấy gì ngoài cảnh chạng vạng huyền bí phủ lên thung lũng, rồi sau đó là hư vô đen kịt. Đôi khi chúng tôi không gặp ai khác trong nhiều ngày và có cảm giác như thể chúng tôi là những người duy nhất còn ở đây. Âm thanh của nền văn minh là thứ đưa chúng tôi trở lại thực tại: tiếng ục ục của lò sưởi, hay tiếng còi của ấm đun nước trên bếp. Đó là một sự tồn tại hàng ngày đơn điệu, gần như quái đản. Tôi đã sớm nhận ra rằng chúng tôi đang mắc kẹt ở đây, và tất cả chúng tôi đang chờ đợi một điều gì đó. Thật sốc khi tôi nhận ra điều đó là gì.

***

Vào một buổi tối trong rất nhiều buổi tối như vậy, cảnh tượng tò mò mà tôi đã kìm nén từ khi còn nhỏ lại trở lại với tôi. Chúng tôi đã từng xem một bộ phim của Billy Wilder tại một rạp chiếu phim nghệ thuật trong thị trấn và đã đi ăn gì đó sau đó. Romanov, người thường không thích ở gần người khác, đã đi cùng với chúng tôi một lần. Trên đường trở về ngôi nhà gỗ, ông ấy đã kể cho chúng tôi nghe chuyện nhà xã hội học Max Weber đã cãi nhau với cha mình, người đã qua đời ngay sau đó không lâu như thế nào. Do đó đã không có một buổi hoà giải nào xảy ra giữa họ và sau cái chết của bố mình, Weber đã bị suy sụp tinh thần rất lớn.

Romanov nói: “Ông ấy phải từ bỏ việc dạy học của mình. Thậm chí nó còn khiến cho ông ấy mất đi khả năng diễn thuyết.”

“Chỉ vì một lần cãi vã đó thôi sao?” Tôi hỏi.

“Tôi chắc chắn là còn có nhiều lý do nữa, nhưng về cơ bản là ông ấy không thể đối diện với sự thật rằng mình đã không thể hòa giải với bố mình. Suy nghĩ đó cứ ăn sâu vào trong suy nghĩ của ông ấy. Vợ của Weber gọi đó là con quỷ xấu xa ẩn giấu trong vô thức của cuộc sống đang giương móng vuốt về phía chồng mình.”

Trở lại ngôi nhà gỗ, khi mà Romanov đã đi lên tầng, Alva mở album của Nick Drake lên. “Mình đã nghe nó rất nhiều lần sau cuộc gặp cuối cùng của chúng ta ở Munich.” Cô ấy nói. “Sau đó, mình đã chắc mẩm rằng chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau nữa.” Cô ấy ngồi lên trên tủ ly và đóng sách lại. Alva thích ngồi ở những nơi nực cười nhất trong ngôi nhà như thế.

“Thỉnh thoảng, khi mình nghe thấy bạn nói chuyện với Sasha ở trên tầng, mình đã không thể tin được là bạn đang thực sự ở đây. Ở bên bạn, nói chuyện hay nghe nhạc với bạn đã từng là một phần quan trọng trong cuộc sống của mình, nhưng trong những năm gần đây, mình thường nghĩ nó chỉ là một giấc mơ. Như thể nó chưa từng xảy ra vậy. Và đột nhiên, nó lại quay trở lại như thể mới ngày hôm qua thôi.”

“Bởi vì bây giờ chúng ta đang nghe bản nhạc mà chúng ta đã từng nghe. Thời gian không phải là tuyến tính, cũng không phải là ký ức. Bạn luôn nhớ những điều bạn gần gũi về mặt tình cảm tại bất kỳ thời điểm nào rõ ràng hơn. Vào Giáng Sinh, bạn luôn nghĩ rằng Giáng Sinh năm ngoái mới vừa diễn ra và qua đi mà thôi, mặc dù nó đã là chuyện của mười hai tháng trước. Ngược lại mùa hè vừa qua đi, thực sự còn gần hơn thời điểm đó tận sáu tháng, lại có cảm giác xa cách hơn rất nhiều. Ký ức về những thứ tương tự với hiện tại về mặt cảm xúc chỉ là một lối tắt. Đây…” Tôi vội vàng vẽ nguệch ngoạc những thứ tôi vừa nói xuống một tờ giấy và đưa cho cô ấy xem:

a1

“Ừ hứ. Vậy đây chính là thứ mà bạn nghĩ đến.” Cô ấy nói

Tôi nắm lấy gậy chống của Romanov và đi vài bước quanh phòng với nó. Alva tiến đến và lấy nó đi.

“Bây giờ bạn cũng cần cái này để đi lại à?” Cô ấy lướt tay trên tấm gỗ gụ bóng.

“Trả lại gậy cho mình đi chứ. Mình cần nó mà.”

Cô ấy cười. “Không.”

Một tiếng sấm lặng lẽ vang lên. Một cơn bão đang thành hình trên núi; thỉnh thoảng những tia chớp lóe lên trên đỉnh, thắp sáng cả màn đêm. Được che chở bên trong trong khi gió thổi luồn qua những tán cây và giật mạnh vào các cành cây dấy lên một cảm giác ấm cúng đặc biệt.

Alva tiến lại gần hơn. “Tại sao bạn lại dừng chụp ảnh?”

“Mình luôn cảm thấy rằng khi mình chụp ảnh, mình được gần với bố mình hơn. Nhưng sau đó, mình nhận ra nó không thật.” Mặt tôi nóng bừng lên. “Nhưng chủ yếu mình bắt đầu chụp ảnh là vì…”

Cô ấy tiến thêm một bước về phía tôi. “Là vì cái gì chứ?”

Một cảnh tượng mà tôi nghĩ rằng tôi đã quên hiện ra trước mắt: một chiếc taxi chạy xa khỏi tôi vào ban đêm dưới ánh đèn và rẽ vào một góc. Tôi muốn hét lên một điều gì đó quan trọng nhưng tôi không thể…

Sững sờ, tôi nhìn Alva. Tôi có nên nói với cô ấy về điều mà tôi chỉ mới phỏng đoán và hầu như không thể thừa nhận với bản thân mình không? Rằng chính cảm giác tội lỗi vô thức đã khiến tôi lãng phí những năm tháng tươi đẹp nhất của cuộc đời mình, đâm đầu vào khóa học đại học sai lầm và cầm chiếc máy ảnh lên lần nữa? Rằng ngần ấy năm trôi qua, tôi đã chối bỏ cơ hội viết lách của mình, mặc dù tôi rất thích được làm điều đó?

“Khi khác mình sẽ kể cho bạn nghe.”

“Khi khác, khi khác!” Alva nói, giọng khá đáng yêu và không nghĩ gì khi bàn tay tôi đặt lên khuỷu tay cô ấy. Bàn tay xây dựng cuộc đời của riêng nó, ngập ngừng trườn lên cánh tay và chạm vào má cô ấy. Bước thêm nửa bước nữa để tiến về phía cô ấy; cằm tôi gần như chạm vào trán của cô. Tôi nhìn xuống, cô ấy nhìn lên, cảnh tượng diễn ra trong giây lát khiến tôi mông lung không chắc chắn. Cô ấy vươn tay nắm lấy tay tôi. Nhưng ngay lập tức lại lui lại, lấy cây gậy chọc vào bụng tôi và chúc tôi ngủ ngon.

***

Tôi vẫn không tưởng tượng được rằng tình trạng của Romanov lại xấu đi nhanh như vậy, ngay cả khi ông ấy để nước trong bồn tắm tràn ra hai lần trong một khoảng thời gian khá ngắn vì ông ấy quên mất mình định tắm. Ông ấy là một chuyên gia trong việc che giấu tình trạng bệnh thực sự của mình. Một ngôi nhà với mặt tiền vẫn còn nguyên vẹn trong khi mọi thứ bên trong thì đang đổ sập.

Tôi đi cùng ông ấy xuống hầm của ngôi nhà gỗ, nơi điều chỉnh hệ thống sưởi và giặt giũ. Tôi bị tấn công bởi mùi nước tẩy rửa nồng nặc, mùi báo cũ và mùi nền xây ẩm thấp. Một giá rượu và một tủ súng nằm tách biệt trong một khu vực cách nhiệt. Romanov lấy từng khẩu súng khác nhau ra và giải thích về từng cái cho tôi. Có súng trường cỡ nhỏ và cỡ lớn, súng trường Zimmerstutzens truyền thống, súng hỏa mai và một khẩu súng săn hai lòng trên-dưới.

“Tôi đã từng đi săn rất nhiều.” Ông ấy nói. “Nhưng tôi đã không làm thế trong nhiều năm nay. Bố tôi đã dạy tôi. Khi đó tôi còn là một cậu bé, có lẽ mới chỉ chín tuổi. Ông ấy là một thợ săn xuất sắc.”

Romanov nhìn biểu cảm trên mặt tôi và gật đầu. “Ông ấy đã đi săn với khẩu súng này. Khẩu Browning là khẩu súng yêu thích của ông ấy. Bố tôi là một người đàn ông có thể buông bỏ. Cái chết của ông ấy thật khủng khiếp đối với chúng tôi, nhưng tôi luôn ngưỡng mộ ông ấy vì hành động dũng cảm đó - có lẽ bây giờ còn nhiều hơn bao giờ hết.”

Ông ấy chạm đầu ngón tay vào nòng súng. “Nghe này, Jules.” Ông ấy nói, đột nhiên chuyển sang cách xưng hô thân thiết Du. “Hai năm trước, tôi bị ung thư, và tôi đã nói lời xin chào với Thần Chết rồi. Ông ấy nói tôi chỉ còn một ít thời gian nữa thôi. Kể từ đó, tôi đã phải viết. Tôi biết rằng vợ tôi đang rất đau khổ vì điều đó. Cô ấy bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài khi ở đây; tôi vẫn nói với cô ấy rằng cô ấy nên kiếm cho mình một căn hộ trong thị trấn, nhưng cô ấy muốn ở lại với tôi. Tôi xin lỗi vì tôi không còn là người đàn ông mà cô ấy yêu nữa. Nhưng tôi không thể làm gì khác được. Tôi hy vọng rằng cô ấy sẽ tìm được ở cậu một người bạn đồng hành mà cô ấy có thể trò chuyện và dành thời gian cùng. Đối với tôi, Alva không bị cô lập và đơn độc là điều có ý nghĩa nhất. Cậu là bạn của chúng tôi và tôi trân trọng điều đó.”

Ông ấy đặt tay lên vai tôi và nhìn thẳng vào mắt tôi. Rồi ông ấy đột ngột quay đi.

“Nhưng đừng có cả gan động vào cô ấy!”

Một vài giây trước khi chuyện này được ấn định. Theo bản năng, tôi lùi lại nửa bước. “Tôi không muốn…”

“Tôi không phải là một kẻ ngốc nghếch.” Romanov vẫn không nhìn tôi. “Tương lai là thứ mà tôi sẽ để lại cho cậu, người bạn trẻ. Nhưng miễn là tôi vẫn còn sống, tôi không muốn cô ấy lừa dối tôi. Vài năm trước, tôi có thể tự mình bảo đảm chuyện đó không xảy ra. Tôi biết cách giữ chân một người phụ nữ. Nhưng bây giờ… Hãy hứa với tôi rằng cậu sẽ không chạm vào cô ấy đi.”

Tôi không nói gì. Tôi nhìn chằm chằm vào khẩu súng trước, rồi ngẩng lên nhìn ông ấy. “Hứa với tôi, Jules!”

Romanov lại đang nhìn tôi. Trong một khoảnh khắc, có thứ gì đó bí ẩn xẹt qua trên biểu cảm gương mặt của ông ấy và đôi mắt thân thiện của ông ấy cứ kiên định nhìn chằm chằm vào tôi.

***

Đến tháng Sáu, tôi đã ở trên núi được năm tháng. Tôi đã nhờ Liz cho thuê lại căn hộ của mình ở Berlin để không sử dụng hết số tiền tiết kiệm của mình. Tuy nhiên, tất cả thật xa vời biết bao. Tôi đã nghĩ như vậy khi cùng Alva lái xe đến cái hồ nhỏ trên núi lạnh như băng. Rùng mình, chúng tôi leo lên khỏi mặt nước và nằm trên khăn tắm để phơi nắng. Không khí có mùi của cây cỏ; bầu trời trong xanh không một gợn mây. Chúng tôi đã nằm quan sát một chiếc dù lượn bay dần xuống dưới thung lũng phía xa được một lúc rồi. Tôi nằm ngửa, còn Alva thì nằm úp sấp mặt xuống. Cô ấy cứ co chân lên, cố tình dùng ngón chân chọc vào ống chân trái của tôi hết lần này đến lần khác.

“Bạn có vui không?” Tôi hỏi cô ấy.

“Cũng vui… Bạn đã đọc Tâm hồn là một kẻ săn đuổi cô đơn chưa?

“Rồi, mình đã đọc nó từ nhiều năm trước khi còn ở trường. Mình thấy nó thực sự cảm động. Sau đó, mình thậm chí đã viết cho bạn một bức thư.”

“Thật buồn cười.” Cô ấy nói. “Mình chưa bao giờ nhận được bất kỳ một lá thư nào từ bạn cả.”

“Mình nghĩ nó sến quá nên cuối cùng đã không gửi nó cho bạn.”

“Bạn vẫn còn giữ nó chứ?”

“Không.”

“Bạn đang nói dối, Jules, mình cá là bạn vẫn còn giữ bức thư đó.”

Một con bướm lưu huỳnh bay ngang qua bãi cỏ và hạ cánh xuống ngay trước mặt tôi.

Alva nói: “Mình muốn đọc cái gì đó của bạn.”

“Mình vẫn chưa sẵn sàng.”

“Suốt thời gian qua hai người đã làm gì thế? Mình nghe thấy hai người nói chuyện liên tục.”

“Chúng mình chủ yếu nói về bạn.”

Ngón chân của cô ấy gõ vào ống chân tôi một lần nữa; lần này là một lời cảnh báo nhẹ nhàng.

“Sasha thế nào rồi?”

“Thật là khó nói.” Tôi đã phải rất cân nhắc khi diễn đạt. “Bạn có để ý gần đây ông ấy lơ đãng đến mức nào không? Mình có cảm giác tình trạng của ông ấy tệ hơn vài tuần trước rất nhiều.”

“Mình biết.” Alva nói với giọng đều đều, như thể vọng lại từ một nơi rất xa.

“Và thế có nghĩa là gì?”

Cô ấy im lặng. Đó là câu hỏi mà không ai trong chúng tôi có thể trả lời.

Trong khi tôi đang có khởi đầu tốt và đang bắt tay vào viết hai cuốn tiểu thuyết ngắn thì ngược lại, Romanov làm việc với tiến độ rất chậm. Thỉnh thoảng ông ấy sẽ đọc cho tôi nghe vài câu văn, hoặc thậm chí là xin ý kiến của tôi. Tuy nhiên, đôi khi, ông ấy chỉ ngồi nhìn tôi viết. Cạch, cạch, cạch. Ông ấy lặp lại, đôi khi thích thú, đôi khi chán nản. Sự thật rằng ông ấy là nhà văn giỏi hơn cũng không thể thay đổi một sự thật khác: ông ấy sẽ không bao giờ có thể ngồi đó nhiệt tình tuôn trào ra những câu văn như tôi được.

“Sau đó chúng ta đi xem phim nhé?” Alva hỏi tôi.

“Miễn là bạn không khóc.”

“Mình chắc chắn là mình sẽ không khóc.”

Lần nào cô ấy cũng nói vậy. Nhưng sau đó cô ấy vẫn khóc như mưa. Những cảnh quay tâm lý tình cảm đảm bảo sẽ lấy được những giọt nước mắt của cô ấy; ngay cả những biến cố sáo rỗng nhất cũng khiến cô ấy xúc động mạnh: chẳng hạn như khi một cặp đôi gặp nhau, hoặc một cầu thủ già, bị chấn thương đã thắng lợi lật ngược tình thế trận đấu vào phút cuối cùng. Cô ấy xấu hổ về điều này và tôi rất thích trêu chọc cô ấy.

“Hãy coi chừng, họ sẽ hôn nhau trong giây lát thôi.” Tôi nói. “Bạn có muốn nhìn sang chỗ khác không?”

Tuy nhiên, điều mà tôi trân trọng nhất ở Alva những ngày này là sự dịu dàng của cô ấy. Như thể từ đó được tạo ra để dành riêng cho cô ấy. Cô ấy dịu dàng ngay cả trong cách cô ấy thay chậu cây, bày tỏ suy nghĩ hay bóp vai gáy cho chồng cô ấy; cách cô ấy viết một lá thư hoặc sắp xếp các dụng cụ đồ ăn lên bàn, luôn đặt dao kéo, đĩa và ly một cách chính xác cũng dịu dàng đến lạ. Như thể cô ấy không muốn để bất cứ điều gì khác có cơ hội chen vào.

Vào đầu giờ tối, tôi mang những ghi chép của mình lên phòng làm việc của Romanov. Từ xa tôi đã có thể nghe thấy tiếng nhạc. Cánh cửa đóng chặt và tôi len lén nhìn vào. Romanov đang ngồi chơi piano và Alva ngồi ngay bên cạnh. Ông ấy thì thầm điều gì đó khiến cô ấy bật cười. Họ hôn nhau nhưng không quá say đắm, rồi Romanov lại chơi đàn. Những ngón tay của ông ấy múa uyển chuyển trên các phím đàn, nhưng đột nhiên ông ấy chơi sai một nốt nhạc. Ông ấy tiếp tục cố gắng chỉnh lại giai điệu một lần nữa trong vô vọng. Ông ấy đơn thuần không thể ghi nhớ các nốt nhạc nữa. Cuối cùng, ông ấy đóng nắp cây đàn piano lại. Alva nói gì đó bằng tiếng Nga, rồi cô ngả đầu vào ngực ông và Romanov giơ tay vuốt ve mái tóc cô. Đôi mắt ông khép lại. Vẻ mặt ông lúc đó cứ quanh quẩn trong tâm trí tôi mãi chẳng chịu rời.

Đêm đó, Alva lại biến mất trong vài giờ và mãi tận sáng sớm mới trở lại nhà gỗ.

***

Tôi không chắc anh chị mình sẽ hoà hợp với Alva như thế nào, nhưng ngay khi đến nhà ga, họ đã ôm chào đón cô ấy. Liz và Marty quyết định đến đây để nghỉ ngơi vào cuối tuần, và tất cả chúng tôi cùng nhau lái xe lên ngôi làng trên núi. Alva đã đi qua những khúc cua với sự thận trọng gần như quá mức, và tôi không thể ngừng nghĩ đến cách cô ấy từng lái xe khi còn niên thiếu.

“Ở đây trông giống xứ Shire nhưng không có người Hobbit.” Marty say mê nhìn những đám mây có vân vàng trên bầu trời buổi tối. Anh ấy có vấn đề về lưng một thời gian rồi và đang ngồi cứng ngắc trên ghế phụ.

“Chúng em còn có thể lấy sữa trực tiếp từ những người nông dân.” Alva nói. “Chúng em có một thùng đựng sữa hai lít và chúng em tự mang sữa đã được tạo bọt về.”

“Ý bạn là mình mang sữa về hả?” Tôi xen vào.

“Và mình đã nấu cho bạn ăn trong nhiều tháng ở đây đấy.”

“Anh đã rất tiếc khi Jules không nấu ăn nữa.” Anh trai tôi nói. “Khi còn nhỏ, nó luôn tất bật ở trong bếp. Đôi khi nó còn đẩy bố mẹ ra ngoài vì họ liên tục làm vướng chân nó.”

“Em không biết điều đó.” Alva nói. “Em đã hỏi cậu ấy rằng có lúc nào cậu ấy muốn nấu ăn không và cậu ấy nói với em là cậu ấy không thể.”

Thay vì phải trả lời, tôi nhìn anh chị của mình. “Chồng của Alva sẽ rất vui vì hai người đến chơi.”

“Anh đã tìm kiếm tên ông ấy trên Google.” Marty nói. “Ông ấy có một cuộc sống đầy màu sắc - Mỹ, Hà Lan, Nga, Thụy Sĩ. Giờ ông ấy bao nhiêu tuổi rồi?”

“Sáu mươi bảy tuổi.”

Ánh mắt của Marty lướt từ tôi sang Alva. Cô ấy ngồi ở vị trí ghế lái và biết rằng mọi người đang nghĩ gì, nhưng điều đó không làm cô ấy bận tâm.

“Chị nghĩ chuyện này thật tuyệt.” Chị tôi nói. “Khi còn là thiếu nữ, chị luôn muốn có được một người đàn ông lớn tuổi hơn nhiều.”

“Chúa ơi, em biết mà.” Marty nói. “Chị từng hẹn hò với một người bạn trai ba mươi sáu tuổi trong một vài tháng. Vị hôn phu kỳ quặc của chị cũng hơn chị gần hai mươi tuổi. Và anh ta chưa bao giờ mở miệng nói chuyện với chúng em.”

“Em trai chị không biết nó đang nói gì đâu em.” Liz nói với Alva. “Nó đã ở bên cạnh một người phụ nữ suốt cả trăm năm. Người duy nhất từng có được nó.”

Marty hôn lên chiếc nhẫn cưới của mình và làm ra vẻ ưu tú.

Chiếc xe dừng lại trên con đường rải sỏi với những tiếng rắc rắc thỏa mãn. Romanov nhìn chúng tôi từ ban công như một người thợ săn đang quan sát trò chơi từ nơi ẩn náu. Ông ấy chào hỏi anh chị tôi rất thân thiện, nhưng sau đó biến mất luôn lên tầng hai và không gặp lại họ cho đến bữa tối.

“Anh ấy không quen có khách tới thăm.” Alva đứng trong bếp cắt củ hành. “Tại sao bạn chưa bao giờ nói cho mình biết rằng bạn thích nấu ăn? Thật tuyệt nếu một lúc nào đó bạn nấu một bữa cho mình.”

“Nếu một vài thứ từng xảy ra khác đi, mình đã có thể nấu cho bạn ăn một lần rồi.”

“Aha. Khi nào vậy?”

“Khi chúng ta rời trường học. Mình đã hỏi bạn có muốn chia sẻ căn hộ với mình ở Munich không; chúng ta định sẽ thảo luận về nó trong bữa tối hôm đó. Mình đã đi mua mọi thứ. Mình đã nghĩ nếu bạn ăn món farfalle1 với ragout2 của mình, bạn sẽ quên chuyện đi khỏi đất nước.”

1 Là một loại mì ống thường được gọi là mì ống nơ hoặc mì ống bướm, tên này bắt nguồn từ tiếng Ý. Tại thành phố Modena của Ý, farfalle được gọi là strichetti.

2 Là món hầm chính

Cô ấy cười. “À, đúng rồi, mình nhớ ra rồi. Vậy rốt cuộc tại sao chúng ta lại không ăn tối cùng nhau hôm đó nhỉ?”

Tôi nhìn chằm chằm vào cô ấy, không nói nên lời. Đột nhiên nụ cười của cô ấy biến mất và căn bếp trở nên yên tĩnh. Những nếp nhăn trên lông mày của cô ấy xuất hiện trở lại. Cô khuấy chảo risotto3, im lặng và rõ ràng đang căng thẳng. Cuối cùng cô ấy đặt chiếc thìa gỗ xuống. “Mình xin lỗi.”

3 Một món cơm Ý với nước dùng chứa nhiều kem. Nước dùng có thể được làm từ thịt, cá và rau củ.

“Không có gì đâu.”

“Bạn sẽ nấu lại cho mình một bữa như vậy chứ?”

Tôi nhìn kỹ cô ấy một lúc rồi gật đầu.

Trong bữa tối, Romanov ngồi trên chiếc ghế ở đầu bàn như thể hóa đá. Ông ấy không biết làm thế nào để tương tác với những vị khách không quen. Ông ấy mặc một chiếc áo sơ mi đen và một chiếc áo khoác màu xám, bề ngoài vẫn vô ưu như thường. Nhưng khác với dáng vẻ mọi ngày mà tôi vẫn gặp, ông ấy hầu như chỉ im lặng dùng bữa.

Marty nói về tấm bằng tiến sĩ của mình và về chuyện Elena sắp sửa mở một cơ sở thực hành tâm lý trị liệu ở Munich. Ngược lại, Liz hầu như không nói gì về công việc hay cuộc sống hàng ngày của chị ấy. Chị ấy có vẻ bồn chồn như thể đang chờ để được giải thoát khỏi chỗ này. Bản năng hoang dã của chị tôi, vốn đã ngủ say trong vài năm qua, nay lại đang cựa quậy, liếm chân và bắt đầu phi nước kiệu ra khỏi lồng.

Sau đó, khi chúng tôi ngồi trong phòng khách, Romanov dần sống động trở lại. Tôi không nhớ ông ấy đã nói gì để bắt đầu, chỉ biết rằng ông ấy đã nói về người vợ đầu tiên của mình, con gái của một nhà công nghiệp giàu có ở Zurich. Romanov đã đến nhà hàng Kronenhalle để kỷ niệm ngày xuất bản cuốn tiểu thuyết The Perpetual Virginity of the Soul (tạm dịch: Sự trinh nguyên vĩnh cửu của tâm hồn) và đã gặp cô ấy ở quầy bar của nhà hàng.

“Thật buồn, cô ấy đã mất khi còn quá trẻ.” Ông ấy nói. “Tôi luôn nghĩ rằng đó là bất hạnh lớn nhất của cuộc đời mình. Tôi đến Nga, chuẩn bị rời khỏi thế giới này. Rồi Đức Chúa Trời lại ban phước cho tôi lần nữa.”

Romanov nâng ly rượu của mình về phía Alva. Tôi biết rằng ông ấy rất nghiêm túc khi nói về Đức Chúa Trời; ông ấy thường nói với tôi về việc chỉ có kẻ ngu mới không tin vào Chúa.

Ông ấy tự rót thêm rượu và bắt đầu kể chuyện, chuyển từ giai thoại này sang giai thoại khác, nghĩ rằng ông ấy đang mua vui cho chúng tôi, nhưng tối hôm đó tôi nhận ra rằng ông ấy đang không kiểm soát được những câu chuyện của mình; đúng hơn là những câu chuyện đó đang kiểm soát chính ông ấy. Bộ não của ông ấy dường như đang phải làm việc thêm giờ, vất vả mở đủ loại ngăn kéo tủ. Tôi có thể nhận thấy rằng điều đó khiến Alva đau đớn, mặc dù cô ấy đã cố gắng để không cho nó lộ ra ngoài.

Sau đó, Romanov dừng lại giữa chừng và nhìn sâu vào các anh chị em tôi. Đôi mắt của ông ấy đã phản bội lại ông ấy, tỏ rõ sự không chắc chắn; trong một khoảnh khắc, ông ấy dường như không còn biết trước mặt mình thực sự có những ai. Dừng lại một cách không tự nhiên. Cuối cùng, ông ấy mỉm cười và, với sự tự tin đến kinh ngạc, ông ấy đã hỏi Liz và Marty rằng liệu đây có phải là lần đầu tiên họ đến nơi này không và họ thích điều gì ở đây. Những câu hỏi chung chung mà ông ấy luôn dùng để hỏi bất kỳ người lạ nào. Tôi nhận ra đó chính là một trong những cách ngụy trang của ông ấy. Ngay sau đó, Alva đưa ông ấy lên lầu.

Trong phòng khách, một sự im lặng đến khó xử bao trùm. Marty cau mày nhưng lúc đầu không nói gì cả.

Liz châm một điếu thuốc. “Ông ấy nhận thức được một số điều về bản thân.” Chị ấy cân nhắc ngôn từ. “Chắc hẳn ông ấy đã từng vô cùng đẹp trai.”

“Ông ấy có vẻ hơi…” Marty do dự “… bối rối. Không phải cả buổi tối, nhưng em vẫn thấy le lói chút gì đó. Alva đã đối phó với chuyện này như thế nào vậy?”

“Nó khiến cho cô ấy kiệt sức. Nhưng cô ấy không muốn nói với em; cô ấy thậm chí còn không nói cho em biết chính xác rằng ông ấy bị làm sao. Em cho rằng đó là bệnh Alzheimer, nhưng em không chắc.”

“Và em đang đối phó với chuyện này như thế nào?” Liz nhìn tôi. “Bọn chị bắt đầu lo lắng về những điều em đang làm ở đây. Ý chị là, chuyện của em với Alva thế nào, em có…?”

Tôi lắc đầu.

Liz tròn mắt. “Jules thân yêu của chị ơi, em thực sự là một trong những người lãng mạn nhất mà chị biết đấy. Và chị chắc chắn rằng điều đó không hề dễ dàng với chồng cô ấy đâu,” - chị ấy gõ nhẹ ra một cột tro tàn thuốc lá – “nhưng, khốn kiếp, em đã ở đây bao lâu rồi? Vài tháng sao?”

Có tiếng cọt kẹt vang lên trên cầu thang. Alva đã trở lại; cô ấy cầm một ly rượu lên và gật đầu với chúng tôi. “Thật vui khi bạn có anh chị của mình.” Cô ấy nói với tôi.

“Thật tuyệt khi em trai chị có một người phụ nữ trong đời.” Liz nói.

Tôi ném cho chị ấy một cái nhìn trách móc, và ngay lập tức ra dấu chữ thập để cầu nguyện cho bản thân vì điều đó có nghĩa là tôi đã bỏ lỡ việc nhìn thấy biểu cảm trên mặt của Alva.

Đó là một trong những đêm mùa hè dịu nhẹ đầu tiên; chúng tôi đi dạo và ngồi bên ngoài hiên. Marty nằm trên mặt đất vì đau lưng. Thung lũng trước mắt chúng tôi được bao phủ bởi bóng tối và ở phía bên kia của thung lũng, ai đó đang đốt một đống lửa trại lớn trên núi.

“Vì xấu hổ nên Toni đã không thể đến đây.” Tôi nói và nhìn chị gái mình. “Chị với bạn trai mới của chị đã khiến trái tim anh ấy tan vỡ, hay là điều đó vẫn đang xảy ra?”

“Chị nghĩ hiện giờ bọn chị đang ở giữa hai trạng thái đó.” Liz ra hiệu xin lỗi.

Anh trai tôi quay lại nhìn Alva. “Em biết đấy, bọn anh là những anh chị em cô độc nhất trên thế giới này.” Anh ấy nói khi đang nằm ngửa. “Cả ba người bọn anh đều có chung một người bạn thân duy nhất. Đôi khi anh vẫn gọi đó là chia sẻ bạn thân. Bọn anh gần như đã có thể thành lập được một đại lý mà chỉ thuê riêng Toni cho những người như bọn anh. Cậu ấy cũng có thể kết bạn với em với một khoản phí hàng tháng.”

Alva nói. “Ít nhất anh luôn có một ai đó bên cạnh, còn em thì đã đánh mất đi người bạn thân nhất của mình từ gần mười lăm năm trước.”

Cô ấy không đáp lại cái nhìn của tôi.

Tôi rất vui vì anh chị mình đối xử rất tốt với Alva và có vẻ thích cô ấy. Khi Liz hỏi Alva có anh chị em không, cô ấy đã rơi vào im lặng một lúc; nhưng sau đó, sau một chút do dự, cô ấy đã kể cho họ nghe về Phine, người có thể vẫn còn sống ở đâu đó hoặc đã chết từ lâu rồi. Đối với tôi, chọn nói ra chuyện đó dường như là một sự giải thoát cho cô ấy.

Màu xám dịu của bình minh nhạt dần. Tôi không thể nhớ tôi đã cùng ai đó ngắm bình minh bao nhiêu lần nữa. Một vài lần ở trường, và với Liz cùng Marty ở Montpellier. Có cảm giác như thể bản chất thật sự của con người được bộc lộ dưới ánh sáng yếu ớt của buổi bình minh, như thể không còn giả vờ được nữa. Và thế là bốn người chúng tôi ngồi đó, nói chuyện và ngắm nhìn những tia nắng đầu tiên chiếu xuống đỉnh núi.

***

Sau khi Marty và Liz rời đi, ngôi nhà gỗ đột nhiên trở nên trống rỗng và quá rộng lớn. Nếu ban đầu chúng tôi không biết cách đối phó với tiếng ồn mà anh chị tôi mang đến thì giờ đây chúng tôi lại phải loay hoay giải quyết sự im lặng mà họ để lại. Romanov vẫn có thể trò chuyện một cách sáng suốt, nhưng đôi khi ông không thể nói những điều trừu tượng và kết nối các ý tưởng chung chung. Thay vào đó, ông bị ám ảnh bởi các chi tiết trong vài phút. Ông ấy cũng đặt nhiều thứ không đúng chỗ của nó và tình trạng này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Đôi khi tôi tìm thấy vài cuốn sách trong tủ phòng tắm hoặc một tách trà trong ngăn đựng giầy bên dưới tủ áo khoác của chúng tôi.

Một buổi tối, tôi ngồi với Alva trong phòng khách và chơi Scrabble1 với cô ấy. Căn phòng được thắp sáng bằng một ngọn đèn nhỏ và một ngọn nến nghi ngút khói. Ngoài trời đang mưa lặng lẽ và văng vẳng tiếng lục lạc bò. Alva đang ngồi xếp bằng trên chiếc ghế bành. Cô ấy vừa định nói ra một từ thì chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân của Romanov trên lầu.

1 Trò chơi xếp chữ.

Đột nhiên, cô ấy đập mạnh những chữ cái đang cầm lên bảng.

“MÌNH KHÔNG THỂ CHỊU ĐỰNG CHUYỆN NÀY ĐƯỢC NỮA!” Cô ấy hét lên. “Mình không thể tiếp tục như thế này được. Anh ấy sắp nổi điên rồi, Jules.” Cô ấy đứng dậy. “Anh ấy không còn giống người đàn ông mà mình đã gặp nữa. Đôi khi mình cảm thấy mình đang sống với một người xa lạ.”

Miệng cô ấy giật giật. “Mỗi ngày anh ấy lại đánh mất bản thân nhiều hơn một chút. Mỗi ngày anh ấy lại quên mình nhiều hơn một chút. Sau đó, thỉnh thoảng anh ấy lại có vẻ bình thường trở lại, nhưng mình biết rằng anh ấy đang tan biến dần từ bên trong.”

“Sao bạn không thử nói chuyện này với ông ấy? Giúp ông ấy?”

“Sasha không muốn nói về nó. Và dù sao thì cũng chẳng có ích gì.” Cô ấy để những lời này chìm sâu xuống đáy.

Rồi cô ấy thở dài. “Mình cần uống thứ gì đó.”

Cô ấy lấy một chai Scotch từ phòng bếp nhỏ ra. Chúng tôi uống vài ly mà không thực sự say và ngồi sững sờ trên mặt đảo bếp bên cạnh tủ lạnh.

“Sao bạn lại có mấy vết này?” Tôi chỉ vào những vết sẹo mỏng manh dưới tai của Alva.

“Chuyện đó xảy ra vào những năm đầu tiên mình ở Nga, rất lâu trước khi mình gặp Sasha.” Cô ấy nói nhỏ và không hướng về phía tôi. “Khi đó mình vẫn sống ở Moscow và cuộc sống của mình giống như một cơn ác mộng. Mình là một người hoàn toàn xa lạ ở đó, và mình đã gặp nhầm người. Mình mặc kệ cho mọi thứ diễn ra và mình đã làm những điều mà bạn không nên làm theo.”

“Là điều gì thế?”

“Mình không muốn nói cụ thể.” Cô ấy gạt đi. “Dù sao thì cũng qua lâu rồi. Cuối cùng mình đặt dấu chấm hết cho tất cả những chuyện ấy. Bố mình đã gửi cho mình một số tiền và mình đến St.Petersburg.”

Alva rất hiếm khi kể về những năm tháng cô ấy sống ở Moscow. Đôi lúc, tôi lờ mờ cảm thấy được có thứ gì đó trong cô ấy đã vỡ tan kể từ hồi đó hoặc cô ấy đã để một mảnh tâm hồn mình ở lại trong bóng tối. Tôi ước mình đã ở đó và có thể ngăn chặn điều đó xảy ra.

“Bạn đã làm gì khi một mình ra ngoài dạo bộ vào ban đêm?”

“Không làm gì hết. Mình chỉ đi bộ thôi. Mình thích ở một mình vào thời điểm đó và đương đầu với tất cả những điều mà mình không bao giờ muốn nghĩ đến.” Cô ấy nhìn tôi, sau đó cô ấy nói: “Mình bắt đầu làm chuyện này vì mình chắc chắn rằng vào một đêm nào đó, mình sẽ đi dạo và không bao giờ quay lại nữa. Mình sẽ chỉ đơn giản biến mất mà thôi. Mỗi lần như vậy, mình lại có được cảm giác tự do vô hạn.”

“Bạn muốn tự sát à?”

“Mình không hề nói thế. Hơn nữa, cho đến tận bây giờ, mình đã luôn quay trở lại.” Cô ấy dịu giọng đi một chút. “Đôi khi mình nghĩ mình chỉ đang làm như thế vì thói quen thôi. Có hơi kỳ lạ chút, mình biết.”

Cô ấy uống cạn ly rượu chỉ trong một ngụm. Sau đó, cô ấy nhìn tôi và biểu cảm trên mặt của cô ấy có vẻ hơi lạc lõng. “Jules, mình muốn bạn rời đi. Tốt nhất là ngày mai luôn đi.”

Tôi không thể tin được những điều mà tôi vừa được nghe.

Đến giờ tôi mới ngấm rượu. Tôi cảm thấy tê liệt, mệt mỏi. Không có khả năng phản ứng thích hợp hay bắt lấy ánh mắt của cô ấy.

“Mình không muốn bạn cứ tiếp tục như thế này.” Tôi nghe cô ấy nói. “Mình biết điều gì sẽ xảy đến với Sasha, không thể phủ nhận điều đó nữa và mình không muốn kéo bạn vào vũng lầy này. Sẽ tốt hơn nếu bạn rời khỏi chúng mình ngay bây giờ. Chồng mình sẽ chết ở đây; đây là trách nhiệm của mình.”

Tôi ngồi đó, choáng váng. Hình dung bản thân mình rời khỏi ngôi nhà gỗ với chiếc vali vào buổi sáng. Bỏ lại Alva và chồng cô ấy lại phía sau, và như vẫn thường xảy ra trong cuộc đời tôi, đi vào một sự tự do vô nghĩa.

Chồng mình sẽ chết ở đây.

Bất chợt, trong tất cả những điều cô ấy nói, tôi nghe thấy điệp khúc lặp đi lặp lại liên tục của tuổi trẻ của cô ấy: một thanh âm trầm lặng “Mình không đủ tốt”.

Trong tâm trí tôi, một lần nữa, tôi lại nhìn thấy Alva mười một tuổi, ngượng ngùng đến thăm tôi ở phòng của tôi tại khu nhà nội trú và tò mò ngắm nhìn đồ đạc của tôi. Sau đó là hình ảnh cô gái mười chín tuổi mà tôi không thể có được, người ghét bản thân mình đến mức không còn có chỗ dành ra cho tôi nữa. Cô gái hai mươi lăm tuổi mà tôi chưa từng được gặp, mới yêu và có lẽ đang hạnh phúc. Cô gái ba mươi tuổi dịu dàng, đã lập gia đình đi cùng tôi đến ga tàu ở Munich. Và bây giờ, sau nhiều năm, cô ấy lại ở đây, ngồi bên tôi với những vết thương, nỗi sợ hãi và không thể đưa ra quyết định đúng đắn.

Tủ lạnh kêu ầm ầm; mưa rơi tí tách bên ngoài. Hơi thở của tôi trở nên gấp gáp khi tôi đặt tay lên má Alva và hướng mặt cô ấy về phía tôi. Cô ấy đã nhảy lên, toàn thân căng cứng.

Cô ấy dường như sắp nói một điều gì đó; tôi nghe thấy âm thanh tinh tế khi lưỡi cô ấy tự nhả ra khỏi vòm miệng. Trong khoảnh khắc đó, tôi hôn lên môi cô ấy. Tôi có thể cảm nhận thấy sự ngạc nhiên của cô ấy cũng như sự do dự của cô ấy. Sau đó, cô ấy đáp lại nụ hôn của tôi.

***

Sáng hôm sau, tôi thức dậy trong phòng lúc chỉ mới sáu giờ. Tôi xỏ giày chạy bộ và bước ra ngoài. Những hạt mưa rơi khỏi lá cây, làn sương mù mỏng manh lững lờ trôi qua cảnh vật và làn sương màu trắng sữa ấy cũng đang dày đặc bao trùm lên toàn bộ thung lũng phía xa. Một bức tranh đi ra từ huyền thoại. Tuy nhiên, lúc này, mặt trời đang dần ló rạng. Trong một khoảnh khắc, tôi cảm thấy mình như đang ở độ tuổi hai mươi; sau đó, tôi lên đường.

Lúc đầu, Romanov không nhận thấy bất kỳ điều gì thay đổi đang diễn ra ngay dưới mũi mình. Ông ấy đang quá bận tâm đến bản thân và tâm trí ông ấy đang phân tán. Alva vẫn ngủ trên giường của mình, và chúng tôi tránh bày ra bất kỳ cử chỉ thân mật nào trước mặt ông ấy.

Tuy nhiên, một ngày nọ, ông ấy nói vọng ra từ sau bàn làm việc của mình. “Jules, cậu có vẻ hạnh phúc. Tiếng gõ bàn phím của cậu nhẹ nhàng và vui vẻ suốt tuần. Lúc này cậu đang viết gì à?”

“Hai cuốn tiểu thuyết ngắn vẫn còn đây. Cuốn đầu tiên viết về một người đàn ông đã kết hôn mất kiểm soát những giấc mơ của mình. Anh ấy không mơ những giấc mơ khác nhau mỗi đêm mà luôn chỉ mơ một giấc mơ duy nhất. Về một cuộc sống khác, những con người khác, công việc khác và một người vợ khác, người mà anh ấy cũng yêu vô cùng. Chẳng bao lâu, cả hai hiện thực đều trở nên mạnh mẽ như nhau. Khi người vợ trong giấc mơ của anh ấy chết, chuyện đó đã gây ra hậu quả lớn trong thực tế.”

Tôi đã đặt tiêu đề cho cuốn tiểu thuyết đó là A Different Life (tạm dịch: Một cuộc đời khác); nó được lấy bối cảnh trong Thế chiến thứ nhất. Cuối cùng, nhân vật chính được triệu hồi trong khi trong những giấc mơ, anh ấy đang sống những ngày yên bình ở vùng nông thôn.

Romanov với lấy cây gậy của mình và đi đến bàn của tôi, kính vẫn nằm trên mũi. Ông ấy đọc vài dòng. Khi đọc xong, ông ấy đặt tay lên vai tôi; đối với tôi mà nói, nó giống như một lời khen ngợi hoặc động viên. Tôi cũng đã phác thảo nội dung của cuốn tiểu thuyết thứ hai cho ông ấy nghe. Nó hơi giống với cuốn The Curious Case of Benjamin Button (Mảnh đời kỳ lạ của Benjamin Button) của Fitzgerald, cuốn sách viết về một người đàn ông trẻ lại: cuốn sách của tôi thì lại viết về một người đàn ông có thời gian xoay quanh anh ấy nhanh hơn bình thường. Nếu bạn nói chuyện với anh ấy trong vài phút thì đối với anh ấy, nửa giờ thực sự đã trôi qua. Nếu một người phụ nữ hẹn hò với anh ấy và đối với cô ấy, cuộc hẹn hò kéo dài đúng ba tiếng đồng hồ thì đối với anh ấy, bảy tiếng đã trôi qua, hoặc đôi khi là mười hai tiếng. Người đàn ông ấy đã cô đơn suốt cả cuộc đời. Mọi người tránh mặt anh ngay khi họ phát hiện ra bí mật của anh, và anh vẫn đang tìm kiếm một người sẵn sàng già đi cùng anh bởi vì vài năm và những kỷ niệm với anh đáng giá hơn cả cuộc đời không có anh bên cạnh.

Hôm đó, trong lòng tôi tràn ngập sự lạc quan. Tôi lấy sữa, tắm rửa và quyết định giặt giũ. Khi trời nhá nhem tối, tôi mở cửa hầm, huýt sáo và bị sốc. Romanov đang đứng một mình giữa phòng, lo lắng nói một mình. Khi nhận ra tôi, ông ấy im lặng và nhìn tôi thật sâu.

“Mấy giờ rồi?” Ông ấy hỏi.

“Bảy giờ kém mười lăm.”

Thông tin này dường như khiến ông ấy bối rối nhiều hơn là bình tĩnh.

“Bảy giờ kém mười lăm tối.” Tôi nói thêm.

“Và tôi đang làm gì ở đây?”

Mắt tôi rơi vào tủ súng. “Ông đang bật máy sưởi, trong nhà quá lạnh.”

Romanov có vẻ suy nghĩ về điều này rất lâu. Rồi ông ấy gật đầu. “Đúng thế thật.” Ông ấy nhìn tôi thân thiện và đi đến chỗ máy điều khiển nhiệt độ.

Tôi đã dành thêm vài ngày để làm việc thêm với hai cuốn tiểu thuyết, sau đó tôi đưa chúng cho Alva đọc. Chúng khá dài so với độ dài của một cuốn tiểu thuyết ngắn và vẫn chưa hoàn thành. Nhưng bản thân nội dung câu chuyện không quan trọng; quan trọng là cái nhìn sâu sắc vào nội tâm của tôi. Có những điều tôi không thể nói; tôi chỉ có thể viết chúng ra. Bởi vì khi tôi nói tôi suy nghĩ còn khi tôi viết, tôi cảm nhận.

Chúng tôi nằm trên giường của tôi. Alva cắn một quả táo và lướt qua các dòng chữ. Tôi háo hức nhìn cô ấy. Một lần, khi cô ấy đọc, cô ấy đã cười lớn. Tôi cảm thấy như thể mình đang ở trên một con phố vào ban đêm và tất cả đèn đường đều tắt phụt cùng một lúc. Tôi ngủ quên lúc nào không biết. Lúc giật mình thức giấc lúc nửa đêm, tôi thấy Alva vẫn đang đọc sách bên cạnh tôi; cô ấy có vẻ buồn và nói rằng cô ấy thấy câu chuyện rất cảm động. Tôi thấy cô ấy lấy chai nước uống, rồi sau đó tôi lại nhắm mắt lại.

Vài giờ sau, tôi lại tỉnh dậy một lần nữa. Bên ngoài trời đã sáng, nhưng có thể chỉ mới sáng sớm thôi.

“Cuối cùng!” Alva mặc đồ lót ngồi trên đùi tôi và dùng ngón tay vòng quanh rốn tôi. Mái tóc đỏ của cô được tết thành một bím; cô ấy không đeo kính. Chắc hẳn cái nhìn của tôi hướng về phía cô ấy tràn đầy vẻ thắc mắc bởi vì cô ấy chỉ tay vào hai câu chuyện nằm trong đống bừa bộn trên bàn đầu giường tồi tàn vì dùng quá lâu của tôi. Sau đó, ngay trước khi quăng mình về phía tôi, cô ấy đã nói năm từ ma thuật và tôi vẫn có thể nghe thấy những từ đó văng vẳng trong đầu tôi cho đến tận bây giờ.

“Jules, chuyện này tốt thật đấy.”

***

Chiều hôm đó, tôi đang ngồi trong phòng làm việc. Romanov thậm chí không còn cố gắng viết thêm nữa; thay vào đó, ông ấy chỉ nhìn chằm chằm vào tôi.

“Mọi chuyện ổn chứ?” Tôi hỏi ông ấy.

Ông ấy lơ đãng gật đầu và đứng dậy. Sau đó, đột nhiên, ông ấy ôm chặt lấy ngực mình. “Đau quá!” Ông ấy nói, giọng như vỡ vụn.

Tôi chạy đến chỗ ông ấy, chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Một cú kẹp thật chặt: đột nhiên, trước khi tôi biết được chuyện gì đang xảy ra, đầu tôi đã bị kẹp dưới cánh tay của Romanov. Ông ấy húc đầu tôi vào bàn và đập nó xuống bàn phím của máy Olivetti hai lần. Cuối cùng tôi cũng giải thoát được mình khỏi nanh vuốt của ông ấy, và ông ấy tát vào mặt tôi. Rồi ông ấy ngồi phịch xuống ghế, thở hổn hển.

Tôi đã bị sốc bởi cuộc tấn công đến nỗi tôi cũng ngồi phịch xuống. Đầu tôi đau như búa bổ. Trong miệng tôi có vị tanh nồng của máu.

“Cậu nghĩ rằng tôi không biết ai đó đang làm tình với vợ tôi à?” Tôi nghe ông ấy nói. “Tôi già rồi, nhưng tôi không mù. Cậu nghĩ cậu là ai? Casanova, kẻ quyến rũ bậc thầy ư? Người già ngủ không ngon giấc. Tôi thức dậy lúc năm giờ mỗi sáng và kể từ khi tôi sống ở đây với Alva, tôi luôn đến thăm cô ấy vào giờ đó để ngắm cô ấy ngủ say trên giường. Đêm qua cô ấy không ở trong phòng. Và cô ấy cũng không đi bộ. Cô ấy đã ở bên cậu.”

Tôi dùng lưỡi thăm dò môi, kiểm tra vết thương và không nói gì.

“Tôi đã yêu cầu cậu không được chạm vào cô ấy trước khi tôi chết. Đó là một yêu cầu.”

“Đó là một lời đe dọa.”

Hàm của Romanov kêu lên răng rắc. “Cậu đã ăn cướp từ tay của một người ăn xin sắp chết. Thậm chí cậu còn không thể đợi được cho đến khi ông ấy chết…”

Ông ấy bắt đầu nói chuyện một mình bằng tiếng Nga; những lời nghe thật cay đắng. Tôi có thể tưởng tượng ra những điều mà ông ấy đang nói. Nó giống như một chiếc đồng hồ cát bị quay đầu: cứ mỗi giây lại có thêm nhiều hạt cát từ buồng của ông ấy rơi vào buồng của tôi, và ông ấy không thể làm gì được.

Tôi từ từ đến gần ông ấy. “Alva là người quan trọng nhất trong cuộc đời tôi kể từ khi tôi mười một tuổi. Tôi không thể…” Theo bản năng, tôi quyết định không nói với ông ấy rằng Alva đã cố gắng đuổi tôi đi. “Tôi xin lỗi, Alexander” là tất cả những gì tôi đã nói. “Tôi rất xin lỗi. Nhưng đây không chỉ là chuyện giữa ông và tôi: nó còn là chuyện của Alva nữa. Điều cô ấy muốn.”

Romanov không trả lời; ánh mắt ông ấy lướt qua tôi. Cuối cùng, ông ấy chỉ tay vào cái bàn của tôi. “Tôi muốn đọc cả hai câu chuyện của cậu.”

“Ông chưa bao giờ đọc bất cứ thứ gì tôi viết. Có thể ông sẽ không thích phong cách của tôi; có thể ông sẽ không nghĩ chúng hay.”

“Cậu đang ngủ với người phụ nữ tôi yêu.” Ông ấy hờ hững nói. “Mọi thứ cậu viết ra bây giờ hoặc sẽ tệ kinh khủng hoặc sẽ vô cùng xuất sắc.”

***

Romanov và Alva đã có một cuộc tranh luận kéo dài; tôi nghe thấy giọng nói của Alva ngày càng nặng nề hơn. Nói chung, dường như cô ấy đã không còn có thể chịu đựng được sự suy thoái dần của ông ấy nữa. Cô ấy ngủ không ngon và lê lết trong ngôi nhà với những quầng thâm dưới mắt. Tôi ước rằng tôi có thể làm điều gì đó cho cô ấy, bất cứ thứ gì. Có cảm giác mỗi ngày, cô ấy dần trở nên sợ hãi phải đưa ra một quyết định rõ ràng nhưng đồng thời cũng khao khát lôi nó ra ánh sáng.

Sương mù buông thấp trên ngọn cây, bầu trời xám xịt bay lơ lửng trên những ngọn núi. Trận tuyết đầu mùa tới sớm, vào cuối tháng Mười, có nghĩa là chúng tôi sẽ càng ở nhà nhiều hơn. Tôi vẫn chạy bộ buổi sáng, nhưng không khí lạnh như cắt vào mặt và buốt giá thấu xương.

Romanov đã cho tôi biết rằng ông ấy thích cả hai câu chuyện của tôi, nhưng ông ấy không bao giờ nhắc đến chúng lần nào nữa. Thay vào đó, ông ấy tiếp tục gõ chậm rãi nhưng không ngừng nghỉ trên máy đánh chữ của mình. Đối với tôi, tiếng gõ ngắt quãng đều đều của ông ấy giống như một lời nhắc nhở liên tục về sự hiện diện của ông tại đây.

Một lần, khi đang làm tình trong phòng của tôi, chúng tôi đã nghe thấy những tiếng cảnh cáo rầu rĩ của chiếc máy đánh chữ. Chúng tôi cố gắng phớt lờ chúng, nhưng tiếng lạch cạch vẫn không dừng lại, và cuối cùng Alva đã đẩy tôi ra. Gạt nước mắt, cô ấy lặng lẽ mặc quần áo và đi đến bên ông ấy.

Tôi không biết liệu Romanov có còn giận tôi hay không. Tuy nhiên, vào một buổi sáng nọ, ông ấy bị lạc trên đường xuống đồi và trượt ngã. Khi tôi đỡ ông ấy dậy, ông ấy đã ôm tôi, điều mà trước đây ông ấy chưa bao giờ làm.

Những ngày này, ông ấy luôn mang theo một cuốn sách của Nabokov. Dù ông ấy có đang ở đâu thì cuốn sách ấy vẫn được đặt ở bên cạnh; chỉ có một lần ông ấy để nó trên bàn bếp. Tôi đang chuẩn bị mang nó lên cho ông ấy thì tôi phát hiện ra mảnh giấy ghi chú bị kẹt giữa các trang. Đập vào mắt tôi là cái tên của tôi. Bên cạnh nó, được viết bằng nét chữ khá khó đọc, là một đoạn mô tả ngắn gọn về ngoại hình của tôi và từ bạn bè. Bên dưới đó là dòng chữ Alva, cô gái có mái tóc đỏ, mắt đeo kính và còn trẻ. Và đó là vợ của tôi. cùng với các mô tả khác, về phòng làm việc hoặc phòng ngủ của ông ấy chẳng hạn, ngày sinh của ông ấy và dòng chữ Thụy Sĩ, 2006. Nhưng điều khiến tôi thực sự rùng mình là hai từ ông ấy viết nguệch ngoạc dọc theo mép bên phải:

1. Viết

2. Hầm rượu

Tôi mang cuốn sách – Speak, Memory (tạm dịch: Nói chuyện, Ký ức) – có tờ ghi chú trong đó lên cho ông ấy ở tầng một. Romanov lấy cả hai mà không nói một lời nào. Tôi thấy sợ hãi khi phải nói chuyện với một người đầu óc không tỉnh táo nhưng người đó lại hiểu ngay lập tức. Đó cũng là cuộc trò chuyện sáng suốt cuối cùng tôi từng có với ông ấy.

“Chắc chắn cậu đã nhận thấy là tôi bị ốm.” Ông ấy nói khi đang ngồi trên ghế trước bàn làm việc. “Lúc đầu, vợ tôi nghĩ rằng cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt đã thay đổi cuộc đời tôi, nhưng đó chỉ là kết quả khám tổng thể lần trước. Bệnh Alzheimer hồi đó mới ở giai đoạn đầu. Tôi đã cố gắng giữ bí mật với cô ấy ngay từ đầu, nhưng mà cô ấy đã sớm nhận ra.”

Ông ấy hạ cằm xuống. “Đầu óc tôi không ổn nữa, tôi có thể cảm nhận được. Tôi muốn ra đây, về vùng nông thôn, vì cảm giác thành phố đối với tôi là quá sức. Ban đầu, bạn bè, người quen đến thăm nhưng tôi muốn được yên bình. Trên đây chỉ có vài điều tôi cần nhớ. Bản thân tôi, vợ tôi, cậu, căn phòng này, cuốn sách của tôi. Nhưng tâm trí tôi đang tan rã ngày càng nhanh hơn.”

“Tại sao ông không để chúng tôi giúp anh? Chúng tôi có thể mời y tá tại gia cho ông.”

“Tôi đã nói với Alva về chuyện đó rồi. Tôi không muốn phải liên tục đi gặp bác sĩ để kiểm tra, uống thuốc và luyện tập trí nhớ. Viết là liệu pháp trị liệu của tôi.” Ông ấy quay đi. “Và tôi không muốn Alva phải chăm sóc tôi. Tôi muốn vợ tôi có thể được tự do thoải mái.”

“Vậy thì ông đến phòng khám sẽ tốt hơn chứ?”

“Cậu không hiểu rồi.” Romanov dừng lại sau mỗi câu, cân nhắc lời nói của mình. “Mẹ tôi phát triển chứng mất trí nhớ từ rất sớm; bà ấy chết trong nhà dưỡng lão. Cuối đời, bà ấy là một sinh vật lười biếng và hạnh phúc khi được xem một buổi biểu diễn múa rối. Mẹ tôi là một nhà thơ, một trí thức sắc sảo có đầu óc nhạy bén. Nhưng bà không thể buông tay để phản ứng kịp thời. Tôi vẫn còn vài tuần nữa để kiểm soát cuộc sống của chính mình. Tôi biết bây giờ tôi không còn cách xa thời điểm mà bộ não tôi tan rã và tôi không còn là chủ nhân của chính mình nữa. Khi điều đó xảy ra, tôi sẽ không còn có khả năng đưa mọi thứ đến một kết thúc đúng đắn. Thay vào đó, tôi sẽ kết thúc đời tôi với việc quanh quẩn trồng cây trong nhà.”

Ông ấy mở ngăn kéo ra. “Nhưng có một số việc tôi cần giải quyết trước khi điều đó xảy ra. Cái này…” – ông ấy lấy ra một chiếc phong bì lớn – “... dành cho cậu. Hãy đọc nó sau khi tôi chết. Không được đọc trước đâu đấy.”

Tôi cầm lấy nó, ngập ngừng. “Tại sao ông lại nói với tôi tất cả những điều này? Tại sao ông vẫn tin tưởng tôi?”

“Bởi vì cậu nợ tôi, Jules.” Romanov hít một hơi thật sâu, rồi thở ra. Tay ông ấy vươn về phía tôi. “Gần đây, tôi nhìn thấy thời thơ ấu của mình, rất rõ ràng. Những mùa đông lạnh giá, bữa ăn tối ở Mỹ, những cuộc trò chuyện với bố mẹ mà tôi đã quên từ lâu. Tất cả những khoảnh khắc đó lại hiện lên lần nữa; chúng đang ám ảnh tôi.” Ông xoa bóp sau gáy. “Tôi phải buông bỏ; cậu hiểu điều đó có nghĩa là gì không? Để biết rằng cuộc sống của chính mình sẽ sớm kết thúc ư? Rằng cậu phải từ biệt tâm trí của mình vì nó sẽ rời bỏ cậu, không bao giờ trở lại?”

Ông ấy lắc đầu. “Tôi có thể nhớ rõ mồn một mọi thứ xảy ra lúc tôi bằng tuổi cậu; cách tôi đương đầu và không sợ hãi trước cái chết. Nhưng bây giờ tôi lại đang ở đây, ngồi trong một thư viện bốc cháy mà không thể cứu được thứ gì.”

Miệng ông ấy bắt đầu run lên.

“Cứ để tôi sắp xếp công việc của mình.” Romanov lặng lẽ nói. “Tôi vẫn chưa thể buông bỏ. Nhưng tôi sẽ xoay xở kịp thời.”

***

Trong những tuần tiếp theo, cứ khi nào Alva muốn nói về tương lai của chồng mình, tôi lại cố gắng giảm mức độ trầm trọng của vấn đề đi. Tôi muốn để cho ông ấy có thêm thời gian; tôi giặt giũ hộ ông ấy, làm việc vặt và hỗ trợ hai người họ hết sức có thể. Romanov luôn tự hào về khả năng tự mình làm được khá nhiều việc của ông ấy, nhưng giờ ngay cả việc mặc quần áo cũng làm ông ấy thấy rất khó khăn và thường phải để Alva giúp đỡ.

Thỉnh thoảng, ông ấy sẽ lập ra những kế hoạch không thể thực hiện được trong quá khứ. Một buổi tối, ông ấy nói về việc đến thăm người anh trai đã khuất của mình ở Mỹ. Khi thấy chúng tôi liếc nhau, và nhận ra mình lại mắc lỗi, ông ấy nhăn mặt và thì thầm với chính mình: “Không thể tin được.”

Những cơn thịnh nộ của ông ấy mới xảy ra gần đây nhưng cũng đáng báo động.

“Tôi không cần em!” Một lần, ông ấy hét lên với Alva trước mặt tôi, và trước khi tôi có thể can thiệp vào, ông ấy lắc cô ấy một cách dữ dội. “Tôi có thể tự mình làm nó!”

Alva đã không tự bảo vệ được chính bản thân mình. Tôi bước vào giữa họ và nắm lấy tay ông ấy. Romanov kéo tay tôi và hét lên gì đó bằng tiếng Nga mà tôi nghe không hiểu. Chúng tôi đã mất rất lâu mới khiến ông ấy bình tĩnh lại được, nhưng một lúc sau, ông ấy dường như không còn nhớ gì về sự việc vừa xảy ra và lại dịu dàng nắm lấy tay Alva.

Sau đó, khi tất cả chúng tôi đang ăn trưa cùng nhau, cô ấy đã nói rằng cô ấy không thể tiếp tục như thế này được nữa. Trong cuộc trò chuyện sau đó, cô ấy đã khéo léo đưa ra một vài vấn đề của ông ấy để tôi không thể biết quá nhiều chi tiết về sự mục ruỗng của chồng cô. “Ai đó sẽ đến và chăm sóc anh.” Cô ấy nói.

Romanov không trả lời. Ông ấy hiện tại hầu như không dám nói bất kỳ điều gì bởi vì ông ấy sợ làm hỏng việc và thậm chí đã ngừng cả việc đọc báo vào buổi sáng. Chỉ khi ăn, ông ấy mới hoàn toàn là chính mình. Tôi nhìn ông ấy cắt miếng thịt, hít hà mùi thơm của nó, đưa vào miệng và nhắm mắt thưởng thức khi nhai.

“Họ có thể giúp cuộc sống của anh dễ dàng hơn.” Alva lại bắt đầu. “Và giúp cả chúng em nữa.”

Romanov nhìn chằm chằm vào đĩa của mình. “Không có y tá gì cả.” Ông ấy nói. “Anh không muốn bất cứ ai đến đây.”

Ông ấy nắm lấy bàn tay cô ấy và hôn lên nó, sau đó đứng dậy và lê lết thân xác già cỗi về phòng làm việc. Trong phòng ăn, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng ông ấy trên lầu đang gõ liên hồi, chậm nhưng thách thức, lên chiếc máy đánh chữ của mình. Đây là lúc sự sợ hãi bung nở. Tôi lướt qua giỏ giấy vụn; dường như ông ấy đã không thể viết được một câu chính xác nào nữa, chúng chỉ là một danh sách dài những cái tên hoặc những ghi chú khó hiểu mà thôi:

Montagsregen…

Buổi tối có một người đi chơi. Đi nếu anh ta ở lại.

Cuối cùng cũng không quan trọng

Người ta muốn gì

Nhưng câu hỏi vẫn còn đó

Với niềm kiêu hãnh bướng bỉnh đã khiến ông ấy cố chấp ngồi bên máy đánh chữ, ông ấy tiếp tục từ chối để Alva chăm sóc cho mình. Mỗi ngày trôi qua đều toàn là những trận cãi vã và những lời buộc tội. Sau khi ông ấy bị lạc bên ngoài một lần nữa và bị hạ thân nhiệt, Alva đã tuyên bố tốt nhất là sau Giáng Sinh, ông ấy sẽ được giao cho Christian Foundation, một viện dưỡng lão tư nhân ở Zurich, chăm sóc. Cô ấy đã giải thích tình hình với Giám đốc ở đó và ông ấy ngay lập tức sắp xếp cho cô một chỗ.

Romanov không biểu lộ cảm xúc gì sau thông báo này, nhưng những ngày sau đó, tôi thường thấy ông ấy nhìn chằm chằm vào khoảng không, nghiền ngẫm.

Ngày mười bảy tháng Mười hai, ngày sinh nhật bác Helene của tôi đến. “Đúng một tuần lễ trước Giáng Sinh.” Bác ấy luôn nói như vậy, bất cứ khi nào bọn trẻ chúng tôi quên ngày đó. “Nó rất dễ nhớ.”

Tôi có một cảm giác bất an kỳ lạ suốt cả buổi sáng. Hôm nay có gì đó rất khác, nhưng khác gì chứ? Alva đang ở trong thị trấn. Tôi gọi cho anh chị tôi. Hai tháng trước, tôi đã mời họ đến nghỉ lễ Giáng Sinh với chúng tôi; nhưng bây giờ tôi buộc phải hủy bỏ. Liz nói chị ấy và Toni sẽ ăn mừng ở Munich với anh trai của tôi. Tôi trả lời rằng tôi sẽ đến ăn mừng lễ với họ trong một ngày nếu có thể thu xếp được.

“Rời đó đi.” Chị tôi nói trước khi cúp máy.

Tôi đi về phía cửa sổ. Khu vườn và đồng cỏ đã biến mất; trước mắt tôi giờ là thung lũng phủ đầy tuyết trắng. Căn nhà gỗ hoàn toàn yên tĩnh. Và rồi tôi nhận ra hôm nay thiếu vắng điều gì. Đó là tiếng máy đánh chữ của của Romanov trên lầu.

***

Tôi chạy vào phòng làm việc - trống rỗng. Khi tôi đẩy cánh cửa hầm vài giây sau đó, tôi thấy Romanov đang đứng trước mặt tôi với một túi giặt trên tay. Gò má ông ấy xám xịt và nhợt nhạt, cằm lởm chởm những sợi râu xám. Dường như ông ấy phải mất một lúc mới nhận ra tôi. Để tôi cảm thấy nhẹ nhõm, ông ấy đã gọi tôi bằng tên của tôi.

“Jules, cậu phải giúp tôi.” Ông ấy thân thiện nói, đột nhiên dùng cách xưng hô thân mật. Ông ấy lấy trong túi ra một tờ giấy gấp. Trên đó chỉ viết một từ: Hầm rượu.

“Tôi muốn làm gì ở đây?”

Tôi nghĩ đến Alva. Cô ấy đang đi mua sắm trong thị trấn, sau đó cô ấy sẽ có cuộc hẹn với Giám đốc của Christian Foundation để thảo luận về các bước tiếp theo. Trong khi đó tôi lại đang đứng đây với chồng cô ấy, người muốn biết liệu ông ấy đang định giặt giũ hay tự sát. Tôi nhớ ra mảnh giấy của ông ấy, bên cạnh đoạn mô tả ngoại hình của tôi, ông ấy đã viết từ Bạn bè. Thái dương của tôi nhói lên khi tôi nhớ đến thứ vũ khí yêu thích của bố ông ấy và chạm tay vào thùng kim loại nặng.

Tôi đặt khẩu súng vào tay Romanov.

Nhiều năm sau, cảnh tượng ấy vẫn hiển hiện trước mắt tôi với sự rõ ràng tột độ; cho đến giờ tôi thỉnh thoảng vẫn còn mơ thấy điều đó.

“Browning.” Ông ấy nói ngay lập tức.

“Ông có nhớ bố của ông không?”

“Tất nhiên rồi.”

“Ông có nhớ ông ấy đã chết như thế nào không?”

“Ông ấy tự bắn mình. Cậu tin hay không thì tùy, đây chính là khẩu súng ấy. Tôi đã từng dùng nó để đi săn rất nhiều lần. Bố tôi cũng là một thợ săn cừ khôi.”

Romanov nhìn chằm chằm vào khẩu súng, chìm trong suy nghĩ. Sau đó, biểu cảm trên mặt của ông ấy thay đổi. Tôi thấy sự sợ hãi và hoảng loạn trỗi dậy trong ông. Miệng ông ấy co lại và tay bắt đầu run.

“Ôi Chúa ơi, tôi biết tại sao tôi lại ở đây rồi.” Ông ấy thì thầm.

Việc nhận ra điều đó khiến ông ấy bị sốc. Ông ấy mở to mắt nhìn tôi, và tôi biết rằng đây có lẽ là khoảnh khắc cuối cùng mà ông ấy vẫn kiểm soát được hành động của mình. Sau đó, tất cả những gì trước mắt ông ấy đều nhuốm đầy sự điên cuồng đang lan ra rất rộng.

“Tôi có đang làm đúng không?” Ông ấy hỏi, khẩu súng vẫn còn trên tay. “Nói cho tôi biết, Jules? Đây có phải là điều đúng đắn?”

“Vợ ông đang ở trong thị trấn.” Miệng tôi khô khốc. “Cô ấy đang gặp Giám đốc của một viện dưỡng lão. Cô ấy…”

Romanov nhìn tôi đầy thắc mắc.

“Ông không muốn đi đến phòng khám.” Tôi nói. “Không muốn giống mẹ ông. Ông hiểu chứ?”

Tôi có thể thấy ông ấy đang tuyệt vọng tìm kiếm những ký ức.

“Không, tôi không muốn đến đó.” Cuối cùng, ông ấy nói.

Tôi bước đến gần ông ấy. “Ông có thể buông tay được không? Alexander, ông có thể buông tay được không?”

Romanov dường như không nghe thấy tôi nói gì. “Cuối cùng thì mẹ tôi cũng sai.” Ông ấy nói, giọng gần như trẻ con. “Bà ấy giống như một con thú. Bà ấy không còn biết gì nữa, không biết con trai của bà ấy là ai cũng như bà ấy từng là ai.” Ông ấy đi đến chỗ cái tủ và lấy ra một hộp đạn. Sau đó, ông ấy lên đạn cho khẩu súng. Một viên đạn rơi xuống sàn; ông ấy khó nhọc nhặt nó lên.

“Tôi có nên kể cho vợ ông bất kỳ điều gì không? Tôi sẽ nói với cô ấy rằng ông yêu cô ấy.”

Romanov không trả lời. Ông ấy vuốt ve khẩu súng bằng đôi tay run rẩy. Tôi có thể thấy ông ấy đang rất sợ hãi.

“Khi còn là một cậu bé, tôi luôn quan sát những con chim di cư.” Ông ấy nói. “Chúng đang bay đến đâu, tôi đã từng nghĩ như vậy. Chúng đang bay đến đâu trên trái đất này?”

Một giọng nói vang lên trong đầu tôi ra lệnh cho tôi cướp khẩu súng từ tay ông ấy và gọi cấp cứu. Nhưng tôi chỉ ôm lấy Romanov và rời khỏi căn hầm mà không nói một lời.

Tôi vội vàng lên phòng, lấy áo khoác và chạy xuống con dốc hướng về phía thung lũng. Tôi trượt chân ngã nhào trên tuyết. Tôi lồm cồm bò dậy và chạy tiếp. Suốt quãng thời gian đó, tôi chỉ chờ đợi một phát súng nhưng nó mãi không đến. Tôi tưởng tượng cảnh Romanov đang đứng trong hầm với khẩu súng trên tay, một mình với quyết định: mất trí hay mất mạng. Kéo dài thêm vài phút cuối cùng, nói lời chào tạm biệt với mọi thứ vài lần nữa, rồi dùng một giây can đảm, mạnh mẽ và buông tay.

Tôi vừa lên đến đường lớn thì nghe thấy tiếng súng nổ. Một vài con chim bị kích động bay lên trên những tán cây, rồi sự im lặng lại nhanh chóng quay lại bao trùm thung lũng.