K
hoảng hai năm sau kỳ nghỉ ở Pháp cùng với anh chị mình, tôi từ bỏ nhiếp ảnh. Tôi đã bị một người phụ trách là bạn của mình từ chối tác phẩm, và trong cơn tức giận, tôi đã bỏ tất cả máy ảnh vào trong một chiếc hộp rồi ném ra ngoài đường. Một tiếng sau, tôi quay lại để mang chiếc hộp về nhưng nó đã biến mất. Mọi thứ thực sự xuống dốc sau đó. Tôi bắt đầu ngủ khi chiều xuống, hít ma túy rất nhiều, viết một vài truyện ngắn nhưng không cho ai xem và cãi vã về mọi thứ. Sau đó, bạn gái tôi cũng đã chia tay tôi. Tôi quá khó hiểu, quá thiếu chân thực và cô ấy không thể chịu đựng được dáng vẻ đó của tôi nữa: như thể tôi đang lạc lối trong thế giới nhỏ bé không thể tiếp cận của riêng mình. Chuyện đó hầu như không ảnh hưởng đến tôi. Cũng như các mối quan hệ của tôi trước đây, tôi chưa từng yêu và trong sâu thẳm tôi cảm thấy rằng đây không phải là cuộc sống thực của tôi. Tôi vẫn thường xuyên hoán đổi nó với cuộc sống mà bố mẹ tôi vẫn còn ở đó. Ý nghĩ này cứ trở lại với tôi, như một lời nguyền dệt vào tâm hồn tôi.
Khi Liz nói với tôi về công việc tại Yellow Records, tôi đã thông báo với chủ căn hộ của tôi ở Hamburg rồi chuyển đến Berlin, sống gần chị ấy. Hãng âm nhạc nằm ở mặt phía sau của Kottbusser Damm, chuyên đào tạo ca sĩ kiêm nhạc sĩ và nhạc rock độc lập. Thật bất ngờ là tôi đã chuyển sang làm công việc cố vấn pháp lý và sau đó là tuyển trạch viên; nhưng tôi vẫn có thể dễ dàng từ bỏ để ra nước ngoài sống hoặc quay lại trường đại học. Tôi không thể diễn đạt nó một cách rõ ràng vào lúc đó, nhưng trong thâm tâm, tôi cảm thấy mình đã lạc lối. Vấn đề là tôi không biết là khi nào và ở đâu thôi. Tôi thậm chí còn không biết mình đã bị lạc vào con đường nào nữa.
***
Ngay sau sinh nhật lần thứ ba mươi của mình, vào tháng Một năm 2003, khi tôi đang lái chiếc Vespa của mình trong thành phố thì một chiếc Fiat màu đỏ dừng lại bên cạnh. Tại sao tôi không thể rời mắt khỏi nó? Ồ vâng: bởi vì đó chính là Alva đấy. Cô ấy cũng có một chiếc ô tô tương tự. Đột nhiên tôi thấy mình đứng nghĩ ngợi về kết thúc của chúng tôi. Tôi đã đề nghị cô ấy đi đến Munich cùng với tôi. Cô ấy đã đáp lại lời đề nghị đó bằng cách ngủ với gã đàn ông đó và buộc tôi phải chứng kiến. Đó là điều đã xảy ra.
Chà - không hoàn toàn đúng như vậy.
Vào cuối tuần cuối cùng của chúng tôi ở trường, Alva đã bất ngờ đến gặp tôi. Cô ấy cười rạng rỡ với tôi như thể không có chuyện gì xảy ra, và nói với tôi rằng cô ấy có thể sẽ đi New Zealand một năm để hoạt động tình nguyện. Chúng tôi đã nói về việc trong tương lai, chúng tôi sẽ ít có cơ hội gặp nhau và về cảm giác kỳ lạ khi ai đó bạn nhìn thấy mỗi ngày trong nhiều năm bỗng chốc không thể gặp lại được nữa. Tôi vẫn còn đau đớn, nhưng có gì đó tổn thương trong mắt cô ấy đã khiến tôi lay động. Sau đó, cô ấy đặt tay lên tay tôi và hỏi liệu chúng tôi có thể làm gì đó cùng nhau vào cuối tuần không. Một số điều đã trở nên rõ ràng với cô ấy; cô ấy thực sự muốn nói chuyện với tôi về chúng.
Tôi đã rất ngạc nhiên khi đó là lần đầu tiên tôi không thể trả lời. Tôi đã hứa chắc chắn sẽ gọi cho cô ấy, và Alva nói rằng cô ấy thực sự mong chờ điều đó.
Nhưng tôi đã không gọi cho cô ấy.
Suốt cuối tuần, tôi loanh quanh ở chỗ chiếc điện thoại ở hành lang của khu nhà nội trú. Nhưng tôi không thể gọi cho cô ấy. Alva đã cố tình làm tổn thương tôi, và dù cô ấy có biện hộ thế nào thì rõ ràng tôi không có ý nghĩa nhiều với cô ấy, bởi vì có vẻ như cô ấy sẽ sớm rời xa tôi mãi mãi. Vậy làm sao tôi có thể tha thứ cho cô ấy đây? Nhưng tôi cũng muốn gặp cô ấy đến tuyệt vọng. Tôi hy vọng rằng có thể cô ấy sẽ gọi cho tôi, nhưng cô ấy cũng đã không làm thế.
Khi tôi đến trường vào thứ Hai, cô ấy không nói chuyện với tôi nữa. Cô ấy nhìn sang chỗ khác, gần như là vậy. Tôi đến gặp cô ấy trong giờ giải lao.
“Mình xin lỗi.” Tôi nói, một tay chống vào tường, cố tỏ ra bình thường. “Mình định gọi cho bạn nhưng có nhiều việc xảy ra vào cuối tuần quá!”
Tôi thậm chí còn kể với cô ấy về bữa tiệc mà tôi đã đến; rằng tôi đã gặp cô gái mà Alva biết là đang quan tâm đến tôi ở đó. Thật hài lòng xiết bao khi có thể tạo ra một sự trả thù nho nhỏ cho những điều mà Alva đã làm với tôi. Tôi trông chờ cô ấy sẽ gật đầu tiếc nuối hoặc ít nhất sẽ ngạc nhiên vì biểu hiện điềm tĩnh của tôi. Nhưng cô ấy chỉ nhìn tôi dò hỏi.
“Ồ, đúng rồi.” Cô ấy nói. “Ừ, mình quên mất tiêu đấy. À thôi, đừng bận tâm làm gì.”
Đó là lần cuối cùng mà tôi nói chuyện với Alva.
***
Vài ngày sau khi nhìn thấy chiếc Fiat màu đỏ, tôi đón Liz đi làm. Đã gần năm năm trôi qua kể từ mùa hè chúng tôi dành cho nhau ở Berdilac. Chị ấy đã trở lại trường học vào buổi tối để ôn thi lấy bằng tốt nghiệp và hoàn thành chứng chỉ sư phạm: việc học để trở thành giáo viên âm nhạc, nghệ thuật và tiếng Đức của chị ấy đang diễn ra tốt đẹp. Tôi nhìn thấy chị ấy bước ra khỏi tòa nhà với một vài giáo viên trẻ hơn. Nhìn từ xa, Liz thậm chí còn cao hơn rất nhiều, dáng người thanh mảnh đáng ngưỡng mộ. Chị ấy đeo túi ở một bên vai và đang cười. Rõ ràng là đầu sỏ: những người khác đang trố mắt nhìn chị ấy một cách ngưỡng mộ. Bất cứ ai không biết chị ấy đã ngoài ba mươi tuổi sẽ cho rằng chị ấy chỉ ở tầm tuổi khoảng hai mươi lăm; khuôn mặt chị ấy chỉ hơi đầy đặn hơn chút.
Chúng tôi nấu ăn tại căn hộ của Liz, nơi có đầy những bức tranh, đồ đan lát và rất nhiều đồ vặt vãnh vớ vẩn (“chúng tôi nấu ăn” có nghĩa là chị ấy nấu còn tôi chỉ đứng nhìn) và tất nhiên chúng tôi đã nói về việc chuyển hướng của anh trai tôi. Marty gần đây đã bán công ty của mình với một khoản phí cắt cổ và hiện tại đang giảng dạy tại Đại học Kỹ thuật Munich. Anh ấy và Elena đã mua một ngôi nhà gần Englischer Garten.
“Chỉ là suy nghĩ thôi mà!” Tôi ngồi trong bếp của Liz, nghiêng ghế. “Anh ấy đang sống ở nơi cách nhà cũ của chúng ta chỉ vài dãy nhà.”
“Chị biết chúng ta sẽ quay lại đó vào một ngày nào đó.” Chị ấy đang cắt rau húng quế. “Nhưng chị nghĩ sẽ mất nhiều thời gian hơn.”
“Em sẽ không bao giờ quay trở lại Munich. Tại sao em phải làm như vậy chứ?”
“Vì hồi đó không ai trong chúng ta lựa chọn việc ra đi.”
Liz đốt vài que nhang. Dàn âm thanh nổi của chị ấy đang phát một bài dân ca Mexico và chị ấy ngâm nga theo tiếng nhạc. Tôi nghĩ đến việc chị ấy dạy nhạc, chơi đàn ghita cho học sinh của mình nghe, khen ngợi những đứa trẻ bằng cách vẽ những hình vẽ nhỏ hoặc động vật vào sách bài tập của chúng và muốn đóng một vở kịch với chúng vào mùa hè. Chị gái của chúng tôi có thể đã lạc lối trong rất nhiều năm nhưng đối với tôi, dường như chị ấy cuối cùng cũng sắp tiến gần tới cuộc sống mà trong đó, bố mẹ chúng tôi không qua đời. Chị ấy đã quay trở lại, và anh trai tôi dường như cũng đã tìm lại được vị trí của mình. Mặt khác, tôi đã chú ý đến một nhóm người ở bàn bên cạnh trong quán cà phê vài ngày trước đó. Một người đàn ông trạc tuổi tôi là tâm điểm của nhóm người đó. Anh ta làm cho bạn bè của mình cười và làm chủ cuộc trò chuyện với sự lãnh đạm đến khó chịu. Tôi cáu kỉnh ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhưng có thứ gì đó trong hành động của anh ta mắc kẹt trong tâm trí tôi; tôi chợt nhận ra rằng, nếu mọi chuyện khác đi một chút thì người đàn ông đó có thể là tôi.
Tiếng la hét vang lên từ bên ngoài. Một đám trẻ đang chạy trên sân trong lát bê tông.
“Nó sống thì sẽ mấy tuổi nhỉ?” Tôi hỏi, vẫn đang nửa tỉnh nửa mơ trong tâm trí.
Câu hỏi quá đột ngột và không phù hợp. Đôi mắt của chị tôi mờ đi. “Năm.” Chị ấy nói.
“Chị còn nghĩ về nó nhiều không?”
“Không nhiều như trước. Nhưng đôi lúc chị sợ rằng đó là cơ hội cuối cùng của chị và chị sẽ không thể có con nữa. Lần đầu tiên đến trường, chị còn quá nhỏ. Nhưng với Robert, chị đúng tuổi. Ai biết được liệu chị có thể được làm mẹ lần nữa hay không.”
Chị ấy vẫn rời bỏ những người bạn trai của mình để họ không thể rời bỏ chị ấy; mối quan hệ gần đây nhất của chị với một nam diễn viên người Hà Lan cũng đã thất bại. Liz đã từng nói anh ta là “Một người đàn ông ngu ngốc đầy mê hoặc”.
Marty cũng chưa có con, nhưng vài năm gần đây, anh ấy đã nuôi một chú chó; với tính cách thiếu sáng tạo, anh ấy đặt tên cho nó là Chó. Gần đây anh ấy còn tuyên bố rằng mọi thứ đều sẽ bị hủy diệt, vậy tại sao lại phải có con?
Liz rất kích động vì chuyện này. “Cái chủ nghĩa hư vô của Marty thật vớ vẩn!” Chị ấy nói. “Nhưng em biết điều đó không đúng mà. Tất cả những người theo chủ nghĩa hư vô và hoài nghi thực sự chỉ là những kẻ hèn nhát. Họ giả đò như thể mọi thứ đều vô nghĩa bởi vì điều đó có nghĩa là cuối cùng chẳng có gì để mất cả. Thái độ bên ngoài của họ có vẻ thượng đẳng và không thể công kích được, nhưng thực tế bên trong lại chẳng có chút giá trị nào.”
Chị ấy châm thuốc, lắc đầu. “Sự thay thế cho khái niệm sống và chết là khoảng trống” – khói quấn quýt quanh đôi môi của chị ấy – “có phải sẽ thực sự tốt hơn nếu thế giới này hoàn toàn không tồn tại không? Thay vào đó, chúng ta sống, làm nghệ thuật, yêu, quan sát, đau khổ, cười và hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều tồn tại theo một triệu cách khác nhau để không có khoảng trống, và cái giá mà chúng ta phải trả cho điều đó là cái chết.”
Tôi lại chợt nghĩ đến Alva và chiếc Fiat màu đỏ. Đêm trước, tôi mơ thấy mình đang đi bộ qua một vùng chiến sự. Máy bay trực thăng rơi khỏi bầu trời, bom cũng rơi, mọi người ngã xuống xung quanh tôi. Thành phố sắp bị hủy diệt nhưng tôi vẫn tiếp tục chạy vào giữa cuộc giao tranh, bởi vì tôi nghe nói rằng Alva bị giam trong một ngôi nhà ở trung tâm thành phố. Tôi lang thang trong thành phố cho đến khi kiệt sức, nhiều lần tôi suýt chết, nhưng tôi không bao giờ đến đích. Sau đó tôi tỉnh dậy.
Sau đêm đó, tất cả đã trở lại. Những giấc mơ luôn có ý nghĩa riêng về mặt thời gian, hay đúng hơn là không có thời gian, và vì vậy, với tôi, dường như vừa rồi tôi lại đang chạy vòng quanh sân thể thao trong khi Alva nằm đọc sách trên cỏ. Hồi đó, thỉnh thoảng tôi thường nằm xuống bên cạnh cô ấy và cố gắng làm lật những trang sách của cô ấy bằng cách thổi vào chúng. Hành động đó luôn nhận được một nụ cười của cô ấy; nhưng vào một buổi chiều nọ, Alva đã cáu kỉnh phản ứng lại. Cô ấy đang nắm chặt cuốn sách của mình bằng cả hai tay; một nhân vật được yêu thích rõ ràng đang chết giữa các ngón tay của cô ấy. Chỉ sau đó tôi mới nhận ra là cô ấy đang khóc. Tôi không có ý định làm phiền cô ấy, nhưng tôi không thể thay đổi sự thật rằng tôi đang chia sẻ khoảnh khắc thân mật này với cô ấy. Tôi liếc nhìn khuôn mặt ửng đỏ của cô ấy và nhận ra Alva yêu văn chương đến nhường nào, hơn tất cả những người khác mà tôi biết. Việc cô ấy ngồi bên cạnh tôi và bị một câu chuyện làm cho cảm động cũng khiến tôi cảm động. Tôi đã muốn được ôm cô ấy trong vòng tay và bảo vệ cô ấy, trên hết là khỏi bản thân cô ấy, và sau đó là khỏi tất cả những điều cô ấy chưa bao giờ nói với tôi; nhưng mọi thứ đã diễn ra hoàn toàn khác, và tới bây giờ đã mười một năm trôi qua rồi.
Tối hôm đó, tôi tìm thấy địa chỉ e-mail của Alva và viết thư cho cô ấy. Tôi không mong nhận được hồi âm; tôi chỉ đang làm theo bản năng của mình. Đầu tiên, nó là một bức thư dài vài trang, nhưng cuối cùng chỉ còn lại hai dòng:
Mình đã ba mươi tuổi rồi và vẫn chưa có con.
Còn bạn thì sao?
***
Cô ấy đã không trả lời lại. Trong vài ngày, thậm chí vài tuần, tôi vẫn âm thầm chờ đợi hồi âm; và rồi tôi đã phải bỏ cuộc. Tôi đã gọi về quá khứ, nhưng không hề có tiếng vọng nào đáp lại.
Vào mùa xuân, tôi đã dành một chút thời gian để nghỉ ngơi và đến thăm Marty, người đã lái xe xuống Berdilac với Elena trong vài ngày. Tôi đậu chiếc xe thuê bên ngoài ngôi nhà ở cuối đường Rue Le Goff. Chú chó Husky lập tức lao về phía tôi. Marty và Elena đã nhận nuôi nó từ hồi nó chỉ là một con chó con; bây giờ nó đã hoàn toàn trưởng thành và mạnh mẽ, một con vật oai vệ với bộ lông đen trắng và đôi mắt xanh nhạt thông minh.
Chị gái của Elena cũng đến thăm và mang theo ba đứa con của chị ấy. Khi tôi chào Elena, tôi có ấn tượng rằng chị ấy buồn một cách kỳ lạ. Tuy nhiên, ở anh trai tôi lại có thứ gì đó trẻ trung vĩnh cửu. Tôi đã trêu chọc anh ấy, nói rằng anh ấy ngày càng trông giống bố chúng tôi và tôi sẽ sớm phải tặng cho anh ấy một cái tẩu thuốc và một chiếc áo khoác da màu nâu nhạt.
Bảy người chúng tôi đã đi chơi. Những đứa trẻ chơi với chú chó; Marty và tôi lùi lại phía sau một chút. Tôi cảm thấy tâm trí của anh ấy đang ở nơi khác. Cuối cùng, anh ấy ra hiệu về phía Elena, người vừa nâng cháu trai lên vai. Khi ở cùng với những người thân yêu nhỏ bé của mình, chị ấy đã vui vẻ trở lại.
“Cô ấy yêu trẻ con.” Marty nói.
“Em biết.”
“Và cô ấy sẽ không bao giờ có thể có chúng.”
Tôi dừng lại. “Anh biết được điều ấy bao lâu rồi?”
“Gần đây, bọn anh đã nghĩ là có lẽ bọn anh rơi vào trường hợp đó. Bọn anh đã không sử dụng biện pháp tránh thai trong hai hoặc ba năm; bọn anh đã tích cực cố gắng trong nhiều tháng. Sau đó, khi mãi vẫn không có gì xảy ra, Elena đã tự đi kiểm tra…”
Marty nhìn vào mắt tôi. “Em biết đấy, anh thậm chí còn không chắc rằng mình nhất thiết cần có con hay không. Anh thích ý tưởng ngồi chế tạo một chiếc ô tô điều khiển từ xa với con mình, nhưng đó không phải là điều bắt buộc. Nhưng cô ấy yêu trẻ con; cô ấy luôn muốn có con của riêng mình. Ngôi nhà của bọn anh có rất nhiều phòng… Cô ấy đã khóc rất nhiều trong vài tuần qua.”
Chúng tôi đang tản bộ trên con đường dẫn đến khu rừng quen thuộc.
“Anh sẽ kết hôn với cô ấy.” Marty nói, với sự bình tĩnh khắc kỷ dường như đã đóng dấu độc quyền lên con người anh. “Thực ra bọn anh chưa bao giờ muốn, nhưng giờ anh nghĩ đó là điều đúng đắn nên làm. Em nghĩ sao về điều đó?”
“Em nghĩ điều đó nghe hay đấy.”
Marty nhìn tôi, xấu hổ. “Và anh muốn em trở thành phù rể của anh.”
“Phù rể á? Chẳng phải mọi người vẫn hay đề nghị người mình thích làm phù rể sao?”
“Anh nghĩ anh sẽ tạo ra ngoại lệ vì em.”
Không khí trong rừng toả ngát hương thơm và trong lành; tôi có thể cảm nhận được màn đêm đang đến gần. Chúng tôi đến chỗ con sông đá với thân cây cổ thụ nằm chắn ngang.
“Không thể tin được rằng em lại dám đi ngang qua đó khi còn nhỏ.” Tôi dùng chân gõ vào thân cây gỗ. “Nó cao hơn mặt sông tận hai mét; nếu anh ngã, chắc chắn anh sẽ bị gãy một bộ phận nào đó.”
“Khi còn nhỏ, em chẳng sợ cái gì cả.”
Tôi trèo lên thân cây. Cứ như thể tôi đang bước vào thế giới thần tiên, cánh cửa dẫn đến quá khứ. Chỉ sau hai bước, tôi cảm thấy chóng mặt. Nước chảy xiết bên dưới chân tôi; đá nhô lên khỏi dòng sông, mặc dù chúng không sắc như tôi nhớ. Thân cây chao đảo; với mỗi bước đi, cảm giác như thể tôi sắp trượt ngã. Tôi bắt đầu đổ mồ hôi và nghe thấy giọng cảnh báo của bố mình bên tai, nói với tôi rằng điều này quá nguy hiểm. Tất cả những nỗi sợ hãi của ông ấy, giờ đây đang chiếm lấy tâm trí tôi như một gã thuê nhà không ai mong muốn.
“Quay lại đi.” Marty cũng đang nói. “Trông có vẻ không ổn đâu!”
“Em đã chạy qua rất nhanh khi em còn nhỏ, đó là lý do duy nhất cho thấy việc này có thể thành công.”
Đến giờ tôi đã đi được một phần tư quãng đường, nhưng sự cứu rỗi của bờ bên kia dường như vẫn còn vô cùng xa vời. Quay lại đi, tôi nghĩ. Trở thành con người quá khứ của bạn đi. Sau đó tôi trượt ngã. Chỉ có phản xạ và may mắn mới giữ tôi đứng vững được. Mạch đập thình thịch trong cổ họng. Chuyện này thật vô nghĩa. Tôi cẩn thận quay lại chỗ Marty. Giống như một võ sĩ quyền Anh loạng choạng lùi về góc sân của mình, bị đánh bại bởi tuổi trẻ của chính bản thân.
***
Sau khi họ bán công ty, Toni đã đến sống ở Los Angeles trong hai năm để theo học tại Trường Ảo thuật Chavez - trường tốt nhất đào tạo ngành nghề này - và dành thời gian rảnh rỗi của mình để đi xe máy khắp Hoa Kỳ hoặc đến tận Tierra del Fuego. Anh ấy đã bất ngờ chuyển đến Berlin, và cho đến khi anh ấy tìm thấy một căn hộ cho riêng mình, anh ấy sẽ ngủ trên ghế xô-pha trong căn hộ của tôi.
Một buổi tối, tôi đang ngồi với anh ấy trong quán bar thì tình cờ chị gái tôi đi vào. Chị ấy nhìn không trái cũng không phải và không để ý đến chúng tôi, mà đến ngồi với một nhóm phụ nữ ở một chiếc bàn trong góc, nơi chị ấy châm thuốc và ngay lập tức trở thành tâm điểm của cuộc trò chuyện. Có điều gì đó quyến rũ ở Liz khi ngồi đó với ly rượu trên tay, và chị ấy nói như ai đó sẽ uống nếu họ đang chết khát: tham lam từng từ một.
Toni muốn đi tới chỗ của chị ấy, nhưng tôi đã ngăn cản và giữ anh ấy lại. Tôi có thể nghe thấy tiếng chị gái tôi nói bằng giọng sân khấu trầm ấm của chị ấy; chị ấy dường như đang nói về những cuộc tán tỉnh. “Tuyệt vời nhất là hôm ở một bữa tiệc của người Goth tại Khu Hạ Đông.” Chị ấy nói lớn. “Khi tôi tiếp cận một người đàn ông mặc đồ da, có râu và đeo một cặp sừng cứng.”
“Anh ấy nói gì?” Một người bạn của cô ấy hỏi.
Liz tận hưởng khoảnh khắc này. “Anh ấy đến sát gần tôi và hỏi với giọng trầm. Em đã sẵn sàng ngủ với một con quỷ chưa?” Tiếng cười của chị ấy vang vọng khắp quán bar, có chút bẩn thỉu; những người phụ nữ khác cũng cười.
Toni vẫn tiếp tục nhìn chị ấy. “Cuối cùng chị ấy đã trả lời thư của anh chưa?”
Sau đó, tất cả chúng tôi cùng nhau đến câu lạc bộ Club der Visionäre. Chị gái tôi và Toni ngồi cạnh nhau trên cầu tàu, đung đưa đôi chân của họ và chè chén lu bù. Toni đã không ngừng tán tỉnh chị ấy, điều này đã thu hút được sự chú ý của Liz. Chị ấy thấy anh ấy không còn là bạn của anh trai mình nữa mà là một người đàn ông, lười biếng ngả người ra sau và đánh giá anh ấy. Một trong những dây đai trên chiếc váy đen của chị ấy đã bị tuột, mái tóc vàng buông xõa, đôi chân trần bắt chéo. Chị ấy đang nằm chờ đợi và muốn biết liệu có phải Toni chỉ đang nói đùa để trêu chọc mình hay không, thực tế anh ấy có phải là một chàng trai tốt không, hay liệu anh ấy có thực sự có mặt nam tính khó dò được không. Chị gái tôi lại nhìn anh ấy bằng cái nhìn chế giễu và trịch thượng; có thứ gì đó mục ruỗng trong đó và Toni phải đối đầu với nó. Một giây, hai giây… Anh ấy tránh ánh mắt của chị ấy. Lại một lần nữa. Tôi có thể thẩy chính xác những gì sẽ xảy ra. Anh ấy không có cơ hội.
Về phần mình, tôi đã cố gắng bắt chuyện với một vài người quen của Liz, nhưng cuộc trò chuyện khá bế tắc, và khi cả nhóm quyết định đến một câu lạc bộ khác, tôi đã nói lời tạm biệt. Ở nhà, chỉ có sự im lặng chờ đợi tôi, âm thanh mà tôi đã quen thuộc trong nhiều năm. Sao tôi lại trở nên ghét bỏ sự tồn tại giống như một ẩn sĩ, sự thiếu khả năng hoà nhập với cuộc đời này thế nhỉ? Luôn luôn chỉ là những giấc mơ, không bao giờ thực sự tỉnh táo. Nhìn vào mình, tôi nghĩ: tại sao mình lại thường khao khát được đồng hành với sự cô độc trong khi mình gần như không thể chịu được cảm giác một mình được nữa?
Tôi mở máy tính xách tay. Hai e-mail mới. Marty viết rằng đám cưới của anh ấy đã rơi vào tay gia đình của Elena và anh ấy đã bị loại ra khỏi kế hoạch. Tin nhắn thứ hai là từ một bạn đồng học cũ ở khoá luật của tôi, gửi cho tôi một giải thuật điều phối1. Cảm thấy bực mình nên tôi đã xóa nó đi. Tôi xem TV một lúc, lướt qua các kênh một cách ngẫu nhiên. Ngay khi tôi chuẩn bị đi ngủ, một e-mail khác đến. Được viết lúc hai giờ bốn mươi sáu phút. Tôi dụi mắt và mở nó ra.
1 Round Robin là một giải thuật định thời CPU, trong đó mỗi tiến trình được gán một thời gian giữ CPU nhất định trong một chu kỳ chạy, thời gian đó được gọi là thời gian xoay vòng (quantum).
Thỉnh thoảng mình cũng đã nghĩ về bạn trong những năm qua. Hy vọng bạn khỏe mạnh. Rất vui được gặp lại bạn.
Alva
***
Những tuần tiếp theo, tôi đã vô cùng hồi hộp nhưng hạnh phúc. Ngay cả đám cưới của Marty, với tất cả các nghi lễ của nó và tất cả những người họ hàng Croatia bên vợ của anh ấy, cũng chỉ làm tôi khó chịu trong chốc lát. Cứ như thể quá khứ của tôi đã sống lại chỉ bằng một tin nhắn vậy.
Alva đang sống ở Thụy Sĩ. Sau nhiều lần trò chuyện qua lại – cô ấy thường mất nhiều ngày để trả lời – chúng tôi đã quyết định gặp lại nhau ở địa điểm giữa hai chúng tôi, Munich. Một thời gian sau, tôi về quê và dành một buổi sáng đến thăm anh tôi. Anh ấy và Elena vừa trở về sau tuần trăng mật ở Tây Ban Nha.
“Em có lo lắng không?” Marty hỏi. Chúng tôi bước qua những chồng quà cưới, một số vẫn chưa được mở ra; toàn bộ phòng khách được dùng để nhồi nhét những món quà đó.
“Em không thể tin rằng mình sắp gặp lại cô ấy.”
“Cô ấy có bạn trai chưa?” Anh tôi hỏi, nhắm bắn vào một bưu kiện màu xanh lá cây nhạt. Các cháu trai của Elena đã bỏ lại khẩu súng lục Softair của chúng và chúng tôi đang sử dụng chúng để bóc quà cưới.
“Em nghe nói cô ấy đã kết hôn rồi.” Tôi nói, nhắm bắn một đồ vật dài được bọc trong giấy đỏ. Nó phát ra tiếng lạch cạch: rõ ràng là một hộp dao kéo.
“Ừ hứ, đó là những gì mà em đã nghe được.” Anh trai tôi bắn ba phát súng liên tiếp vào một bưu kiện màu trắng đặt trên ngăn kéo tủ phòng khách. Nó rơi ra, vỡ tung và một chiếc đồng hồ nhà bếp rẻ tiền in hình hoạt hình Gia đình Simpsons rơi ra ngoài.
Marty cầm nó lên với vẻ kinh tởm. “Thứ này trông rẻ tiền thật đấy.” Anh ấy đặt lại cái đồng hồ lên ngăn tủ kéo. “Ai lại đi tặng món quà như thế này?”
“Bởi vì anh không có người bạn thực sự nào đấy.” “Em cũng không có người bạn nào mà.”
“Em biết. Nếu em kết hôn, sẽ chỉ có ba người ở bên cạnh em thôi: anh, Liz và có thể là Toni.”
“Anh xin lỗi, sẽ chỉ có hai thôi em ạ.” Anh trai tôi nói. “Anh sẽ không có thời gian.”
“Anh đã thực sự thay đổi kể từ khi kết hôn. Còn tệ hơn trước nữa.” Tôi nhắm bắn Homer Simpson, bắn vào giữa đôi mắt lồi của ông ta cho đến khi ông ta ngã khỏi ngăn tủ kéo lần nữa và tan vỡ.
“Chính xác thì Alva sống ở đâu?” Marty đã bắn một loạt vào một bưu kiện màu xanh lam.
“Ở Lucerne; cô ấy đã ở đó vài năm. Có lẽ bây giờ cô ấy nói tiếng Đức Thụy Sĩ.”
Đột nhiên, Marty chĩa súng vào tôi. “Nếu như cô ấy thực sự đã kết hôn thì sao?”
“Em đoán là cô ấy kết hôn rồi.” Tôi cũng chĩa súng vào anh. “Cô ấy xứng đáng được như vậy.”
“Nhưng em thật sự không mong điều đó xảy ra phải không?” Marty cười. “Anh có thế đoán ra được. Em đang hy vọng.”
“Em không có ý kiến gì.”
“Hy vọng chỉ dành cho những kẻ ngốc nghếch.”
“Anh thật là bi quan.”
Anh ấy hất cằm về phía thứ gì đó ở bên trái anh ấy. Một món quà lớn. Một chiếc bình khổng lồ được bọc trong giấy bọc kẹo sắc màu được đặt trên bàn phòng khách.
“Đếm đến ba nha?”
“Đếm đến ba!”
“Một, hai… ba!”
Chúng tôi cùng lúc xả sạch băng đạn của mình. Chiếc bình bị nghiêng một lúc trước khi rơi xuống sàn vỡ tan tành. Chúng tôi cùng nhau cười, rồi nhìn xung quanh. Phòng khách lúc này như một đống rác. “Nào hãy dọn dẹp đi thôi.” Marty nói, thổi thổi nòng của khẩu súng hơi. “Elena sắp trở lại rồi đấy.”
***
Quán bar ở quận Glockenbach là nơi mà tôi muốn được gặp Alva. Nó nằm ngay cạnh căn hộ cũ của bác tôi.
Tôi hồi hộp như một thiếu niên và đến đó sớm mười lăm phút. Tôi định quay lại (vì không muốn là người đầu tiên đến đó) thì chú ý thấy có một người phụ nữ tóc đỏ đang ngồi ở bàn cạnh lối vào. Cô ấy bắt chéo chân và đang nói chuyện với nhân viên phục vụ.
Tôi nhìn chằm chằm vài giây vào chiếc mũi nhỏ hẹp, cặp kính gọng đen, khuôn miệng cong đẹp với đôi môi đầy đặn và xương quai xanh thanh tú của Alva. Làn da trắng ngần không tỳ vết và vóc dáng mảnh mai của cô. Lúc đầu, cô ấy dường như là một người lạ đối với tôi: thực sự quá trưởng thành. Đôi mắt của cô ấy thay đổi nhiều nhất. Đôi mắt vẫn to và có màu xanh tươi sáng, nhưng tất cả sự thanh khiết trong chúng đã biến mất. Tôi chỉ đang tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi cô ấy phát hiện ra tôi.
“Này!” Cô ấy nói.
Làm sao tôi có thể quên được giọng nói của cô ấy! Chúng tôi trao nhau cái ôm ngắn ngủi và tôi cười đến mức má tôi phát đau, nhưng tôi không thể dừng lại. Cô ấy ngồi trên băng ghế bọc nệm trong khi tôi ngồi trên ghế đẩu, một chiếc bàn tròn nhỏ được kê giữa chúng tôi.
“Từ khi nào bạn trở thành người đến đúng giờ vậy?”
“Thật ra thì không bao giờ.” Cô ấy nói. “Nhưng mình quyết tâm đến đây trước bạn để thấy bạn vào cửa… Và giờ thì mình lại bỏ lỡ nó rồi.”
Alva mặc quần bò đen và áo len cổ lọ màu xám; cô ấy trông tự tin, bí ẩn, nhưng cũng khá mệt mỏi.
“Mình có thứ này cho bạn.” Tôi nói, đưa cho cô ấy món quà của tôi.
“Mình có thể mở ra nó không?”
Alva không xé giấy gói mà mở món quà một cách cẩn thận, nâng niu. Cô ấy lôi cuốn album ra. “Pink Moon. Nick Drake.”
“Bạn còn nhớ không?” Tôi hỏi. “Chúng ta đã nghe nó vào lần đầu tiên khi bạn đến phòng mình. Mình nhớ là bạn thích nó.”
Tôi nghĩ cô ấy hài lòng; dù thế nào đi nữa, cô ấy vẫn tiếp tục nhìn vào cuốn album và dùng ngón tay vuốt ve các cạnh đã mòn của nó.
Lúc đầu, tôi nói quá nhanh vì phấn khích. Alva lắng nghe khi tôi phác thảo một vài chi tiết về cuộc đời mình; sau đó cô ấy kể cho tôi nghe về tấm bằng văn chương của cô ấy ở Moscow, nơi cô ấy đã bỏ học chỉ sau một học kỳ. Một chút thời gian lắng nghe về cuộc sống của nhau.
“Giờ bạn đang làm gì?” Cuối cùng tôi hỏi.
“Thành thật mà nói, mình đang không làm việc.”
“Tại sao không?”
Alva nhún vai. Cô ấy hành động như thể không có gì khác biệt, nhưng sau ngần ấy năm, tôi vẫn có thể biết được khi nào cô ấy lo lắng. Cô ấy đã bỏ qua những chương quan trọng trong câu chuyện của mình, để lại cho những năm tháng ở Nga của cô ấy một bến đỗ rộng rãi, vẽ ra một bức màn che phủ lên những thứ cô ấy đang làm ở hiện tại và chỉ nói về những sự kiện đã qua từ lâu.
Cô ấy lướt tay qua bàn và với lấy tay tôi. “Thật tuyệt khi gặp bạn ở đây. Mình đã sợ rằng bạn sẽ không đến.”
“Tại sao?”
Alva rụt tay lại. “Trông bạn ổn lắm,” - cô ấy quan sát tôi – “và bạn có nụ cười rất đáng yêu, Jules. Mình muốn nói với bạn điều đó từ hồi xưa rồi, từ hồi ở trường ấy. Khi bạn cười, bạn giống như một người khác, ít dè dặt hơn. Bạn thực sự nên cười thường xuyên hơn.” Lúc này cô ấy đang rất phấn khởi. “Ừ, cứ như vậy đi.” Rồi đột nhiên, cô ấy quả quyết: “Nhưng nói cho mình biết dạo này bạn đang làm gì đi?”
“Mình đang làm việc cho một hãng âm nhạc.” Tôi gọi rượu, cô ấy gọi cappuccino. “Mình thực sự đã định chuyển đến Ý nhưng sau đó chị gái mình nói với mình về vị trí này. Dù sao thì đó cũng không phải là một công việc tệ. Rất nhiều nội dung pháp lý, nhưng mình cũng đang ngày càng dành nhiều thời gian hơn để chăm sóc các ban nhạc.”
Công việc của tôi đang xuôi chèo mát mái, nhưng Alva có vẻ không quá nhiệt tình.
“Tất nhiên rồi, âm nhạc phù hợp với bạn. Nhưng mình luôn nghĩ rằng bạn sẽ làm điều gì đó của riêng mình - chẳng hạn như viết văn. Mình nghĩ những câu chuyện ngắn của bạn thật tuyệt vời. Hay tại sao không phải là nhiếp ảnh? Bạn luôn thích chụp ảnh mà.”
Tôi cảm động vì cô ấy đã tin tưởng vào tôi nhiều đến thế. Người duy nhất thực sự thích những câu chuyện và những bức ảnh của tôi.
“Mình đã thử làm một nhiếp ảnh gia, nhưng nó không suôn sẻ lắm. Rồi đến một lúc, mình đã quyết định từ bỏ.”
“Tại sao vậy?”
“Quá nhiều lời từ chối. Quá nhiều sự thất vọng.”
Alva cân nhắc. Cô ấy liếc nhìn tôi thật nhanh: “Đó có thực sự là lý do duy nhất khiến bạn từ bỏ không?”
Như mọi khi, cô ấy đã nhìn thấu tôi.
“Không phải. Mình chỉ nhận ra rằng mình…” Tôi lắc ly, hai viên đá đang ngâm mình trong chất lỏng màu hổ phách trượt qua trượt lại. “Thôi quên đi, cũng chẳng có gì quan trọng. Khi khác mình sẽ kể cho bạn nghe sau.”
Chúng tôi ngồi trong im lặng. Sự phấn khích ban đầu khi gặp lại nhau đã tan thành mây khói; tất cả đều quá trang trọng, quá gượng ép. Trong một khoảnh khắc, tôi cảm thấy như thể con người thật của chúng tôi đang ở rất xa và chúng tôi chỉ đang cử hai nhà đàm phán đến quán bar, những người không có quyền được nói về những điều thực sự quan trọng.
“Hiện tại, bạn đang nghe nhạc gì?” Cuối cùng Alva đã hỏi.
Theo yêu cầu của cô ấy, tôi lấy máy nghe nhạc MP3 ra và ngồi bên cạnh cô ấy trên băng ghế. Chúng tôi đã chia sẻ tai nghe với nhau và nghe qua một vài ban nhạc. Cứ mỗi bài hát bật lên, sự băng giá của cô ấy lại tan ra một chút.
“Bài này hay quá.” Cô ấy nói khi tôi bật bài Between The Bars của Elliott Smith. Cô ấy cười rạng rỡ. “Mình thật sự thích bài này.”
Trong một khoảnh khắc, khi chúng tôi ngồi đó bên cạnh nhau và nghe nhạc, cảm giác thân mật như khi chúng tôi ở trường đã ùa về.
“Bạn có vui không?” Tôi hỏi cô ấy.
Cô ấy tháo tai nghe ra, bối rối. “Cái gì vậy?”
“Mình hỏi bạn có vui không?”
Lúc đầu, Alva dường như muốn lảng tránh câu hỏi đó, và tôi lo lắng rằng nó có quá trực tiếp không. Nhưng rồi cô ấy chỉ nhún vai. “Còn bạn thì sao?”
Tôi cũng nhún vai.
“Vậy thì chúng ta giống nhau đấy.” Cô ấy khóc trong hạnh phúc.
Tôi chỉ vào cốc cappuccino của cô ấy. “Bằng cách nào đó, mình đã nghĩ rằng chúng ta sẽ say khi gặp lại nhau.”
“Chúng ta vẫn có thể.”
“Uống gin không?”
“Tốt hơn là không. Lần cuối cùng chúng ta uống rượu, mọi chuyện kỳ cục lắm, bạn có nhớ không? Bạn đã nhảy trước mặt mình nhưng mình thì say quắc cần câu. Còn chưa uống nhiều lắm mà mình đã muốn xông vào bạn rồi.”
Cô ấy thản nhiên nói ra chuyện đó và quay sang xem thực đơn đồ uống.
Chỉ sau hai ly, chúng tôi thậm chí còn ngồi sát gần nhau hơn nữa. Tôi không biết đó là tác dụng của rượu hay âm nhạc, nhưng cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi đột nhiên lại có cảm giác giống như ngày hôm qua, ngoại trừ việc ngày hôm qua đó là cách đây nhiều năm về trước . Tôi đã bỏ lỡ một chuyến tàu và tôi cũng đã quyết định bỏ lỡ chuyến tiếp theo. Bây giờ tôi đang nói hơi lảm nhảm một chút, nhưng ít nhất cuối cùng tôi cũng nói ra được những gì tôi muốn nói.
Alva cũng đang cao hứng lên.
“Thế còn chuyện phụ nữ thì sao?” Cô ấy hỏi.
“Ồ, bạn biết nó như thế nào rồi đấy. Họ cứ ném bản thân vào mình; vừa rồi có hai người đã làm thế trên đường mình đến quán bar. Mình hầu như không thể đối phó chuyện đó.”
Cô ấy đã tát vào tay tôi vì điều đó; buổi tối hôm đó biến thành một chuỗi dài những câu kiểu “Bạn có nhớ không?” và “Không thể tin được làm thế nào chúng ta…” Chúng tôi trao đổi rất nhiều câu chuyện nhỏ: cô ấy nói với tôi, bằng giọng trầm lắng, rằng cô ấy vẫn nghe băng cát-xét để đi ngủ, hoặc kể về những năm tháng cô ấy ở Nga và cách các nhà kinh doanh tàu điện ngầm ở Moscow đi từ khoang này đến khoang khác để bán đồ chơi tình dục hoặc DVD và sách lậu cho người đi tàu (“Luôn luôn thiếu một vài trang chính, nhưng giá sách thực tế cũng không quá đắt”); đổi lại, tôi kể cho cô ấy nghe về đám cưới của Marty và việc anh trai tôi đã khiêu vũ với cô dâu như một con robot không được điều khiển, nhưng lại nói một nửa bài phát biểu sau bữa tối của mình bằng tiếng Croatia không trọng âm. Trời bên ngoài đã tối từ lâu khi chúng tôi nói về sự cô đơn thỉnh thoảng vẫn hành hạ chúng tôi (tôi: “Cứ phải cô đơn một mình như vậy khiến mình chết dần.” Alva: “Đúng thế, nhưng liều thuốc giải cho sự cô đơn không phải là chọn bừa ở bên một người ngẫu nhiên nào đó, thuốc giải cho sự cô đơn phải là sự an toàn về mặt cảm xúc.” Tôi, ra hiệu cho một người phục vụ: “Chúng tôi sẽ uống vì điều đó!”) Suốt khoảng thời gian sau đó, tôi không thể ngừng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt xinh đẹp như trong phim của Alva, nhìn vào đôi mắt to tròn, sáng, xanh nhạt kia. Chúng tôi uống hết ly này đến ly khác và chìm trong cơn say hạnh phúc. Trước sự ngạc nhiên của mình, tôi đã nói. “Điều mình thực sự muốn làm là rời bỏ công việc của mình, rời khỏi Berlin và chỉ viết văn thôi.” Đột nhiên, tôi tìm lại được tiếng nói bên trong của mình, và cuối cùng tôi thừa nhận rằng tôi đã rất nhớ Alva; vâng, trong ngần ấy năm, tôi đã không thể ngừng nghĩ về cô ấy, và cô ấy nói, môi kề sát tai tôi: “Mình cũng nghĩ về bạn.” Gáy tôi ngứa ran lên và tôi tận hưởng sự căng thẳng dịu dàng giữa chúng tôi. Tôi nhận ra rằng chân chúng tôi đang chạm vào nhau, và tôi liên tục tự hỏi liệu cô ấy có để ý chuyện này không, liệu cô ấy có nhận ra rằng khi cô ấy nói chuyện, cô ấy cứ liên tục tiến gần tôi đến nỗi tóc cô ấy cứa vào mặt tôi và tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa của cô ấy. Liệu có phải cô ấy cố tình làm chuyện đó không nhỉ? Lúc đó, tôi gần như muốn nói với cô ấy rằng hồi đó tôi đã hiểu ra là tôi yêu cô ấy quá muộn; nhưng cô ấy lại đang nói dở về kỳ thực tập của cô ấy ở New Zealand, và tôi lại bỏ lỡ chuyến tàu tiếp theo rồi. Tôi quan sát đôi bàn tay của Alva, điệu bộ khi cô ấy nói, và hàm răng của cô ấy khi cô ấy cười. Tối hôm đó, cô ấy đã cười rất nhiều và tôi nhận ra cô ấy đã chấp nhận chiếc răng cửa hơi khấp khểnh của mình, không đưa tay lên che miệng như trước nữa.
“Tại sao ăn pizza lại là cách để bạn vượt qua sự tổn thương?” Cô ấy hỏi.
“À, vì trường học.” Tôi trả lời. “Hồi đó chúng mình thường không được ăn no vào bữa tối và nếu có thì thường cũng là mấy thứ không ăn được. Chúng mình không có đủ tiền tiêu vặt để đặt một chiếc bánh pizza về ăn, nhưng đôi khi cũng có ai đó có tiền. Sau nửa giờ, chiếc xe chở bánh pizza màu trắng sẽ chạy tới trước khu nhà nội trú. Trong khi người đặt món đang thanh toán và nhận chiếc bánh pizza thơm ngon này, cậu ta sẽ bị vô số cặp mắt từ cửa sổ nhìn chòng chọc. Cậu ta gần như không thể trốn thoát vào khu nội trú trước khi chúng mình ập đến chỗ cậu ta như vũ bão. Làm ơn, chỉ một miếng thôi, tớ luôn cho cậu một miếng mà. Hoặc: Cậu sẽ nhận được một phần vào lần tới, khi tớ đặt pizza - một phần tư chiếc bánh pizza, tớ hứa. Chỉ một miếng thôi mà. Bạn phải cho những đứa trẻ khác một ít, thường là một nửa chiếc bánh pizza, vì lần sau bạn sẽ phải phụ thuộc vào sự hào phóng của chúng. Và vì vậy bạn sẽ không bao giờ được ăn no. Trong mình có một cơn đói chưa bao giờ được thỏa mãn. Chín năm đói cồn cào và dù sau này mình có ăn bao nhiêu chiếc bánh pizza đi nữa thì cũng không bao giờ là đủ.”
Alva nhấp một ngụm đồ uống. “Mình đang nghĩ về bức thư của bạn.” Cô ấy ném cho tôi cái nhìn thích thú. “Bạn thực sự vẫn muốn có con hả?”
Tôi gật đầu. “Đúng vậy, mình muốn giỏi hơn bố mình.” Ngay cả khi ở trong tâm trạng thoải mái, giọng tôi vẫn bắt đầu run rẩy. “Không, mình muốn giỏi hơn cả hai người họ. Mình chỉ muốn tồn tại và luôn ở bên cạnh chúng. Khi bọn trẻ bắt đầu đến trường, khi chúng dậy thì, khi chúng yêu và khi chúng trưởng thành. Mình muốn thấy chúng làm tất cả những điều đó. Mình muốn biết chúng sẽ lớn lên như thế nào khi không phải trải qua những chuyện đó một mình.”
Alva đột nhiên nghiêm túc. “Bạn đã cảm thấy như thế nào khi đến nhà nội trú cùng anh chị mình? Mình thường tự hỏi điều đó. Tất cả những người bạn cũ của bạn đã biến mất, ngôi nhà của bạn, tất cả mọi thứ đều đã sụp đổ trong một lần. Chuyến xe đầu tiên đến trường nội trú chắc hẳn kinh khủng ghê lắm.”
Tôi cân nhắc. “Thành thật mà nói, mình không còn nhớ gì về nó nữa.”
“Nhưng bạn hiếm khi quên mọi thứ.” Cô ấy chỉ vào album Nick Drake. “Mình không thể tin được rằng bạn vẫn nhớ điều này… Chắc chắn là bạn nhớ đúng không?”
“Mình không còn hứng thú với chuyện đó nữa. Chúng mình đã ở trường nội trú. Làm thế nào chúng mình đến đó được… mình không còn nhớ nữa.”
Alva thất vọng. “Mình cũng chỉ bắt đầu học ở trường trước bạn vài tháng thôi. Lúc đó chúng mình cũng vừa mới chuyển nhà. Dù sao thì, vào ngày đầu tiên, mình gần như đã phát điên. Mình vẫn nhớ từng giây của ngày hôm đó.”
Tôi không hề biết điều này; tôi đã nghĩ rằng cô ấy luôn ở trường của chúng tôi. Hồi đó chúng tôi rất ít chia sẻ với nhau những điều quan trọng.
Tôi căng não lần nữa, nhưng trí nhớ của tôi từ chối cung cấp bất kỳ hình ảnh nào về chuyến xe đầu tiên đến trường, những mảnh vỡ mà tôi vắt kiệt sức để nghĩ ra lập tức tan biến. Những địa điểm lờ mờ trong khung cảnh của quá khứ mà tôi đã đi qua trọn vẹn.
Chúng tôi nhìn nhau, cảm thấy hiện tại chúng tôi đã nói hết ra tất cả mọi thứ, ngoại trừ những điều kiên quyết không thể tiết lộ.
“Tại sao bạn không đi làm?” Tôi hỏi lại.
Alva do dự. Cô ấy vén tóc ra sau, và đến lúc đó tôi mới nhìn thấy hai vết sẹo mỏng manh trên cổ cô ấy, ngay dưới tai trái. Hai đường thẳng dài. Tôi muốn đưa ngón tay đến ve vuốt chúng nhưng chỉ có thể kìm nén bản thân lại.
“Sao bạn lại có những vết sẹo đó?”
Cô ấy nhìn tôi, sửng sốt và ngay tập tức rũ tóc trở lại để che tai. Cô ấy bối rối uống cạn phần rượu còn lại của mình, và lần đầu tiên trong buổi tối hôm đó, có thứ gì đó đen tối, trống rỗng ánh lên trong mắt cô ấy.
“Mình không muốn nói về nó.” Cô ấy khẽ nói. Từ cái cách mà cô ấy đặt ly xuống bàn, từ tiếng lách cách khe khẽ đó, tôi nhận ra rằng câu thần chú ma thuật của buổi tối đã bị phá vỡ; thời gian không còn chạy ngược lại phía chúng tôi nữa, mà đang tiến về phía trước.
Alva nhìn đồng hồ. “Chuyến tàu của bạn chạy lúc mấy giờ?”
Tôi phải tham dự một cuộc họp vào sáng hôm sau. Cô ấy đã đi cùng tôi đến nhà ga; chúng tôi đã không nói một lời nào với nhau trên taxi. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh và giờ tôi thậm chí còn chưa hỏi cô ấy có muốn có con hay không nữa. Và tại sao đột nhiên cô ấy lại căng thẳng như vậy.
Chúng tôi đứng trên sân ga. “Bạn có muốn đến Berlin thăm mình không?”
Lúc đầu Alva có vẻ hạnh phúc, sau đó nét mặt của cô trở nên xa cách.
“Mình không biết bạn đã từng nghe chuyện này chưa nhưng mình đã kết hôn rồi.”
Trong một khoảnh khắc, tôi đã không thể thở được. Tôi nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay của mình và mọi thứ dường như chậm lại. Đến bây giờ tôi mới nhận ra rằng tôi chưa bao giờ có ý định đi chuyến tàu đêm cuối cùng này, rằng tôi không muốn quay lại chút nào cả.
Khi tôi quay lại nhìn Alva, cô ấy đang lấy một thứ gì đó trong túi ra.
“Nhân tiện, mình có một món quà dành tặng bạn. Mình chỉ không biết nên đưa bạn vào lúc nào thôi. Mình và chồng của mình muốn gửi tặng nó cho bạn.”
Một bưu kiện hình cuốn sách. Tôi đã nhận nó, nhưng không mở nó ra. Sau đó, tôi chỉ trao cho cô ấy một cái ôm đơn giản. Tay của Alva vòng sau lưng ôm chặt lấy tôi, và đột nhiên tôi nhận ra mình đã khát khao khoảnh khắc này đến thế nào trong từng ấy năm. Cô ấy không buông tôi ra, hoặc là tôi không buông cô ấy ra. Tôi tin rằng chúng tôi đã đứng hàng phút không nhúc nhích, ôm chặt lấy nhau trên sân ga và tôi chợt nhận ra rằng sau buổi tối ngày hôm nay, chúng tôi sẽ không còn được gặp lại nhau nữa. Bởi vì thời gian tôi được ở bên cô ấy rõ ràng chỉ tồn tại trong quá khứ và bởi vì tôi không thể chịu đựng được điều đó.
Khi bước lên tàu, tôi đã cố gắng không để cô ấy nhìn thấy mặt mình. Tôi ném chiếc áo khoác và món quà cô ấy tặng mình lên ghế ngồi, thu mình lại và nhìn những hành khách khác, những người đang tán gẫu hoặc trải báo và máy tính xách tay ra trước mặt họ.
Ngay trước khi người bảo vệ thổi tiếng còi cuối cùng, tôi quay lại chỗ cô ấy. Tôi cảm nhận được bàn tay của cô ấy trên cánh tay tôi.
“Bảo trọng nhé, Jules.”
Tôi gật đầu. “Bạn cũng vậy nhé.”
Các cánh cửa đóng lại. Tôi nhìn thấy cô ấy đang vẫy tay với tôi qua khung cửa sổ trầy xước. Đoàn tàu đã bắt đầu di chuyển, và khi tôi quay lại chỗ ngồi của mình, nhà ga đã ở rất xa rồi.
Tôi nghĩ về cuộc họp của mình vào ngày hôm sau và hợp đồng mà tôi phải ký với một nhạc sĩ; và sau đó tôi lại nghĩ về Alva một lần nữa, khi cô ấy đứng trên sân ga. Một cơn đau đột ngột đến với tôi. Tôi nhắm mắt lại. Lúc đó đang là ban đêm và tôi đang chạy qua những cánh đồng lúa mì rộng mênh mông trong bóng tối. Tôi cảm nhận được làn gió, dang rộng cánh tay ra và di chuyển nhanh hơn. Bên dưới tôi là rừng, bên trên tôi là khoảng trống. Tôi nhào lộn trong không trung và bay đi càng lúc càng xa, như thể tôi đang bay về nhà.