“Đừng có giận cá chém thớt”
Hầu hết chúng ta đều từng nói câu này, phải không?
CƠ CHẾ PHÒNG VỆ (3): SỰ CHUYỂN VỊ
Bạn đã bao giờ nói câu “Đừng có giận cá chém thớt” với ai đó chưa, hoặc ai đó nói với bạn câu ấy chẳng hạn. Chúng mô tả rất rõ ràng về quá trình chuyển vị. Giả sử bạn xuất sinh một cảm xúc, bạn tức giận vì bị sếp la ó tại nơi làm việc, nhưng bạn không thể thể hiện cảm giác tức giận đó ra ngoài, bởi rõ ràng điều đó sẽ khiến bạn bị sa thải. Bạn trút cơn giận ấy vào một người vô tội khác – người nằm ngoài sự việc này và họ vô tình phải hứng chịu cơn thịnh nộ ấy. Người ấy sẽ cảm thấy bất công và nói rằng bạn đừng bao giờ biến cô ấy thành “vật tế thần” cho cơn thịnh nộ của bạn.
“Đừng có giận cá chém thớt.”
Rõ ràng cơn giận của bạn đã chuyển từ đối tượng châm ngòi nó sang một người khác. Đó là trường hợp mà khi cơ chế phòng vệ không quá mạnh. Nó không giống như trạng thái phủ nhận – khi các cảm xúc hoàn toàn không nằm trong nhận thức của bạn. Trong quá trình chuyển vị này, sự thật có thể nằm ngay ở bề mặt. Có nhiều người thường đem tâm trạng “giận cá” này về trút lên người thân của họ, sau đó họ nhận ra và xin lỗi. Hẳn bạn cũng từng lúc như thế.
MẶT SÁNG CỦA CƠ CHẾ CHUYỂN VỊ
Hãy để tôi gợi cho bạn một ví dụ khác, một trường hợp tôi đã nghe rất nhiều từ các thân chủ của mình trong suốt những năm qua. Loại chuyển vị này không nằm gần với ý thức, nó phản ánh một cơ chế phòng vệ mạnh mẽ hơn, đặc biệt là trong môi trường công sở. Nó cũng cho thấy giá trị tích cực của việc phòng vệ, chúng ta cần nó để ứng xử khôn ngoan trong một số tình huống nhất định. Câu chuyện ấy như thế này:
“Đêm nọ, người mẹ thức giấc vì đứa con quấy khóc do khát sữa. Người mẹ xuống giường và cho đứa bé ăn. Khi cô ấy ngồi trên chiếc ghế bập bênh và cho con bú, cô cảm thấy có một sự giao cảm hạnh phúc với đứa trẻ. Cô ấy hơi sững sờ trước năng lượng của tình mẫu tử. Chưa bao giờ cô ấy trải qua cảm xúc như vậy. Cô ấy nghĩ rằng mình chưa bao giờ thấy hạnh phúc và mãn nguyện với cuộc sống của mình đến vậy. Đứa con cô ấy bú no đã chìm vào giấc ngủ. Người mẹ đặt nó vào nôi và quay trở lại giường ngủ tiếp.
Khi nhìn thấy người chồng đang say ngủ, bỗng nhiên cô ấy cảm thấy hơi tiếc nuối cho anh, bởi cô cho rằng anh đã bỏ lỡ giây phút tuyệt vời đó. Nhưng nếu cô ấy không thể ngủ lại ngay lập tức, thì rất nhanh chóng, cô ấy thấy có chút oán giận với chồng mình. Nếu đứa con tiếp tục thức dậy và cô ấy phải lê mình ra khỏi giường lần nữa, thì cảm xúc của cô với chồng sẽ bắt đầu dịch chuyển.
Anh ấy thật may vì không phải thức dậy trông con vào lúc nửa đêm như tôi. Hôm sau thức dậy, anh ấy có thể cảm thấy khoan khoái, còn tôi sẽ lê lết cả ngày trong trạng thái kiệt sức. Điều đó thật không công bằng, tại sao gánh nặng cho con bú lại hoàn toàn đổ hết cho người mẹ như vậy. Tôi thực sự muốn đánh thức anh ấy ngay lập tức, để anh ấy biết cái cảm giác đó là như thế nào.
Vào lúc đấy, trong cô tràn đầy nỗi oán giận đến mức không thể ngủ tiếp được.”
Mặc dù có vài sự thật trong suy nghĩ của người mẹ này, nhưng điều đó không giải thích được cấp độ của sự giận dữ. Một số bà mẹ mới sinh thường yêu cầu chồng mình cho con bú bình vào cữ bú nửa đêm ấy, nhưng điều đó cũng không khiến cơn giận trong họ nguôi ngoai. Ngay cả những cặp vợ chồng thường chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con cũng có thể âm thầm tích tụ nỗi oán giận trong họ. Mỗi người đều cảm thấy rằng phần trách nhiệm của mình nặng nề hơn. Ngoài những câu chuyện tôi đã nghe từ thân chủ của mình, tôi còn nói chuyện với bạn bè về trải nghiệm của họ khi lần đầu làm cha, làm mẹ. Tôi có ba đứa con, và như tôi đã nói, đôi lúc sự bực tức dường như chỉ là một phần trong chặng đường nuôi dạy con cái.
Vậy điều gì đang diễn ra ở đây? Các bà mẹ, hay những ông bố phải cho con ti bình đều sẽ cảm thấy bực bội khi phải thức trắng đêm chăm con. Có thể họ không nhận ra, có thể họ sẽ phủ nhận khi ai đó đề cập đến chuyện này, nhưng họ có xu hướng bực tức về sự thiếu kinh nghiệm trong việc chăm con của bản thân, hi sinh giấc ngủ và các nhu cầu cá nhân khác của mình để chăm sóc cho đứa trẻ thực sự là gánh nặng với họ. Nghe có vẻ không hợp lí và cũng không công bằng, nhưng thực sự họ cảm thấy có chút oán giận đứa trẻ. Chẳng có văn bản hay sách vở nào từng nhắc đến cảm giác tức giận này cả, ngược lại, tất cả những mô tả về tình mẫu tử, phụ tử trong việc nuôi dạy con cái đều nói rằng cha mẹ luôn chỉ cảm thấy yêu thương người con, người nào ghét con thì thực sự tệ không kém gì những kẻ bạo hành trẻ em.
Theo tôi, bạn không thể nào tránh khỏi sự tức giận hoặc bực bội khi bạn có con. Đó là một trách nhiệm to lớn đòi hỏi bạn phải hi sinh tự do cá nhân, ngay cả khi bạn khao khát có một đứa con đi chăng nữa, thì việc thiếu ngủ triền miên sẽ khiến bạn thay đổi. Bạn đổ lỗi cho đứa trẻ vô năng và nhiều đòi hỏi đó về những đêm thức trắng của mình, và bực tức với cả vợ/chồng. Đây hẳn là một ví dụ hoàn hảo về sự chuyển vị. Một cảm giác được thôi đẩy bên trong và hướng vào đối tượng gây âu lo và đe dọa, được chuyển sang một đối tượng khác có vẻ an toàn hơn.
Tất nhiên, với những cơn giận dữ kiểu “giận cá chém thớt” như thế này, người cha có khả năng chống chọi tốt hơn nhiều so với một đứa trẻ sơ sinh, thậm chí khi anh ta thấy điều đó là không công bằng. Theo quan điểm của tôi, điều này cho thấy vai trò quan trọng của người cha, nhằm hấp thụ sự tức giận của người mẹ, khi cô ấy không thể hoặc không nên hướng cơn giận vào đứa con. Cơ chế phòng vệ chuyển vị cho phép cô ấy chuyển trọng tâm của một cảm xúc mãnh liệt, bùng phát bên trong có thể gây hại cho đứa con sang một ai đó có khả năng chống đỡ tốt hơn.
MẶT TỐI CỦA CƠ CHẾ CHUYỂN VỊ
Một ví dụ ngược lại về sự chuyển vị có khả năng làm đổ vỡ mối quan hệ khi nó được dùng theo hướng không hiệu quả. Người cha có thể cảm thấy mình bị đẩy sang một bên do sự xuất hiện của đứa trẻ, và xuất sinh cảm giác ghen tị với sự quan tâm của vợ mình dành cho con. Sự thân mật của họ có lẽ đã bị gián đoạn suốt một khoảng thời gian, thậm chí là dừng hoàn toàn kể từ khi đứa bé ra đời. Trong khi cảm giác hân hoan khi được làm cha chỉ ở một mức nào đó, thì người chồng có thể vô thức cảm thấy tức giận và phẫn nộ với sự vô tâm từ vợ. Anh ta tức tối vì bị vợ bỏ rơi, anh ta phẫn nộ khi đứa bé đã chiếm mất vị trí của anh ta trong trái tim của cô ấy.
Tại nơi làm việc, anh ta có thể trở nên cáu kỉnh với đồng nghiệp và mọi người đều thấy rất khó hòa hợp với anh ta. Mất ngủ (ngay cả khi anh ta không dậy chăm con) lại càng khiến vấn đề ngày càng trầm trọng hơn. Khi có điều gì đó không ổn, chẳng hạn như deadline bị trễ hay dự án không như mong đợi, anh ta có thể xao lãng hoặc mặc kệ điều đó. Bởi anh ta cảm thấy không thể bày tỏ sự tức giận của mình với vợ con, anh ta đành trút nó sang đồng nghiệp. Mọi người ở nơi làm việc đều cảm thấy anh ta đang cố gắng trút lên họ, mặc dù họ không thể truy xuất được nguyên nhân gây nên cơn giận dữ đó. Nếu hành động này diễn ra lâu dài, nó có thể gây đổ vỡ các mối quan hệ mà anh ta có.
CƠ CHẾ PHÒNG VỆ (4): PHẢN ỨNG NGƯỢC
Cơ chế phòng vệ này liên quan đến việc “nhai nuốt” một cảm giác hoặc xung lực không thể chấp nhận thành một phản ứng trái ngược. Hiện nay, nhiều người bảo thủ có quan điểm chống lại người đồng tính hoặc có hành vi đồng tính luyến ái thường được coi là một cơ chế phản ứng ngược. Ví dụ nổi tiếng là George Rekers (người đã thuê một thanh niên từ Rentboy.com để “mang hành lí của mình” đi khắp châu Âu). Mục sư Ted Haggard ở Colorado Springs, người đã có mối quan hệ tình ái kéo dài ba năm với “người đấm bóp” của mình. Hay cựu Thượng nghị sĩ Larry Craig của Idaho, bị bắt gặp đang sàm sỡ với một cảnh sát chìm trong phòng nam của sân bay Minneapolis.
Khi các vụ bê bối đó xuất hiện trong tập phim của Tiến sĩ Drew chiếu vào năm 2011, một nhà tâm lí học lâm sàng đã mô tả không chính xác về sự hình thành phản ứng cảm xúc mà ở đó, một cá nhân chấp nhận đóng vai hiểm độc chốn công cộng, nhằm thể hiện sự căm ghét với phần nào đó trong chính mình. Sự hình thành phản ứng ngược này cũng giống như bất cứ cơ chế phòng vệ nào, nó là một quá trình vô thức. Nếu một người đàn ông nhận thức được cảm giác mong muốn thân mật với người đàn ông khác, trong khi anh ta luôn bênh vực cho sự tôn nghiêm của hôn nhân truyền thống, hẳn là hành vi của anh ra sẽ bị coi là đạo đức giả.
Nói theo các khác, nếu một người đàn ông – là mục sư hoặc chính trị gia – có những hành vi chống đồng tính nam và bắt bớ những người đồng tính, hoặc một chàng trai trẻ nào đó thích đánh đập người bước ra từ các quán bar cho người đồng tính, mà không nhận thức rõ được sự hấp dẫn giới tính của mình, thì rất có thể họ sẽ rơi vào trạng thái hình thành phản ứng ngược thực sự.
Một ví dụ khác quen thuộc hơn là những người đã cai thuốc thành công. Họ cảm thấy ghê tởm và khó chấp nhận với khói thuốc lá. Trước khi quyết định cai thuốc, hương vị và mùi thơm của thuốc lá cháy từng khiến họ thích thú. Khi lần đầu họ cố gắng phá vỡ thói quen của mình, họ có thể cảm thấy là cực hình khi ở gần ai đó đang hút thuốc, một phần vì mùi thuốc lá quá kích thích. Sau khi bỏ thuốc một thời gian, họ có thể cảm thấy ghê tởm mùi thuốc lá đó gọi là cơ chế hình thành phản ứng ngược.
Một lần nữa, chúng ta thấy rằng các cơ chế phòng vệ có thể hữu dụng như thế nào. Mặc dù ở một mức độ nào đó, những người như vậy có thể hút thuốc trong suốt một khoảng thời gian rất dài, nhưng sự ghê tởm có ý thức của họ khiến họ không tái nghiện trở lại. Nếu bạn đã gặp kiểu người này, bạn có thể sẽ cảm thấy khó chịu và tự hỏi tại sao họ phải làm quá lên như thế. Cường độ của sự ác cảm này là một dấu hiệu cho thấy cơ chế phòng vệ đang hoạt động.
HÌNH THÀNH PHẢN ỨNG NGƯỢC VÀ TÍNH CÁCH CÁ NHÂN
Từ trước đó, Otto Fenichel18 đã lưu ý rằng sự hình thành phản ứng ngược như một cơ chế phòng vệ, được tích hợp vào tính cách hoặc phong cách của một người. Nó liên tục chống lại phần lớn đời sống cảm xúc của một người (trái ngược với kiểu phủ nhận, thường tập trung vào thực tế hoặc một cảm giác cụ thể). Một khuôn mẫu hành vi quen thuộc xuất hiện ở những người đoan trang kiểu cách, có phong thái hoài cổ, tỏ vẻ ghê tởm những chuyện tính dục, là họ thường ngăn chặn những xung động tính dục mạnh mẽ bên trong mình.
18 Otto Fenichel (1897 - 1946): Nhà phân tâm học “thế hệ thứ hai”. Ông theo đuổi trường phái phân tâm học Freud, và là thành viên của Hội Phân tâm học Vienna. Sau này, ông tham gia sáng lập Hiệp hội Phân tâm học Los Angeles.
Tôi thường gặp phải dạng phản ứng ngược đó khi thân chủ tức giận hoặc muốn gây hấn với người khác. Có một bệnh nhân nữ trẻ tuổi tên là Nicole. Cô ấy bắt đầu trị liệu vì trầm cảm sâu sắc. Nicole sử dụng ma túy một cách tùy tiện và không còn kiểm soát được bản thân. Cô ấy thường xuyên tự gây thương tích cho mình bằng cách dùng dao lam cắt vào tay, vào chân. Nicole nói với tôi rằng cô ấy rất muốn trở thành một người “tử tế”, cô ấy nghĩ rằng mình thực sự là một người như vậy. Nicole làm việc trong một trạm cứu hộ động vật và là một người rất yêu động vật.
Khi mới trị liệu, Nicole kể cho tôi nghe về câu chuyện trong quãng thời gian còn đi học của cô ấy. Một số học sinh tìm thấy một con chim bị thương ngã xuống sân chơi, chúng bắt đầu dùng gậy chọc và tra tấn nó theo nhiều cách khác nhau. Nicole cố gắng cứu con chim, cô van nài chúng bạn hãy tha cho nó. Trong suốt những buổi trị liệu sau này, mỗi khi nhắc về chuyện đó, cô ấy lại khóc. Cô thực không hiểu tại sao con người có thể tàn nhẫn và độc ác đến vậy. Trong làn nước mắt, Nicole nói với tôi rằng, những đứa bạn của cô ấy đã cười vang trong khi dùng gậy chọc vào con chim tội nghiệp.
Suốt một khoảng thời gian sau đó, Nicole phải vật lộn với cảm giác tức giận và những tiếng nói thúc giục bên trong mình rằng “Hãy tra tấn chính thân thể của mày trước.” Bởi lẽ, cô ấy nhận ra rằng chính bản tính tàn độc trong mình đã đè nặng lên tâm trí và khiến cô rất sợ hãi. Cô ấy tạo ra một phản ứng ngược với nó – hình tượng một người tử tế và thể hiện rất nhiều cảm xúc trái ngược nhau. Cô yêu động vật và hết lòng chăm sóc chúng. Cô còn lên án những hành vi ngược đãi và bạo hành động vật.
Trong những năm qua, tôi đã nghe rất nhiều câu chuyện mà các thân chủ đã kể. “Dù cho cuộc đời có truân chuyên thế nào, ít nhất tôi vẫn là một người tử tế”, hay “Tôi thực sự muốn trở thành một người tốt.” Trên thực tế, họ có thể cống hiến hết mình cho các tổ chức từ thiện, cho nhà thờ, các dịch vụ công cộng hay nhiều hành động thiện nguyện khác. Sâu thẳm trong thế giới của họ, đó là việc họ được nhìn nhận như thể những người Samaritanô nhân hậu19 hoặc thậm chí là những vị Thánh. Nhiều người tìm thấy ý nghĩa to lớn trong các công việc thiện nguyện như vậy. Nhưng khi họ dựa vào đó như một bằng chứng về lòng tốt của bản thân, khi họ quá chú trọng vào việc người khác nghĩ gì về mình, điều này có nghĩa họ thường vô thức chiến đấu với rất nhiều loại cảm xúc khác nhau trong mình, đặc biệt là tức giận và thù ghét.
19 Dụ ngôn ghi lại trong sách Phúc âm (Luca). Nhiều người tin rằng đây là dụ ngôn của Chúa Giê-xu được thuật lại nhằm truyền tải thông điệp khuyến khích lòng nhân ái dành cho con người, và nâng cao tinh thần của Luật pháp.
PHẢN ỨNG NGƯỢC VÀ CHUYỂN VỊ
Thông thường, những người “tử tế” như vậy dễ thể hiện sự hung hăng, thường trút sự tức giận của mình sang một người lạ, hay đổ lỗi cho các nguyên nhân xã hội, thay vì hướng vào người mà họ yêu thương. Ví dụ, các nhà hoạt động vì quyền động vật hoặc các nhà bảo vệ môi trường thường kích động các hành động bạo lực gia đình nhân danh tổ chức của họ. Cái gọi là “trái tim rỉ máu” theo chủ nghĩa phóng khoáng, họ cực kì căm ghét và phỉ báng những người bảo thủ. Điều này không phải là bôi nhọ vị trí của họ hay tầm thường hóa các giá trị của họ. Thay vào đó, nó cho thấy “lòng tốt” và lòng tận tụy của một người có thể hoạt động như một biện pháp bảo vệ một tính cách đồng thời thúc đẩy một lí tưởng.
Điều này đặc biệt đúng khi trầm cảm là một vấn đề lớn. Mặc dù có nhiều dạng trầm cảm khác nhau, nhưng một dạng nghiêm trọng của trầm cảm chính là hệ quả của những cơn nóng giận vô thức – một cảm giác muốn hủy hoại vừa đáng sợ, vừa khó chấp nhận của thân chủ. Chẳng hạn, có những con chiên ngoan đạo, luôn chăm chỉ đi Nhà thờ, là người cố gắng truyền bá và mô phỏng lại sự từ bi của Đức Chúa, thì có thể họ lại chính là người đang chiến đấu với chứng trầm cảm mãn tính do các cơn tức giận ngầm ẩn. Bởi họ không thể chịu đựng được sự phẫn nộ của chính mình, rồi từ đó phát triển một hình thức phản ứng ngược với bản tính của người tử tế. Họ có thể tránh khỏi nhận thức về sự tức giận hoặc hận thù. Tuy nhiên, họ lại biến mình thành con mồi của chứng trầm cảm.
PHẢN ỨNG NGƯỢC VÀ NỖI XẤU HỔ
Khi sự tủi hổ sâu sắc trở thành vấn đề, thi thoảng bạn sẽ thấy trong mình hình thành một phản ứng ngược với nó, có thể theo dạng trơ lì. “Trơ trẽn/vô liêm sỉ” đã trở thành một cụm từ dùng để châm trích, để công kích trong chính trị. Ví dụ: “Khi đưa ra những sự thật, ứng viên có thể chứng tỏ mình là một kẻ nói dối không biết xấu hổ.” Chúng ta cần làm rõ một điểm, đó là: Vô liêm sỉ theo nghĩa tâm động học không phải điều tương tự như cảm thấy không xấu hổ, hay thờ ơ khi người khác nghĩ rằng mình cần biết xấu hổ. Sự trơ lì ấy có nghĩa để phô trương một hành vi cụ thể, công khai thể hiện sự bất chấp một số chuẩn mực hoặc giá trị xã hội. Người đó không có cách nào khác ngoài tỏ ra mình thờ ơ, hoặc chẳng mấy tự hào về nó. Đúng hơn, hành vi trơ trẽn, vô liêm sỉ ấy thể hiện sự hình thành phản ứng của người đó trước sự xấu hổ không thể chấp nhận nổi bên trong mình.
Eliza, một trong những khách hàng của tôi, từng làm vũ công múa cột trong câu lạc bộ dành cho đàn ông. Cô ấy không phải gái mại dâm và cũng không bán dâm vì tiền. Trong những tình huống cô bắt gặp ánh mắt soi mói, phán xét, Eliza thường tìm cách tuyên bố mạnh mẽ về công việc của mình, như thể để “ném” nó vào mặt đối phương. Sâu thẳm bên trong mình, cô ấy rất mặc cảm, không phải về công việc, mà về chính cô, về cách mà cô ấy cảm thấy tổn thương. Thực chất, cô sợ bị người ngoài nhìn thấy sự thật về công việc của mình và bị họ đánh giá về nó. Trạng thái hung hăng hoặc thờ ơ trước những lời phán xét cho thấy sự hình thành một phản ứng ngược với cảm giác xấu hổ tiềm ẩn bên trong cô ấy.
Giống như tôi sẽ thảo luận trong Chương 11 nói về cơ chế phòng vệ chống lại nỗi xẩu hổ, có nhiều dạng thức của tự ái có thể được biểu hiện như một kiểu hình thành cơ chế phản ứng. Khi cảm giác xấu hổ vô thức chi phối một người, cô ấy sợ bị người khác lột trần cảm giác ấy của mình. Cô sợ sự khiếm khuyết của bản thân, thậm chí là một thứ gì đó không giống người khác. Thay vào đó, cô ấy luôn cô gắng để có vẻ ngoài xinh đẹp nhằm lấy được ánh nhìn ngưỡng mộ từ người khác.
Những người ái kỉ thường cho người khác thấy một hình ảnh lí tưởng, một vẻ ngoài giả tạo về bản thân họ. Họ muốn được chú ý, được ngưỡng mộ để giấu đi một tổn thương hoặc nỗi tủi hổ bên trong. Đây chính là ví dụ về phản ứng ngược hình thành như thế nào: Nỗi sợ hãi vô thức đã biến thành một mong cầu có ý thức.
TÔI LÀ AI, BẠN LÀ AI (2)
Một lần nữa, mục “Điều ta muốn tìm” trong mỗi chương đều nhằm giải thích các cơ chế phòng vệ có liên quan đến các vấn đề tâm lí cốt lõi của chúng ta (như đã nói trong Chương 2). Mỗi chương trong Phần II đều sẽ gồm những thảo luận như thế trước bài luyện tập, tham khảo dựa trên những Mong cầu và Sự phụ thuộc, Cảm xúc mãnh liệt và Lòng tự trọng.
MONG CẦU VÀ SỰ PHỤ THUỘC
Như đã nói trong chương trước, chúng ta đôi khi bị dẫn dụ bởi những tải thể khác như thức ăn, đồ uống có cồn và chất kích thích hơn là con người bằng xương bằng thịt. Bởi những điều đó dễ đoán hơn là lòng người. Nếu bạn biết ai đó đang phải vật lộn với những vấn đề với các tải thể vật chất này và gặp khó khăn trong việc duy trì các mối quan hệ xã hội, hoặc nếu bạn tự cho mình là một “con nghiện” theo cách này hay cách khác, thì việc thiếu đi sự ân cần, quan tâm, tử tế giữa các cá nhân có thể là một vấn đề chủ chốt. Nhu cầu chuyển đổi từ đối tượng bạn mong muốn sang một đối tượng khác. Nếu bạn thuộc Nhóm 1 và Nhóm 2, thì khả năng cao là bạn dựa theo các cơ chế phòng vệ này (chuyển vị và phản ứng ngược), theo các cách khác nhau.
Trước đây tôi đã từng mô tả quá trình này như một bước tiến mà trong đó mong cầu của con người bị phủ nhận và dồn nén. Một lần nữa, chúng ta thấy một động lực tâm lí cụ thể có thể được coi như là một cơ chế phòng vệ bằng cách này hay cách khác. Những thứ mà bạn gắn nhãn chắc chắn không thể nào quan trọng bằng chính nỗi đau nằm sâu bên trong mà bạn đang cố tránh né. Nhiều người cảm thấy rằng họ không thể chịu đựng được khi cầu tình, hoặc cảm thấy rất thất vọng khi sự cầu tình của họ với người khác không được hồi đáp.
Những vấn đề này đã trở thành trọng tâm trong các liệu pháp trị liệu tâm lí. Nếu cuộc thảo luận này tổ hợp thành một “hợp âm”, thì bạn có thể sẽ muốn nghĩ về quãng thơ ấu của mình, về cách nó hình thành và tái tạo nhân cách của bạn, và về những biện pháp phòng vệ cảm xúc bạn đã sử dụng. Cha mẹ không đem lại sự tin cậy, họ xa cách hoặc bỏ mặc bạn và điều đấy có thể sẽ khiến bạn cảm thấy không an toàn khi phụ thuộc quá nhiều vào người khác.
Sự chán ghét đôi khi phản ánh cơ chế hình thành phản ứng ngược ngay tại nơi công sở, đặc biệt khi nó được thể hiện theo một cách dữ dội và kịch tính. Trong quá trình tiến hóa, sự chán ghét/sự ghê tởm được phát triển như một cách để bảo vệ con người khỏi những tải thể, những vật chất có thể gây ra tổn thương hoặc làm hại đến họ. Ví dụ như phản ứng ghê tởm của chúng ta với phân. Rõ ràng cơ chế sẵn có này có thể được sử dụng để phục vụ cho việc phòng vệ tâm lí, để ngăn chặn những mong cầu, những ham muốn mà chúng ta sợ rằng chúng có thể làm “ô nhiễm” hay gây thương tích cho bản thân nếu ta để chúng xâm nhập.
Như đã thảo luận trước đó, kì thị đồng tính là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, trong bất kì tình huống nào khi cảm giác ghê tởm hay ác cảm xuất hiện, nó có thể là một sự phòng vệ. Người cảm thấy ham muốn tính dục là điều gì đó đáng sợ, họ có thể tránh những thôi thúc của bản thân bằng cách trở nên khắt khe và không đồng tình. Họ thậm chí còn tỏ ra ghê tởm những hành vi tính dục hiện đại, hoặc thấy chức năng sinh lí của mình suy giảm. Chẳng hạn như sự lăng nhăng bị coi là một mối nguy trong vấn đề tình cảm và sức mạnh thể chất. Một ví dụ khác là cảm giác ghê tởm hoặc khinh bỉ với những người không có khả năng kiểm soát những thôi thúc và ham muốn bên trong mình. Nếu bạn cảm thấy như vậy, rất có thể nó đã gây ra ảnh hưởng xấu đến hôn nhân hoặc các mối quan hệ của chính bạn. Những người nằm ở Nhóm 1 nên chú ý điều này.
Một người tỏ ra khinh thường hoặc coi nhẹ sự yếu đuối của người khác có thể đang cố ngăn chặn mong muốn được yêu chiều, được chăm sóc của mình. Một người phụ nữ thành đạt có thể cảm thấy khinh bỉ một bà nội trợ vì một tâm cảm vô thức nào đó – có thể là trải nghiệm của chính cô ấy về chuyện nội trợ này. Trong tất cả các trường hợp đó, khi phản ứng ngược diễn ra bên trong, bạn sẽ nhận thấy mức độ phản ứng bộc lộ ra bên ngoài của mình có vẻ khác lạ, hoặc đôi khi sẽ làm người khác kinh ngạc và khó chịu.
NHỮNG CẢM XÚC MÃNH LIỆT
Như tôi đã nói, những người gặp khó khăn trong việc bày tỏ cơn giận dữ của bản thân với những người thân thiết, thường có xu hướng trút cơn giận đó sang một người khác hoặc vật khác. Bạn sẽ thấy rằng, với chính mình và ngay cả với người khác, mức độ phản ứng của bạn dường như không khớp với tình huống hiện tại. Ai đó có thể nói với bạn, “Tôi không hiểu bạn đang tức giận vì điều gì.” Bạn có thể sẽ cảm thấy rằng phản ứng của một ai đó hơi quá đà. Cũng có lúc cơn giận phù hợp với hoàn cảnh, như “giọt nước làm tràn li”, nhưng đôi khi phản ứng có vẻ bất thường, nó biến tướng quá đà. Điều này phản ánh sự chuyển vị khỏi đối tượng thực sự của cơn tức giận, từ vợ/chồng, bạn bè hoặc người thân sang một tải thể khác, một đối tượng khác.
Tiếp nối ví dụ về “người tốt” ở đầu chương, thì “tử tế” thái quá thường phản ánh sự hình thành phản ứng ngược với sự thù ghét/sự phản kháng (không nên nhầm lẫn với tính giả tạo hoặc cố ý nói dối). Đôi khi chúng ta sử dụng các từ như “sến”, hoặc “mật ngọt” để mô tả hành vi như thế. “Giết ai đó bằng lòng tốt” cũng là cách thể hiện một cảm xúc nhằm che đậy mặt đối lập của nó. Với một người thể hiện bản thân theo cách này, bạn thậm chí cảm thấy rằng cô ấy đang ghét một điều gì đó mà bạn không thể bỏ qua. Đôi khi đây cũng có thể là một mục đích có ý thức, nhưng thường thì một người như vậy không thực biết mình đang cảm thấy gì. Điều này thường đúng với những người thuộc Nhóm 3.
Hãy thử xem lại các tình huống bạn phản ứng với những gì người khác bày tỏ, hoặc phản ứng của họ với bạn, nó sẽ khác hẳn với những gì đang diễn ra ở bề mặt. Đồng nghiệp của bạn có thường phản hồi về hành vi của bạn theo cách khiến bạn không ngờ tới không? Bạn có thường thấy mình tự nói với bản thân rằng, “Nhưng tôi không cố ý như vậy” không? Nếu để ý bạn có thể nhận ra những phán ứng vô thức thông qua cử chỉ, hành vi của họ. Phản ứng vô thức này hướng vào cảm xúc đối lập với cảm xúc mà bạn dự định thể hiện một cách có ý thức, hay chính là cảm xúc thực sự của bạn.
LÒNG TỰ TRỌNG
Những người phải đấu tranh với cảm giác xấu hổ thường chuyển hướng cảm xúc của mình ra bên ngoài, trút nó lên một tải thể khác, một người nào đó hoặc một đồ vật mà họ sở hữu. Cảm xúc dữ dội về những khiếm khuyết của bản thân có thể liên quan tới sự mặc cảm quá mức của họ về cơ thể, vẻ ngoài xấu xí, lái một chiếc xe hơi tầm thường, một căn hộ không có gì đặc biệt. Hay nói cách khác, sự xấu hổ là một điều gì đó từ sâu thẳm bên trong (con người bên trong), đối nghịch với bên ngoài (hình dáng bên ngoài hoặc vật chất họ sở hữu). Nếu bạn thấy mình có phần nào thuộc Nhóm 5, bạn có thể đang ở trong trạng thái này. Tôi sẽ nói kĩ hơn về sự xấu hổ và cách mà nó dựng lên một cơ chế phòng vệ trong Chương 11.
Bạn có thể biết một người luôn chăm chút, chỉn chu vẻ ngoài, hoặc luôn cố gắng pha trò cười tự giễu nhại mình để tạo ra phản ứng ngược. Hành vi đó thường gây ra những nứt gãy trong tình bạn, bởi người trong cuộc sẽ liên tục phải tự gồng mình lên. Có thể bạn thấy “không tự tin” về cách ăn mặc của mình, và khao khát lời khen ngợi từ người ngoài. Mặc dù chúng ta có thể hình dung về những cảm xúc và hành vi này theo nhiều cách khác nhau, nhưng dù ta biện minh cho mình thế nào, thì nỗi tủi hổ và sự tự ti là điều gì đó khó chấp nhận. Nó thể hiện một nỗi lo, nỗi ưu tư vô cùng tận của bạn về vẻ ngoài và khao khát sự ngưỡng mộ từ bạn bè, người thân.
Đối với thân chủ Eliza của tôi, những người hình thành phản ứng ngược với sự xấu hổ thường tỏ ra ngang ngược một cách trơ tráo. Khi nghe thấy một người đang khăng khăng rằng anh ta ổn và không thể có điều gì đó tồi tệ có thể xảy ra, bạn có thể đã nghĩ: “Nếu bạn không thực cảm thấy tồi tệ, tại sao cứ lặp đi lặp lại về điều đó?” Ở điểm này, chúng ta lại nhớ đến câu nói nổi tiếng của Shakespeare, như một lời cửa miệng của mọi người, đó là: “Người phụ nữ luôn thề thốt quá nhiều.” Sự hình thành phản ứng ngược với sự xấu hổ dường như là một kiểu bất chấp những thông lệ mà họ cảm thấy là thái quá.
Đến đây, bạn hãy hiểu rằng mức độ phản ứng là bất thường hoặc không phù hợp, cho thấy cơ chế phòng vệ có thể đang hoạt động. Hãy chú ý đến nó, trong chính bạn cũng như với những người xung quanh. Đồng thời, tôi thực không muốn đồng nhất hành vi của con người và loại trừ những khía cạnh đam mê khỏi những gì ta coi là “bình thường”. Thi thoảng, sự hận thù và giận dữ củng cố cho lí tưởng cao vời của bạn, nhất là khi lí tưởng đó bị coi thường. Bạn có thể cảm thấy bị miệt, bị hạ thấp khi các tiêu chuẩn của mình bị nhạo báng, đặc biệt là theo những cách thiếu suy nghĩ và bất cẩn. Nếu như đặt dưới cái nhìn hẹp hòi và khắt khe, bạn có thể tỏ ra khinh bỉ hoặc thách thức họ một cách công khai.
Một cách để phân biệt sự khác biệt này: Nếu bạn thường thấy bản thân đang tự biện minh tinh thần, nếu bạn thường xuyên trò chuyện với những tiếng nói trong đầu, bạn cố chứng minh nó sai và bạn đúng, thì có vẻ như bạn đang cố gắng tự biện minh cho một cơ chế phòng vệ tâm lí nào đó của mình. Đây có thể là sự chuyển vị hoặc phản ứng ngược mà bạn đang cố gắng củng cố, nhưng cũng có thể là cơ chế phòng vệ khác. Tôi sẽ nói kĩ hơn về hiện tượng tự biện minh cho mình trong Phần III – Giải trừ các cơ chế phòng vệ tâm lí của bạn.
Bài luyện tập số 5:
“TÔI MUỐN TRÚT GIẬN, TÔI MUỐN LÀM NGƯỢC”
1. Bạn đã bao giờ trút cơn giận của mình lên người khác một cách vô cớ chưa?
• Nguyên nhân thực sự khiến bạn tức giận là gì? Đừng tự hài lòng với lời giải thích kiểu như, “Tôi chỉ đang thấy không ổn chút thôi.” Tâm trạng xấu của một người không phải là trải nghiệm ngẫu nhiên, vô nghĩa, mà thường sau nó chắc chắn có vấn đề;
• Bạn có thể xác định lí do tại sao mình lại nén cơn giận lại và trút lên một người khác không? Đó có thể là người thân bên cạnh bạn, những người bị trút giận chỉ đơn giản là họ xuất hiện không đúng thời điểm, không đúng lúc, không đúng chỗ. Hoặc cũng có thể bạn thấy không nên bùng phát cơn giận, hoặc có mối nguy nào đó nếu trực tiếp trút cơn giận lên đối tượng gây ra nó;
• Giờ hãy tưởng tượng bạn đang thể hiện sự tức giận của mình vào đối tượng thực sự của cơn giận. Càng chi tiết càng tốt nhé. Hãy xây dựng bối cảnh và các tương tác trong không gian đó một cách chân thật nhất. Bạn có thể nói to như thể người đó đang đứng trước mặt bạn;
• Bạn có cảm thấy khó chịu hoặc lo lắng khi bày tỏ cơn thịnh nộ của mình? Nếu vậy, nó sẽ nói cho bạn biết điều gì đó về việc bạn đã trải qua cảm giác tức giận và thù ghét như thế nào.
2. Xem lại thái độ của bạn về sự thù ghét:
• Bạn có cảm thấy rằng sự tức giận là một cảm xúc hoàn toàn mang tính hủy hoại hay đôi khi cũng mang lại giái trị?
• Bạn có tìm ra cách nào là thích hợp hoặc không thích hợp để thể hiện sự tức giận không? Làm thế nào bạn phân biệt chúng?
3. Bạn có thấy mình bận tâm nhiều đến đồ ăn, đồ uống có cồn, chất kích thích hoặc cảm thấy có tâm lí nào đó thúc đẩy bạn tích trữ đồ không? Nếu vậy:
• Trong một vài trường hợp, khi bạn cảm thấy rất thèm muốn như thế, thay vì thỏa mãn các tâm đói khát này, hãy ngồi xuống và viết lại cảm giác bạn khao khát một điều gì đó cụ thể;
• Hãy tỉ mỉ và chi tiết. Hãy ghi chú và quan sát lại mọi thứ của bản thân. Bạn có nhận thấy bất cứ cảm xúc hay tâm cảm bên trong nào đang xuất tiết ra khi bạn viết không? Hãy mô tả lại những cảm xúc đó một cách chi tiết. Cố gắng kiềm chế những thèm muốn đó lâu nhất có thể.
4. Bạn có phản ứng ghê tởm hay khinh ghét nào mà khó lòng chia sẻ cùng ai, cũng không ai chia sẻ với bạn không? Sự hình thành phản ứng ngược là một trong những cơ chế phòng vệ ít phổ biến hơn, do vậy đừng ngạc nhiên khi câu trả lời là không. Nếu trong trường hợp bạn trả lời có:
• Hãy sử dụng các câu bắt đầu bằng: “Tôi ghê tởm X bởi vì...” hoặc “Tôi thấy X đáng ghét vì...” Viết một mô tả chi tiết, chính xác về điều gì đã khơi dậy trong bạn sự chán ghét hoặc khinh bỉ như thế. Bạn nên hoàn thành bài tập này trước khi đọc tiếp;
• Bây giờ bạn hãy viết lại những câu đó, thay thế tương ứng các từ chán ghét hoặc ghê tởm bằng các từ như thu hút hay hấp dẫn. Bạn có thể coi đây là bài tập vô bổ, bởi ý tưởng thay thế cảm giác ghê tởm bằng sự hấp dẫn rất khó chấp nhận với bạn, bạn cho rằng nó là phi lí;
• Hãy chú ý đến phản ứng này và mức độ bạn phủ nhận ý tưởng về sự thu hút ấy mạnh mẽ nhường nào. Đặc biệt, sự khinh thường và chế nhạo có thể khiến bạn cảm thấy cần phải tăng cường khả năng phòng vệ tâm lí của mình.
5. Bạn đã bao giờ cảm thấy cực kì bị khiêu khích về việc đưa ra một số quy tắc ứng xử theo đám đông chưa? Đó có thể là quy tắc của một tổ chức hoặc mong muốn của chính gia đình bạn. Bạn có nghĩ cho bản thân không? Bởi bạn có thể nghĩ rằng nếu mình từ chối thì mình có lỗi với họ.
• Có thể đơn giản bạn là một người độc lập, người không chịu tuân theo các chuẩn mực xã hội chưa tốt hoặc không công bằng;
• Mặt khác, nếu bạn cảm thấy cần phải thể hiện rõ “sự thờ ơ” trước sự phán xét của mình, hoặc nếu bạn tiêu tốn rất nhiều năng lượng tinh thần để biện minh cho sự bất chấp của bản thân, hãy tranh luận với những nhà phê bình tưởng tượng bên trong bạn để chứng minh rằng họ đã sai. Điều này có thể chỉ ra sự hiện diện của cảm giác tội lỗi (hoặc xấu hổ) vô thức và đau đớn. Bạn có thể né tránh nó bằng phản ứng ngược, hình thành sự trơ lì hoặc một bộ mặt thách thức tất cả;
• Hãy tạm ngừng sự hoài nghi trong giây lát, lắng xuống những tiếng nói khẳng định quan điểm của bạn trong đầu, có thể sự minh định này sẽ giúp bạn tỉnh táo hơn. Đừng cố thừa nhận điều gì với bất kì ai. Hãy cố gắng hết sức để nhìn vào bản chất của vấn đề bên trong chính bạn. Kết quả là, bạn cảm thấy thể nào?
Câu trả lời của bạn cho hai câu hỏi đầu tiên sẽ giúp bạn bình tĩnh hơn. Giống như hầu hết mọi người, bạn có thể cảm thấy không thể chấp nhận cảm giác hoặc thái độ thù ghét ai đó. Song, tôi muốn nói rằng, sự tức giận là một phần tất yếu trong cuộc sống. Nếu bạn cảm thấy đặc biệt khó chịu và không đồng tình với quan điểm này, bạn có thể đang dựa vào một cơ chế phòng vệ tâm lí để bảo vệ chính bạn. Hãy chú ý đến cách bạn cảm nhận về thực tại xung quanh những người đang nổi cơn giận dữ.
Câu hỏi cuối cùng cũng là thông điệp tôi muốn truyền tải xuyên suốt cuốn sách này, đặc biệt trong Chương 13 – Nhận ra cách bạn dựa vào các lập luận tinh thần, hoặc những suy nghĩ lặp đi lặp lại nhấn mạnh một quan điểm nhất định, qua đó để biện minh cho một cơ chế bảo vệ của thân thể. Trong tuần tới, hãy chú ý đến các suy nghĩ trong đầu bạn, để xem liệu bạn có thể xác định quá trình này là công việc hay không. Hầu hết mọi người đều biện minh cho sự phòng vệ tâm lí của mình vào lúc này hay lúc khác.