“Người phụ nữ xấu xa ấy liệu có thể sống tiếp nếu thiếu có vẻ ngoài kiều diễm như thế không?”
- Seven (phim, 1995) -
Trong tất cả những cảm xúc đau đớn tôi nhắc đến trong cuốn sách này thì nỗi xấu hổ hạt nhân là tổn thương sâu sắc nhất, khó chịu đựng nhất. Quan điểm của tôi về sự xấu hổ và nguồn gốc của nó có thể khác với cách bạn thường nghĩ, vì vậy trước khi mô tả những cơ chế phòng vệ phổ biết nhất chống lại tâm cảm này, tôi sẽ làm rõ hơn quan điểm này thông qua sự liên kết giữa sinh học thần kinh và sự phát triển sớm ở trẻ sơ sinh.
Lúc sinh ra, con người chúng ta rất dễ tổn thương và phụ thuộc vào cha mẹ của mình, nhờ họ ta mới có thể lớn lên. Quá trình trưởng thành của chúng ta phụ thuộc vào cách ta đáp ứng các nhu cầu về thể chất và tình cảm của mình. Chúng ta bước vào thế giới này bằng một loạt các kì vọng cố hữu đè nặng trên vai, rằng những đáp ứng ấy phải như thế nào. Winnicott gọi sự thừa hưởng những kì vọng này là “bản thiết kế tiêu chuẩn”26. Khi cha mẹ chấp thuận và đáp ứng được các tiêu chí của bản thiết kế đó, nó khiến ta thấy thoải mái và an toàn trong thế giới của mình và trong chính mình. Như đã thảo luận trong Chương 3, tâm cảm này là hạt nhân kiến tạo nên lòng tự trọng.
26 Donald Woods Winnicott, Clare Winnicott, Ray Shepherd và Madeleine Davis, “The basis for self in body”, in Psycho-Analytic Explorations, London: Karnac, 1989.
Trong những trường hợp phản ứng của cha mẹ khác biệt và xung đột với bản thiết kế đó – chẳng hạn như họ lạm dụng hoặc bạo hành con cái, thì đứa trẻ sẽ cảm thấy rằng có điều gì đó không ổn và không an toàn trong cái thế giới của nó nữa. Ở một mức sâu hơn, nó biết rằng sự trưởng thành hoặc phát triển của mình đã bị khuyết. Thay vì khơi dậy cảm giác về vẻ đẹp nội tại, sự lạm dụng của cha mẹ khiến đứa trẻ luôn cảm giác mình là một người khiếm khuyết và xấu xí, tự ti và tủi hổ từ bên trong.
Mặc cảm về khiếm khuyết nội tại chính là nguyên nhân sinh ra nỗi xấu hổ hạt nhân của đứa trẻ. Những trải nghiệm về nỗi xấu hổ này thường là vô thức trong nội tâm, và đứa trẻ cảm thấy bên trong nó có gì đó rất xấu xa. Chúng tin rằng nếu người khác “nhìn thấy” phần khiếm khuyết này của mình, họ sẽ khinh bỉ và ghê tởm nó
Thoạt nhìn có vẻ như tôi đang sử dụng từ xấu hổ đó theo một nghĩa riêng, đó là cảm giác hổ thẹn khi thấy mình có lỗi hoặc kém cỏi trước người khác. Nhưng tôi cho rằng từ này thực sự phản ánh một nét nghĩa khác, đó là nỗi thất vọng của kì vọng.
“Thật tiếc vì cơn mưa đã phá hỏng buổi dã ngoại của chúng ta.” Khi ngóng những ngày sắp đến, chúng ta thường có một ý tưởng trong đầu, một viễn cảnh hạnh phúc nào đó mà ta dự định sẽ làm trong chuyến đi dã ngoại. Khi thực tế không giống như những gì chúng mình mong đợi, tôi gọi đó là một sự tủi hổ. Trong trường hợp đứa trẻ sơ sinh đang tuổi ăn tuổi lớn, sự xấu hổ ban đầu xuất hiện khi chúng thất vọng vì bị cha mẹ lạm dụng và gây tổn thương. Trải nghiệm này thực sự gây ra một sự tủi hổ theo nghĩa thứ hai, và dẫn đến cảm giác xấu hổ theo nghĩa chính của từ này.
Các nghiên cứu của Allan Schore27 và các chuyên gia khác về sinh học thần kinh đã tìm ra tác động từ phản ứng của cha mẹ đến sự phát triển não bộ của trẻ, đặc biệt là những trung khu thần kinh liên quan đến cảm giác và hoạt động xã hội. Khi so sánh các bản chụp cắt lớp não bộ của những đứa trẻ hai tuổi, lớn lên trong môi trường thiếu thốn tình cảm, rằng cha mẹ thường xuyên không đáp ứng theo kì vọng cố hữu của trẻ – với những đứa trẻ lớn lên trong môi trường tối ưu, kết quả cho thấy những đứa trẻ thiếu thốn tình cảm hiển thị ít tế bào thần kinh hơn và ít kết nối hơn.
27 Allan N. Schore, Affect Regulation and the Origin of the Self: The Neurobiology of Emotional Development, Mahwah: New Jersey, 1994.
Hay nói cách khác, một môi trường sống khác xa với “bản thiết kế tiêu chuẩn”, sẽ không cung cấp đủ những phản ứng cảm xúc mà trẻ sơ sinh cần. Do vậy, não của chúng sẽ phát triển bất thường, tương tự như sự thiếu hụt Vitamin D có thể cản trở sự phát triển bình thường của xương, gây ra chứng còi xương. Sau hai năm, những phát triển não bất thường đó ngày càng kéo dài và không thể bù đắp được trong quá trình nuôi dạy trẻ sau này.
Một lần nữa, cũng giống như bệnh còi xương, nếu không khắc phục được tình trạng thiếu Vitamin D sẽ dẫn đến tổn thương xương vĩnh viễn, não của những đứa trẻ thường xuyên bị cha mẹ gây tổn thương, sẽ hình thành khiếm khuyết bên trong và khiến chúng mất khả năng kết nối tình cảm với người khác.
Nỗi xấu hổ hạt nhân là nhận thức (thường là vô thức) về những khiếm khuyết bên trong, được cảm nhận ở tầng sâu nội tâm của mỗi người
Để diễn đạt ý tưởng này dưới góc độ của những vấn đề tâm lí cốt lõi (Chương 2), ta thấy rằng muốn đứa trẻ phát triển bình thường, thì cha mẹ cần tuân theo xu hướng đáp ứng nhu cầu của đứa trẻ, giúp chúng học cách quản lí cảm xúc của mình bằng những kết nối đầy yêu thương và vui vẻ. Đây là những điều kiện cần để trẻ phát triển lành mạnh, cả về cảm xúc lẫn hệ thần kinh. Khi cha mẹ không thể đáp ứng được điều này, đứa trẻ sẽ không thể phát triển một cách bình thường. Khi lớn lên, chúng sẽ luôn ý thức rằng bên trong mình có khiếm khuyết và luôn có vấn đề gì đó không ổn.
Chúng ta không cần một môi trường sống hoàn hảo ngay khi sinh ra, chỉ cần một môi trường “đủ tốt” theo định nghĩa của Winnicott. Khi chúng ta di chuyển dọc theo phạm vi các khả năng của từ “đủ tốt” sang các môi trường hạn chế hơn, lạm dụng và thiếu thốn, những khiếm khuyết đó ngày càng tác động và gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của trẻ. Nỗi xấu hổ hạt nhân cũng sẽ tăng cấp cùng với sự thiếu thốn đó. Trải nghiệm ban đầu càng thiếu hụt, càng không đầy đủ, thì cảm giác tổn thương càng lan rộng, và do đó nỗi xấu hổ hạt nhân sẽ càng lan rộng. Những cảm giác này sẽ đi theo trẻ suốt cuộc đời.
Ngay cả khi môi trường ban đầu bình thường thì đứa trẻ vẫn có thể nảy sinh tâm lí xấu hổ, nếu cha mẹ làm chúng thất vọng hay không đáp ứng kì vọng của chúng. Có thể ranh giới giữa người mẹ và con bị nhầm lẫn, và cha mẹ khó có thể tách rời nhau. Người mẹ có thể rơi vào trạng thái lo lắng hoặc trầm cảm đến mức không đáp ứng được kì vọng của con mình. Trong những trường hợp này, ở khoảng giữa mức “đủ tốt” và mức thiếu hụt cao, cảm giác thiệt thòi có thể ít nghiêm trọng hơn và cảm giác xấu hổ của trẻ cũng vậy. Những khiếm khuyết bên trong và sự phòng vệ tâm lí của chúng ta trước nỗi xấu hổ này sẽ không ảnh hưởng quá lớn đến tính cách của chúng ta.
Theo kinh nghiệm của tôi, rất nhiều người có nỗi xấu hổ hạt nhân. Những người vật lộn trong tâm cảm này thường dựa vào ba cách phòng vệ tâm lí phổ biến để tránh đối diện với nó, là: (1) Tự ái, (2) Đổ lỗi và (3) Kiêu mạn28. Tôi đã thử liên kết ba biện pháp phòng vệ này với nhau và kết nối chúng với sự tự ti hay nỗi tủi hổ, tôi thấy rằng chúng luôn song hành cùng nhau. Lòng tự ái là phương pháp đầu tiên (trong vô thức) để chống lại sự tủi hổ này. Nhiều người đang vật lộn với tâm lí tự ái thường gặp khó khăn trong việc đối diện với sai lầm và có xu hướng đổ lỗi cho người khác. Họ thường phóng chiếu những khiếm khuyết của mình và cảm thấy chỉ người khác mới có lỗi, còn họ thì không. Tôi sẽ nói rõ về từng cơ chế phòng vệ này.
28 Bạn sẽ không tìm thấy bộ ba này trong danh sách các cơ chế bảo vệ tâm lí phổ biến nhất của Anna Freud, mặc dù đổ lỗi có thể được coi là một hình thức phủ nhận. (Tôi chẳng làm gì sai cả, lỗi tại bạn.) Melanie Klein coi sự kiêu mạn như một kiểu phòng vệ, chống lại nhận thức về nhu cầu thay vì xấu hổ. Andrew Morrison, dựa trên tác phẩm của Heinz Kohut, đã viết rất sâu về lòng tự ái như một phản ứng đối với cảm giác xấu hổ ngầm ẩn, mặc dù ông quan niệm về sự xấu hổ theo cách khác với quan điểm của tôi được trình bày ở đây.
CƠ CHẾ PHÒNG VỆ (11): CHỨNG ÁI KỈ
“Người phụ nữ xấu xa ấy liệu có thể sống tiếp nếu thiếu có vẻ ngoài kiều diễm như thế không?” Đoạn trích này nói về một người luôn tránh đối diện với khiếm khuyết bên trong mình và giấu nó đi bằng một vẻ ngoài hoàn hảo. Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Oscar Wilde, Dorian Gray’s portrait (Bức chân dung của Dorian Gray, bị che khuất khỏi tầm nhìn của công chúng) phản ánh nội tâm đáng ghê tởm của nhân vật, trong khi bề ngoài anh ta vẫn trẻ trung và đẹp trai đến khó tin. Vẻ ngoài đẹp đẽ che đậy một con người xấu xí bên trong, đây cũng chính là cách phòng vệ của lòng tự ái. Bên trong thì xấu xa, bên ngoài thì lí tưởng và đẹp đẽ.
Mặc dù chúng ta quen thuộc hơn với kiểu người tự yêu mình quá (chứng ái kỉ) – người luôn coi trọng vẻ ngoài và luôn muốn được người khác thừa nhận. Nhưng ta cũng có thể thấy rằng việc lí tưởng hóa tính cách của một người trước đám đông cũng được coi là một cách để tránh đổi diện với sự tủi hổ này. Tôi đã đưa ra một số ví dụ trong Chương 7, và thảo luận về cơ chế lí tưởng hóa như một biện pháp phòng vệ tâm lí. Cho dù giàu có, thành công, nổi tiếng, sành điệu, hào nhoáng thì họ cũng sẽ cố gắng để có một vẻ ngoài lí tưởng và hoàn hảo. Dường như họ đang nói với đám đông rằng: “Hãy nhìn tôi. Ngưỡng mộ tôi đi. Ghen tị với tôi đi.” Ở bên dưới lớp vỏ ấy là một cái tôi xấu ác và đáng xấu hổ mà họ không muốn bất cứ ai nhìn thấy.
Trên trang web và trong các video YouTube của tôi, tôi thường sử dụng bộ phim Avatar như một phép ẩn dụ cho việc cái tôi được lí tưởng hóa, và dẫn đến sự hư cấu hay giả dối. Cũng giống như nhà phân tâm học nổi tiếng Freud đã sử dụng huyền thoại về chàng Narcissus – một thanh niên Hi Lạp yêu hình ảnh phản chiếu của chính mình – để làm sáng tỏ một hiện tượng tâm lí mà sau đó ông đặt tên là chứng ái kỉ. Tôi sử dụng bộ phim Avatar như một minh chứng để làm sáng tỏ cơ chế phòng vệ này.
Mở đầu bộ phim, Jake Sully đã bị chấn thương tủy sống nặng khiến anh liệt nửa người. Không còn khả năng hoạt động như một lính thủy đánh bộ, Jake tình nguyện tham gia một nhiệm vụ quân sự chuyên biệt tới hành tinh Pandora. Ở đó, thông qua phép màu của công nghệ, anh ta học cách liên kết tinh thần và tồn tại thông qua một hiện thân trên hành tinh đó.
Trái ngược với con người bị bại liệt của mình, hiện thân đó khỏe mạnh, cao lớn, có sức mạnh thể chất và sự nhạy bén vượt xa con người bình thường. Hóa thân vào bản thể này giúp Jake không chỉ lấy lại các chức năng mà anh đã mất, mà còn vượt qua tiềm năng con người. Trải nghiệm của Jake trên Pandora cuối cùng đã cho thấy anh ấy muốn được sống ở đây hơn là quay trở về với thực tại của mình. Cuối phim, anh ta tìm cách thay đổi hiện trạng của bản thân và vĩnh viễn sống tại vương quốc của bản thể Na’vi siêu việt.
Giống như Jake Sully, thân chủ của tôi, David khao khát một danh tính mới, ưu việt hơn để che giấu con người thật đầy khiếm khuyết của mình. Cách đây vài năm, khi các dịch vụ trò chuyện online xuất hiện, anh ấy luôn bị ám ảnh bởi những mối quan hệ trực tuyến. Là một người đàn ông ngoài 30, thấp béo và có một thân thể xấu xí, David luôn tự ti về mình. Gia đình của David cũng rất lộn xộn. Mẹ anh đã tự tử khi anh đang ở những năm cuối trung học, sau đó không lâu, anh cũng bỏ ngang đại học. David chưa từng có một công việc đúng nghĩa nào, ngoài việc giúp cha và mẹ kế làm một vài việc vặt.
Mặc dù luôn khao khát có một tình yêu sâu sắc, nhưng David chưa bao giờ cố gắng phát triển một mối quan hệ thực sự. Thay vào đó, anh biến mình trở thành một người đàn ông ưu tú, cực kì hấp dẫn và thành công trong cộng đồng những người đồng tính. Anh thường giao du với những người này, cố gắng giành tình cảm và sự yêu mến của họ. Đôi khi, anh ta cũng bị lợi dụng, và điều đó khiến David có chút bất bình. Nhưng rồi sau tất cả chỉ có đổ vỡ, David lại trở về trong nỗi bất hạnh và cô đơn.
Khi khám phá ra các phòng trò chuyện online, David đã tìm thấy cách để trở thành người mà anh luôn ao ước (ít nhất là trong ảo tưởng). Hầu hết các hình tượng trên mạng xã hội đều như vậy, David cũng vẽ lên một con người mới cho mình. Có một David khác trên mạng, trẻ hơn, cao hơn và rắn rỏi hơn ngoài đời. David ấy còn có cả một sự nghiệp lừng lẫy, lái những chiếc xe đắt tiền, ở trong biệt thự xa hoa. David trên mạng trực tuyến có tất cả.
Thường các mối quan hệ như vậy sẽ phát triển dần dần, từ trò chuyện trực tuyến sang xin số rồi gọi điện thoại. Bởi vậy David rất vui khi được “gặp gỡ” những người lạ và làm quen với họ qua những cuộc điện thoại kéo dài hàng giờ đồng hồ. Khi đến lịch gặp nhau, anh ấy sẽ cố gắng trì hoãn không gặp càng lâu càng tốt. Cho đến khi anh ngừng gọi lại và biến mất khỏi cuộc sống của đối phương, hoặc tỏ ra xấu hổ và cầu xin khi sự thật bị phơi bày.
David phải chịu đựng tất cả sự tủi hổ và tự ti sâu thẳm này. Bởi anh ta không thể nào đối diện với sự tủi hổ đó và cảm giác tự ti về sự thiệt thòi của bản thân, anh ta thấy rằng mình chẳng hề xứng đáng với mối quan hệ nào. Thay vào đó, anh ta biến một David xấu xí, hư hỏng thành một David thành đạt và hấp dẫn. Giống như Jake Sully đã bỏ lại bản thân đầy rẫy những tổn thương của mình và nấp sau một con người mới đầy lí tưởng và tươi đẹp.
Ở một mức độ nào đó, David đã ý thức được sự ảo tưởng của mình. Những người ái kỉ phòng vệ thành công thường ít khi nhận ra cái tôi mà mình thể hiện với thế giới là hư cấu, là huyễn hoặc, một sự trốn tránh những khiếm khuyết của bản thân. Cuối cùng David biết rằng anh ta không thể tiếp tục giả vờ như vậy nữa. Bởi con người ảo tưởng của anh ta đã bị thổi phồng lên quá mức, lời nói dối sẽ bị vạch trần một khi đối phương gặp anh ngoài đời thực. Những người ái kỉ thường có khả năng lừa dối chính mình và những người xung quanh, vào bất cứ lúc nào, bất cứ tình huống nào.
***
Khi Freud lần đầu tiên bắt đầu thảo luận về chứng ái kỉ, ông xem nó như một dấu hiệu của bệnh tâm thần, sự thờ ơ và lãnh đạm với người khác. Ông cho rằng những người ái kỉ chuyển tất cả vấn đề vào bên trong họ. Nhưng cuối cùng, ông nhận ra rằng ái kỉ là một phần trong trải nghiệm hằng ngày của con người.
Người ái kỉ luôn quan tâm đến bản thân, coi trọng bản thân và cảm thấy chắc chắn rằng việc người khác cũng sẽ yêu quý mình là bình thường. Tính ái kỉ này thường là hạt nhân của sự tự trọng và tự tin. Khi nó trở nên cực đoan, trở thành một kiểu phòng vệ cảm xúc, chứng ái kỉ lại thể hiện ra dưới dạng kiêu ngạo hoặc tự phụ. Họ luôn tin rằng mình tốt đẹp, mình là nhất rồi, và họ có đầy đủ tố chất để chứng minh điều đó.
Những người ái kỉ cảm thấy cần liên tục thể hiện thế mạnh của họ. Họ sống trong một mối quan hệ với cả những khán giả thực tế và tưởng tượng của mình, một nhóm người ghen tị và ngưỡng mộ họ. Thông qua hành động và những điều mình nói, người ái kỉ có thể khôn khéo (hoặc không) thông báo với bạn rằng bạn thua kém họ. “Tôi thông minh hơn anh, tôi kiếm nhiều tiền hơn anh, tôi biết nhiều người nổi tiếng hơn anh. Tôi thú vị hơn, quyến rũ hơn và lôi cuốn hơn”, dạng như vậy.
Sự tự ti và tổn thương bên trong luôn đòi hỏi một sự bù đắp liên tục từ bên ngoài. Những người ái kỉ cũng mong bạn chú ý đến họ như thế. “Hãy nhìn tôi này, lắng nghe tôi này.” Bạn có thể quen với những người thích khoe thân, đặt mình ở vị trí trung tâm hoặc sử dụng lợi thế ngoại hình để gợi lên ham muốn. Tuy vậy, có nhiều tuýp người ái kỉ khác nữa29:
29 Tham khảo cuốn sách khác của tác giả Joseph Burgo, Kẻ Ái kỉ Cô độc: Đi vào thế giới ẩn giấu trong trái tim, iBooks & NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2021.
• Kẻ chán ghét xã hội luôn nói về bản thân và không quan tâm đến bất kì ai khác;
• Người hướng ngoại cực đoan, thường khá quyến rũ, người chiếm ưu thế trong cuộc trò chuyện bằng những câu chuyện phiếm tầm phào. Quan trọng là được ở vị trí trung tâm;
• Nghệ sĩ hay vận động viên, họ liên tục phô diễn khả năng và muốn bạn phải thừa nhận,...
Đối với tất cả những người ái kỉ, mục tiêu của họ là độc chiếm sự chú ý của người khác. Họ đòi hỏi sự quan tâm và ngưỡng mộ bởi họ thấy mình khiếm khuyết, mình xấu xí và vô giá trị.
CÁI TÔI TỰ TI PHÌ ĐẠI
Những người đấu tranh với sự tự ti bên trong thường mong muốn mình trở thành một hình mẫu lí tưởng, để loại bỏ và thoát khỏi cái cảm giác tổn thương ấy. Họ luôn muốn bản thân mình hoàn hảo và khi không được đáp ứng điều này, họ sẽ sinh sự với những người xung quanh.
Có lẽ bạn đã từng nghe đến khái niệm cái siêu-tôi (hay còn gọi là siêu ngã) của Freud. Cái siêu-tôi là những điều mà bản thân ta quan sát, đánh giá và phán xét, đại khái là tiếng nói của đạo đức bên trong chúng ta, hay chính là “lương tâm”. Trong tiếng Đức, Freud đã đặt ra một thuật ngữ giành riêng cho khái niệm này Ü ber-ich, một từ ghép có nghĩa là điều gì đó vượt xuất khỏi cái-tôi thông thường. Nó gợi lên cảm giác chúng ta đang bị theo dõi và phán xét từ phía trên. Quả là một cái-tôi phì đại.
Thuật ngữ này ngày càng trở nên thông dụng và là một phần trong những điều ta biết về tâm lí con người. Hầu hết chúng ta đều hiểu khi ai đó nhắc đến cái siêu-tôi xù xì, cay nghiệt, nhẫn tâm. Những người vật lộn với sự tự ti bên trong thường sẽ có một vài kiểu tính cách rất dữ dội (có thể cầu toàn một cách thái quá). Cái giá phải trả cho việc mất đi sự hoàn hảo này đôi khi là cảm giác căm thù tột độ đến mức tàn bạo.
Để diễn đạt nó bằng ngôn ngữ gần với trải nghiệm thực tế hơn, chúng ta có thể cảm thấy như là: một kẻ thua cuộc, một kẻ hư hỏng và đồ vô giá trị.
Tâm lí tự ti ùa về khiến cho chính người đó thấy sợ hãi và coi thường chính mình. Đối với những người ái kỉ thì việc này chẳng khác nào một nhát dao chí mạng, nó khiến họ đau đớn và từ đây mới hình thành nên cơ chế phòng vệ cảm xúc, nhằm né tránh nỗi đau đó xảy ra.
Đổ lỗi
Sự kết hợp giữa cảm giác xấu hổ và sự đổ lỗi là rất tự nhiên. Những người cố gắng tỏ ra hoàn hảo sẽ cảm thấy bị đe dọa và không muốn phải nghe chỉ trích từ người khác. Bởi vì cái giá phải trả cho “sự thất bại” hoặc sự không hoàn hảo là lòng căm thù bản thân một cách thái quá. Họ sẽ cố gắng loại bỏ những chỉ trích về mình và đổ lỗi cho những người xung quanh.
Một trong những thân chủ của tôi, cô Holly thường sử dụng phương pháp phòng vệ này, đặc biệt là trong mối quan hệ với chồng cô, Eric. Sau những trận cãi vã (thường do sự thù ghét và khiêu khích từ phía cô), Holly sẽ dành hàng giờ để tìm ra lỗi lầm của Eric trong lúc cãi nhau cho tới khi buộc Eric phải nhận lỗi mới thôi.
Sâu thẳm trong mình, cô ấy cảm thấy xấu hổ và tội lỗi khi “điên cuồng” khiêu khích cãi vã như vậy. Trong các buổi trị liệu với tôi, chúng tôi đã cùng nhau xem xét kĩ những chuyện đó để chỉ ra cho cô ấy điểm khiếm khuyết của mình. Tôi thở dài thườn thượt, tỏ ra đau khổ theo cách mà cô ấy nói với chồng: “Eric đó.” Holly cảm thấy thật khó để thừa nhận lỗi sai của mình, và điều này càng khiến cô ấy thấy khỉnh bỉ bản thân hơn.
Holly nhìn nhận vấn đề theo khía cạnh đúng - sai (trắng - đen). Một mặt cô ấy hoàn toàn đúng và Eric là kẻ đáng trách. Mặt còn lại cô ấy chẳng khác nào một kẻ ngoa ngoắt và đáng khinh. Giống như những người theo chủ nghĩa hoàn hảo khác, cô ấy đã trải qua một khoảng thời gian vô cùng khó khăn để nhận ra điều gì đang diễn ra. Suốt khoảng thời gian dài, hầu như cô ấy chẳng thể rút ra cho mình chút kinh nghiệm nào.
Hầu hết những người cầu toàn hoặc khắc nghiệt đều cảm thấy khó tin rằng sự phát triển đó có thể diễn ra từng chút một theo thời gian. Giống như Holly, họ tránh nhận lỗi về mình và không muốn thừa nhận rằng mình đã gây tổn thương cho người khác. Vì lí do này, họ luôn gặp khó khăn trong việc học từ những kinh nghiệm của bản thân, thay vào đó, họ lại tiếp tục tự hạ thấp hoặc dằn vặt chính mình.
Khinh thường người khác
Một thân chủ khác tên là Ian, anh ấy là một bác sĩ trị liệu tập sự. Ian lắng nghe cẩn thận những nhận xét mà tôi nói với anh và thường thắc mắc: “Tại sao tôi biết được điều ông nói là đúng? Có thể ông đúng thật, cũng có thể điều khác đúng chứ.” Ở bề mặt, những nhận xét đó có tính trung lập, nhưng ở một khía cạnh khác, tôi cảm thấy sự khinh thường của anh ấy với tôi. Ian có thói quen “phản hồi” lại những điều tôi nói bằng cách diễn đạt của riêng anh ta, với một thái độ khinh khi và cái nhếnh mép rất khó chịu. Anh ấy có lúc nói chuyện với tôi như thể tôi là một thằng ngốc. Tôi thường xuất hiện trong giấc mơ của Ian như một cái gì đó rách nát, bẩn thỉu hoặc khiếm khuyết. Chính cảm giác tự ti, xấu hổ bên trong đã khiến anh ấy cố biến tôi trở thành một kẻ thất bại thảm hại.
Bạn có thể quen một ai đó giống như Ian, một người nào đó luôn thấy mình vượt trội hơn những người xung quanh và rất khéo léo biến bạn trở thành một tên ngốc. Đối với những người ái kỉ, mục đích của họ là luôn thấy mình trên cơ người khác, có nghĩa là họ cho rằng mình luôn là người chiến thắng, còn đối phương là kẻ thất bại. Tất cả những người ái kỉ đều rất hiếu thắng. Họ cần liên tục chứng tỏ mình là người chiến thắng và họ xuất sắc hơn người. Cảm giác tự mãn, hơn người và thái độ khinh thường người khác đều có trong kiểu người này.
Bằng cách đánh bại đối phương, người ái kỉ “chứng tỏ” rằng anh ta đã thành công trong việc thoát khỏi cái khiếm khuyết không mong muốn bên trong của mình. Cảm giác khinh thường và sỉ nhục kẻ thất bại chỉ nhằm để khẳng định bản thân và lí tưởng hóa hình ảnh của anh ta. Có thể nói rằng, người ái kỉ thường phủ nhận sự tự ti của họ và muốn phóng chiếu điều đó vào người khác, để chiếm thế độc tôn.
Chán ghét bản thân
Khi sự xấu hổ và tự ti hoàn toàn chi phối cách chúng ta hành xử, khi những tổn thương bao trùm và chực chờ rỉ máu, thì các cơ chế phòng vệ thông thường sẽ không giúp ích được gì cả. Chúng ta có thể thấy mình không thể chống lại sự thật bằng việc tự lừa mình để xoa dịu nỗi đau. Giống như thân chủ của tôi, David, những người như anh ấy có thể tìm cách giải thoát bằng việc ảo tưởng về mình và không muốn quay về thực tại. Họ biến mất vào trong các câu chuyện ngôn tình, những bộ phim để trốn tránh sự tủi hổ lẫn khiếm khuyết của bản thân. Bạn có thể nghĩ đó là một dạng của chứng ái kỉ.
Những người ôm trong mình tâm lí tự ti đó thường phải vật lộn với lòng cảm ghét bản thân rất nhiều. Họ đau khổ dưới lớp vỏ hoàn hảo, vượt trội mà họ cố tạo ra, rồi tự mình dằn vặt bản thân vì không thể hoàn hảo được như thế. Trong đôi mắt của họ, dường như chỉ tồn tại hai kiểu người: Kẻ thua cuộc kém cỏi, khiếm khuyết, và con người lí tưởng mà họ hằng ao ước được trở thành. Một bên là Người đẹp, một bên là Quái thú. Một bên là sáng rỡ, một bên là tối tăm. Họ cũng chỉ luôn nhìn thế giới bên ngoài theo cùng một khía cạnh với hai loại người: Người chiến thắng và Kẻ chiến bại.
Mặc dù những người như vậy dường như chẳng có chút tự vệ nào, họ sa lầy trong vũng bùn của sự tự ti, cảm giác tủi hổ và căm hận chính mình, nhưng vẻ ngoài hoàn hảo mà họ tạo ra là cái phao duy nhất cứu vớt họ. “Tôi có thể là kẻ thất bại đáng khinh, ít nhất thì tôi đủ biết tại sao mình lại căm ghét bản thân mình đến vậy. Tôi không ngu mà chấp nhận con người thật của mình.” Những tiếng nói bên trong đầy khinh miệt và cay nghiệt thể hiện sự khinh thường của họ với chính mình. Sự khinh thường này, như đã nói ở phần trước, đóng vai trò như một biện pháp phòng vệ chống lại tâm lí tự ti và tủi hổ.
Khái niệm này có vẻ hơi khó hiểu. Trong trị liệu, thân chủ của tôi sẽ mô tả việc họ phải chịu đựng cái tâm cảm cầu toàn đó như thế nào, giống như họ sống dưới một chế độ thối nát và tàn nhẫn. Đây cũng là thách thức để giúp họ thấy rằng, kẻ độc tài tàn ác cũng là một phần con người họ, phần mà họ muốn phủ nhận, muốn chôn vùi, thay vào đó, là một tâm lí luôn mong cầu sự hoàn hảo. “Ta là Thượng Đế, vị Thần quyền năng. Ta coi khinh những kẻ thất bại!”
Họ phủ nhận cái tâm lí muốn hoàn hảo của mình, từ chối đối diện với sự tự ti bên trong, từ đây nảy sinh ra những tâm lí khác. Việc hoàn toàn phủ nhận, căm ghét bản thân là biện pháp phòng vệ cuối cùng để họ có thể chống lại tâm lí tự ti và sự tủi hổ.
TÔI LÀ AI, BẠN LÀ AI (8)
Mặc dù chương này sẽ liên quan nhiều đến các độc giả của Nhóm 5 và 6, tuy nhiên nhiều độc giả khác cũng sẽ phải vật lộn với tâm lí tự ti bên trong, dù họ có sử dụng phương pháp phòng vệ nào đi chăng nữa. Môi trường sống của chúng ta (thường là vô thức) bị tổn hại sẽ dẫn đến tâm lí tự ti sau này. Thậm chí khi cha mẹ chúng ta không hề cay nghiệt hay lạm dụng ta lúc bé. Chắc chắn mọi thân chủ của tôi đều phải vật lộn với tâm lí này. Ai cũng có nỗi tự ti bên trong mình, chỉ là lúc này hay lúc khác.
NHU CẦU VÀ SỰ PHỤ THUỘC
Những người mang tâm lí tủi hổ và tự ti có thể cảm thấy e ngại về những mong cầu trong họ. Họ có thể tin bên trong họ là tiếng nói rằng những mong ước đó là xấu xa. Bởi họ cảm thấy mình tổn thương, cảm thấy mình không xứng đáng. Họ cảm thấy mình không xứng để bắt đầu một mối quan hệ, hoặc sẽ phó mặc mình trong những mối ràng buộc khác bằng việc hạ thấp hay khinh thường đối phương. Những người này thường bị coi như không có phẩm giá hoặc cực kì tự ti (Nhóm 6).
Ngược lại, người luôn che giấu kĩ càng tâm lí tự ti và tủi hổ này có thể tìm một đối tượng để trút bỏ tâm cảm của họ. Hay nói cách khác, khi bị tổn thương thì nỗi hổ thẹn đó sẽ được phóng chiếu sang một người khác – một người đóng vai trò kẻ thất bại trong mối quan hệ với họ.
Tuy nhiên, trong những trường hợp này, sự thù ghét và khinh bỉ bản thân có lẽ sẽ không rõ ràng như trong các ví dụ trước đó. Sự khinh thường có thể xuất hiện xung quanh sự phụ thuộc của những người yếu thế hơn, họ có thể xoáy vào sự yếu đuối để khinh miệt và chê bai đối phương. Những độc giả của Nhóm 5 có thể dễ rơi vào những trạng thái quan hệ này.
NHỮNG CẢM XÚC MÃNH LIỆT
Đối với những người đầy sự tủi hổ bên trong mình thì tâm lí thường trực trong họ là sự đố kị. Sự đố kị của họ cũng giống như một thứ chất độc, dù nó thường không được bộc lộ ra bên ngoài. Sự đố kị độc hại đó có thể xuất hiện dưới dạng một lời khen tặng giả dối hoặc những so sánh tự ti lặp đi lặp lại khiến người nghe khó chịu. Những người đố kị cũng có thể kể vài câu chuyện nhỏ nhặt về đối tượng mà họ hướng đến. Bạn có thể dễ dàng nhận ra điều này, dù là những câu chuyện hài hước nhưng ẩn sâu trong đó là những lời phán xét mang cảm giác thù hằn và công kích.
Đối với những người cực kì tự ti, khi một ai đó hài lòng về điều gì, họ có thể trở nên bứt rứt không sao chịu được (Nhóm 6). Khi thấy ai đó hạnh phúc, họ có thể nảy sinh một nỗi ghen tức dữ dội. Họ có thể tránh việc tụ tập đông người để không phải đối diện với những cảm xúc đau đớn ấy. Điều này có nghĩa họ sẽ muốn tiếp xúc với những đối tượng ít gợi lên trong họ sự đố kị, ghen ghét.
Cảm giác hối hận cũng có thể khiến họ không chịu đựng nổi. Bởi những kì vọng cầu toàn và khắc nghiệt bên trong khiến họ phải vật lộn với sự tủi hổ, và có thể đánh mất mình khi mắc lỗi hay vô tình làm tổn thương người khác. Họ nghĩ rằng mình thật vô dụng và đáng khinh khi đối diện với những lỗi lầm của mình. Họ càng thu hẹp mình lại, họ càng dằn vặt mình vì những thất bại của bản thân.
Ngược lại, những người ái kỉ có thể sẽ cố khơi dậy cảm giác đau đớn hoặc ghen tị, tội lỗi ở người khác. Họ làm như vậy không chỉ để thuyết phục rằng họ ưu việt và tốt đẹp hơn, mà còn để giúp mình tránh khỏi những cảm xúc đau đớn. Bởi vậy họ mới phô trương, có thể là tài sản hoặc một đức tính nào đó. Sự phô trương ấy phóng chiếu đến những người xung quanh, nhằm trút bỏ cảm xúc không mong muốn của bản thân (Nhóm 5).
Những người ái kỉ thường không thể chịu đựng được cảm giác hối hận. Họ phải luôn đúng. Họ thường cố gắng làm cho vợ/chồng, người thân hay bạn bè phải cảm thấy có lỗi và cắn rứt lương tâm: “Anh nên cảm thấy tệ về mình bởi anh thực sự rất xấu xa.”
LÒNG TỰ TRỌNG
Toàn bộ chương này đã tập trung vào các vấn đề về sự tủi hổ và lòng tự trọng của một người. Mặc dù tôi đã thảo luận về ba tâm lí cốt lõi có liên quan đến những người trong nhóm 5 và Nhóm 6, nhưng có thể nhiều người cũng sẽ thấy mình cũng có những cơ chế phòng vệ tâm lí này.
Bài luyện tập số 11:
TÔI ĐANG CHỐNG LẠI NỖI TỰ TI VÀ XẤU HỔ TRONG MÌNH
Bởi sự xấu hổ là một trải nghiệm rất nặng nề nên có thể bạn sẽ thấy những bài luyện này khó hơn bình thường. Nó có thể sẽ có nhiều điều cần nghĩ hơn các bài của chương trước.
Nếu bạn gặp khó khăn trong việc hoàn thành nó, hãy cứ để đó rồi quay lại làm nốt sau. Dù thế nào đi chăng nữa, cũng đừng bỏ quên bài luyện này.
Hãy thử nhớ lại một cảm giác khi bạn thấy “bùng cháy”. Bạn có thể đã tránh đi ánh mắt của ai đó, mặt và đầu nóng ran, và thậm chí đã muốn “chui xuống đất”. Các triệu chứng này có thể là biểu hiện của sự xấu hổ.
1. Điều gì đã xảy ra khiến bạn cảm thấy như vậy? Có vẻ như điều gì đó vừa được tiết lộ về bạn mà bạn không muốn người khác nhìn thấy?
Hãy mô tả lại điều mà bạn nghĩ đã bị tiết lộ. Bạn có cảm thấy điều gì đó tiêu cực về tính cách của mình hoặc tổng thể con người bạn khi bí mật đó bị tiết lộ hay không?
2. Có người nào khiến bạn thấy thua kém khi so sánh với họ không? Chắc chắn không phải vì những điều họ nói hay làm, chỉ đơn giản vì họ vốn như thế? Điều gì khiến bạn cảm thấy như vậy?
3. Bạn có nghĩ về người chiến thắng và kẻ thua cuộc trong cuộc sống này không? Nếu có, làm sao xác định được bạn là người chiến thắng hay kẻ thua cuộc? Làm thế nào mà bạn định nghĩa được cụm từ “chiến thắng” này? Bạn cảm thấy thế nào về nhóm người còn lại – những kẻ thua cuộc?
4. Lần tới khi bạn đến một bữa tiệc hoặc một số hoạt động xã hội khác, nơi bạn gặp một người mới:
• Hãy chú ý đến cách bạn giới thiệu bản thân. Hầu hết chúng ta đều muốn thể hiện những mặt tốt nhất của mình, nhưng nếu nó vượt quá mức đó, nếu bạn thấy mình đang phô trương và cố khiến cho mình tốt đẹp, thì có thể bạn đang rất tự ti. Một mặt là che đi những điều riêng tư và nhạy cảm về mình, mặt khác là thổi phồng về bản thân như một lời nói dối.
• Bạn đã bỏ sót điều gì? Hãy tưởng tượng bạn đang kể điều đó với một người bạn mới gặp. Bạn sẽ cảm thấy thế nào khi kể về điều đó? Bạn tưởng tượng người kia sẽ phản ứng như thế nào với những gì bạn đã nói (ngay cả khi họ giấu nhẹm câu trả lời đó)?
• Lắng nghe cách người khác mô tả về mình. Bạn có thể gặp một người luôn nói về cuộc sống tuyệt vời của cô ấy hoặc một cuộc sống mà cô ấy có tất cả trong tay. Người đó khiến bạn nghĩ gì về họ, và về bản thân bạn? Bạn có đấu tranh để xua đuổi cảm giác tự ti? Có thấy sự ghen tị nổi lên không?
5. Khi tranh luận với bạn bè, đồng nghiệp hoặc đối tác, bạn cảm thấy khó khăn như thế nào để thừa nhận mình có lỗi hoặc sai? Hầu hết mọi người đều thấy đây là một thử thách khá lớn, vì vậy đừng quá khắt khe với bản thân.
• Xem xem có bao giờ bạn thấy mình đổ lỗi cho người khác trong khi chính bạn mới là người có lỗi hay không?
• Bạn có hiểu tại sao việc mình phải đúng lại quan trọng với bản thân mình thế không? Điều gì đang đe dọa và ngăn bạn thừa nhận lỗi lầm?
• Bạn đã bao giờ nói dối để che đậy điều gì đó khiến bạn xấy hổ, rồi tiếp tục dằn vặt mình vì điều đó không? Điều gì sẽ hé lộ về con người bạn nếu sự thật ấy bị phơi bày? Ngoài việc vị “lột trần” hoặc bị cô lập, bạn có sợ rằng mình sẽ bị người khác khinh miệt và sỉ nhục không?
6. Bạn có bao giờ cảm thấy khinh thường hay khinh bỉ ai đó hoặc điều gì đó không?
• Cố gắng nhớ lại vài lần bạn cảm thấy như vậy về những người khác hoặc những gì họ đã làm. Hãy viết ra;
• Hãy xem kĩ những trường hợp đó và xem liệu bạn có thể tách biệt một đặc điểm hay tính cách mà chính nó đã gợi lên cảm giác khinh bỉ mãnh liệt trong bạn hay không?
• Điều gì khiến bạn bận tâm?
• Bạn có thể mường tượng ra những tình huống mà bạn có cảm giác khinh bỉ không? Hãy cố nhớ xem. Có điều gì bạn coi thường về mình không?
7. Bạn có một giọng nói mạnh mẽ bên trong? Nếu có:
• Viết ra tất cả những điều mà nó chỉ trích bạn. Kì vọng của nó là gì?
• Hãy mô tả về con người hoàn hảo mà bạn muốn trở thành. Hình mẫu đó có khuyết điểm không?
• Hãy tưởng tượng rằng bạn chính là tiếng nói bên trong đó chứ không phải nạn nhân của nó. Cố gắng cảm nhận cái tâm lí khinh miệt với những khiếm khuyết. Nó có khiến bạn ưu việt hơn không? Bạn có cảm nhận được mùi vị của chiến thắng không?
Bạn nên có một ý tưởng chung về vai trò của tâm lí tự ti này trong đời sống cảm xúc của mình và những phương pháp phòng vệ mà bạn dùng để ngăn chặn nó: (1) Muốn người ta chú ý đến bạn, ghen tị hoặc ngưỡng mộ bạn; (2) Đổ lỗi; (3) Khinh thường.
Sự tự ti và tủi hổ cũng đi kèm với một sự thật là chúng ta bị tổn thương. Giờ hãy xem lại toàn bộ kiến thức của chương này và hi vọng rằng bạn có thể nhận ra một điều gì đó về mình. Có lẽ bạn sẽ thấy trong chính mình xuất hiện nhiều tâm lí tự ti hơn trước. Có thể bạn sẽ thấy mình nhiều vấn đề hơn bạn nghĩ, và sợ rằng bạn không thể thay đổi được điều này.
Đừng nản lòng. Phần tiếp theo sẽ hướng dẫn bạn vận dụng những kiến thức này, để nhận ra các cơ chế phòng vệ của mình và cách để giải giáp chúng. Hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều phải vật lộn với những tổn thương và đều dùng những cơ chế phòng vệ đó để né tránh những nỗi đau của mình. Rất ít người có thể dũng cảm để đối diện và thách thức ngược lại những cơ chế phòng vệ tâm lí đó.
Bạn đã đi đến chặng này rồi, và điều đó cho thấy sự dũng cảm của bạn. Giờ là lúc chúng ta sẽ chuyển sang Phần III.