“Làm sao một người có thể vượt qua một ngày nếu không có hai hoặc ba lí do hợp lí?”
- Michael, The Big Chill (1983) -
Ở một mức độ nào đó, phần lớn chúng ta đều có những cuộc hội thoại với chính mình “ở trong đầu”, giống như một cuộc độc thoại diễn ra theo nhiều cách khác nhau và ta coi đó là điều ta nghĩ. Đối với nhiều người, dòng suy nghĩ, dòng tâm-tư này chiếm vị trí trung tâm trong nhận thức của họ về bản thân, về sinh mệnh của mình.
“Đó là điều tôi nghĩ.” Giống như Descartes đã nói: “Ý thức về bản thân tôi nảy sinh một phần từ chính những lời nói xuyên qua tâm trí tôi.”
Dòng suy tưởng có vẻ như là một quá trình mang tính xây dựng, và tất nhiên là như vậy. Nếu không có suy nghĩ, con người không thể kiến tạo nên thế giới của họ, khám phá nó và đưa ra những phát minh mới. Dòng suy tưởng này cho phép chúng ta diễn hóa những tưởng tượng của mình trước khi đưa chúng vào thực tế. Nó cũng thường giúp ta thoát khỏi những sai lầm nghiêm trọng. Có nhiều lời khuyên đúng đắn mà bạn nên xem xét kĩ trước khi hành động.
Xem xét trước khi hành động;
Nghĩ trước khi nói;
Hành động vội vàng sẽ ân hận dài lâu.
Tất cả những câu nói trên đều truyền đạt một ý tưởng rằng, suy nghĩ hay dòng tư duy giống như một hành động tưởng tượng, có thể cứu bạn khỏi lầm lạc và tổn thương. Nó có lẽ là công cụ quý giá nhất trong kho tàng của nhân loại.
Mặt khác, suy nghĩ đôi khi như thể nó “chống lại” chúng ta và trở thành một điều gì đó rất phiền toái, thậm chí là khiến ta rơi vào trạng thái dằn vặt. Bạn đã bao giờ mất ngủ vì cứ triền miên nghĩ về điều gì đó chưa? Bạn đã bao giờ cảm thấy ám ảnh vì một điều gì đó, về một cuộc chiến giữa bạn và ai đó, hoặc về một quyết định quan trọng trong nghề nghiệp và nhận thấy rằng mình không thể ngừng nghĩ về nó? Suy nghĩ là một công cụ vô cùng mạnh mẽ, nhưng đôi khi nó lại quay ngược lại tra tấn chính chúng ta.
Và nếu suy nghĩ là hiện thân của một kiểu đối thoại nội tâm, một bài bình luận mà ta đưa ra cho chính mình, thì câu hỏi đặt ra là: Điều gì sẽ xảy đến nếu những điều ta nói với chính mình không thực sự là thật? Đôi khi suy nghĩ lại trở thành một lời nói dối nhằm giúp ta thoát khỏi hiện thực xấu xí, hoặc để che đậy một tổn thương. Trong những trường hợp đó, ta sẽ sử dụng suy nghĩ như một cơ chế phòng vệ tâm lí.
Chương này sẽ đi sâu vào hai phần chính của suy nghĩ như một biện pháp phòng vệ tâm lí: Sự hợp lí hóa và tri thức hóa. Sau đó sẽ kết lại bằng cách xem xét quá trình suy nghĩ tổng thể có thể bao hàm một loại phòng vệ tâm lí - logic là như thế nào.
CƠ CHẾ PHÒNG VỆ (9): HỢP LÍ HÓA
“Đừng đùa nữa!”
“Ồ thôi nào, đây mới là thật đấy!”
“Bạn chỉ đang nói dối chính mình.”
Đây chỉ là một vài trong số rất nhiều cách diễn đạt mà bạn thường sử dụng khi tin rằng ai đó đang lừa mình. Họ có thể đã nói với bạn điều gì đó, đưa ra nhận định giải thích cho những gì họ tin, và bạn cảm thấy chắc chắn người đó đang tự nói với chính mình như vậy. Phần lớn là do người đó muốn tin nó, hơn cả sự thật về nó. Chúng ta có thể gọi tình huống này là ảo tưởng, một cách nghĩ chủ quan duy ý chí, bất chấp thực tế. Ở đây, chúng ta thường tạo ra một cách thức tự lừa dối về mặt tinh thần, một cơ chế liên quan đến suy nghĩ bằng lời nói để phục vụ cho việc nói dối.
Đôi khi, nói dối là nhằm biện minh cho một số cảm giác, động lực hay hành động, và bạn cố gắng làm cho nó hợp lí nhất có thể. Nói cách khác, bạn bào chữa khi thực sự cảm thấy không thoải mái về điều đó ở một mức nào đấy. “Tôi chẳng thấy sao khi tải bản lậu của đĩa CD đó, bởi tôi là một sinh viên nghèo. Những công ty thu âm tham lam đó quá giàu rồi. Dù sao việc này cũng chẳng ảnh hưởng gì tới họ.”
Chúng ta cũng biện minh cho hành động của mình, hợp lí hóa chúng khi ta không muốn nhận trách nhiệm về những gì mình đã làm
“Lí do tôi bị điểm kém như thế là do giáo viên không thích tôi” (chứ không phải vì tôi lười).
Bạn có thể đưa ra những lí do hợp lí để giải thích về điều bạn đã làm, khiến nó có vẻ hợp lí, trong khi thực tế cho thấy bạn bị thúc đẩy bởi những cảm xúc mà mình không muốn thừa nhận, thậm chí không đúng với chính mình. “Tôi đi ra ngoài và mua bộ quần áo mới đó vì tôi thực sự không có gì để mặc đến bữa tiệc của Jane” (chứ không phải vì tôi biết tôi vừa bị đá và tôi muốn mình trông thật hạnh phúc và tốt đẹp. Tôi không muốn thấy mình bẽ mặt hay kém cỏi).
Như nhân vật Micheal trong bộ phim The Big Chill (lời dẫn đầu chương) đã nói, tất cả chúng ta đều cố gắng hợp lí hóa cảm xúc và hành động của mình. Đó là một phần trong cuộc sống hằng ngày, và chúng ta rất khó để vượt qua cuộc sống đó nếu không tự lừa dối chính mình. “Mọi thứ sẽ diễn ra theo cách tốt nhất.” Mọi người thường tự nhủ như thế, để tránh cảm giác mất mát hoặc tiếc nuối. “Cái gì cũng có nguyên do của nó.” Trong khi ấy, sự thật là cuộc sống luôn có rất nhiều điều bất ngờ, ngỡ ngàng và ngã ngửa. Chúng diễn ra một cách rất ngẫu nhiên. Sự hợp lí hóa giúp bạn cảm thấy mình đang sống trong một thế giới có trật tự, có kế hoạch. Trong khi đó, sự thực là vũ trụ này vô thường, và nỗi đau có thể xảy đến với chúng ta mà không cần một lí do chính đáng.
Sự hợp lí hóa cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đề cao lòng tự trọng trong cuộc sống hằng ngày. “Diane được thăng chức thay vì đó là tôi, chẳng qua là vì cô ấy quá tham vọng và đã bị ông chủ lừa dối.” Tin một câu chuyện như thế có lẽ sẽ dễ chịu hơn là phải chấp nhận rằng Diane có năng lực hơn bạn, có phải không? “Brandy thích David hơn tôi vì anh ấy có nhiều tiền và một chiếc xe đẹp.” Có lẽ cô ấy chỉ thấy David thú vị và cuốn hút hơn.
Phần lớn kiểu hợp lí hóa này không phải là cách phòng vệ đặc biệt mạnh. Sự thật thường nằm không xa bề mặt. Khi có ai đó giúp chúng ta đối diện với sự thật và ta không cảm thấy bị chỉ trích hay buộc tội, chúng ta có thể thừa nhận nó sau một khoảng thời gian ngắn đấu tranh với chính mình.
CƠ CHẾ PHÒNG VỆ (10): TRI THỨC HÓA
Trong khi sự hợp lí hóa là một cơ chế phòng vệ đưa ra những lời biện giải cho những sự kiện cụ thể sao cho có lí hơn sự thật, thì tri thức hóa tìm cách ngăn chặn toàn bộ những cảm xúc đáng lo ngại. Hợp lí hóa có thể được coi như lời nói dối trắng trợn mà đôi khi ta tự nói với mình, còn tri thức hóa là một chuỗi lời nói dối liên tục liên tục nhằm che mờ đi sự thật: Chẳng có cảm xúc nào đáng lo ngại ở đây hết, tất cả đều là suy nghĩ phiến diện. Sự hợp lí hóa là một cơ chế phòng vệ rời rạc, không xuyên suốt, trong khi tri thức hóa lại có thể lan tỏa và định hình tính cách của một người.
Sigmund Freud không bao giờ sử dụng từ tri thức hóa, mặc dù ông hiểu rõ ràng rằng quá trình tri thức hóa có thể được sử dụng cho mục đích phòng vệ. Con gái của ông, Anna Freud đã dành cả một chương trong cuốn sách The Ego and the Mechanisms of Defence (tạm dịch: Bản ngã và Cơ chế phòng vệ) để nói về chủ đề “Tri thức hóa ở tuổi dậy thì”. Bà tin rằng “những mối quan tâm về trí tuệ, khoa học và triết học ngày càng tăng, thể hiện nỗ lực làm chủ các động lực và cảm xúc được kết nối.” Bà cho rằng đây là hiện tượng rất bình thường ở độ tuổi dậy thì.
Nếu bạn lớn lên cùng loạt phim truyền hình Star Trek vào cuối những năm 1960 giống như tôi, hoặc nếu bạn đã xem đi xem lại nó và những phần tiếp sau đó, hoặc là xem đĩa DVD, hẳn bạn đã quen thuộc với những nhân vật như Spock, người hiếm khi bộc lộ cảm xúc, trái ngược với Thuyền trưởng Kirk, người luôn sục sôi hành động theo đam mê của mình. Nhân vật Spock thể hiện một kiểu người mà lí trí đã ăn sâu vào bản chất và tính cách của anh ta.
Đôi khi bạn có thể nghe về ai đó được coi như là “bộ não”, hay một người sống với quá nhiều “suy nghĩ” trong đầu. Tôi thấy thật sự hữu ích khi nghĩ về tri thức hóa trong cách chúng ta tập trung vào đối tượng mình hướng đến. Người hiểu rõ những gì xảy đến với mình sẽ tập trung cao độ cho những suy nghĩ lướt qua đầu anh ta, đến mức, những suy nghĩ đó choáng ngợp tâm trí.
Hãy ghi lại những cảm giác mà thân thể truyền tín tức đến cho bạn. Nước mắt trào ra, hơi thở gấp gáp đều là ý muốn nói: Tôi đang buồn. Nhưng nếu tôi đang bận suy nghĩ thì tôi có thể sẽ không nhận ra những điều đó và khó có thể nắm bắt được cảm xúc của mình. Ngay cả khi tôi thực sự thấy buồn, tôi cũng có thể nhanh chóng chuyển sự chú ý của mình từ những tín tức từ thân thể đó sang việc khác, nhằm thoát khỏi trạng thái cảm xúc đó.
Nói cách khác, tri thức hóa là một nỗ lực rất lớn nhằm chuyển hướng sự chú ý khỏi những cảm xúc mà thân thể truyền tới cho ta và dẫn ta đến với vùng không-có-cảm-xúc của trí tuệ
NHỮNG ĐỨA TRẺ “CHÍN ÉP”
Những người sống với lí trí thường sẽ muốn trưởng thành nhanh hơn người khác, kiểu “già đời” hơn. Bởi cuộc sống gia đình ban đầu khiến họ cảm thấy không an toàn khi mình mãi nhỏ bé, cần được chăm sóc và dễ phát tác cảm xúc. Thực ra không phải lúc nào cũng thế, nhưng những đứa trẻ trưởng thành sớm có thể rơi vào một trạng thái chín chắn giả, để thoát khỏi những cảm xúc đang đeo bám chúng. Nếu cha mẹ là những người có địa vị cao trong xã hội, họ hoàn toàn có thể mong muốn con mình nối gót, kế nghiệp gia đình. Do vậy, trên hình trình trưởng thành, những đứa trẻ này có thể cảm thấy rằng chúng không được phép bé nhỏ tầm thường, không được phép sợ hãi yếu đuối, hay có những cảm xúc mơ hồ như bao đứa trẻ khác.
Khi trưởng thành, những đứa trẻ “chín ép” này có thể cảm giác chúng như những kẻ mạo danh. Chúng mơ mãi về một giấc mơ đi học mà chẳng cần học, hay có thể thoải mái “khỏa thân” rồi xuất hiện giữa đám đông cho thấy nỗi sợ hãi vô thức rằng, sự ngụy biện, sự tri thức hóa của họ chỉ là giả tạo. Dù họ có khả năng hùng biện đến đâu, giỏi gây ấn tượng nhường nào, họ cũng luôn cảm thấy mình chỉ có cái vỏ trưởng thành, còn sâu bên trong là một đứa trẻ dễ bị tổn thương.
Nhiều năm trước, một thân chủ của tôi kể lại giấc mơ mô tả quá trình tri thức hóa bên trong cô và cơ chế phòng vệ đó hoạt động như thế nào. Trong giấc mơ ấy, cô nhìn thấy một nhân vật mặc một chiếc áo blouse trắng đứng bên ngoài phòng thí nghiệm, đầu đội chiếc mũ vuông của giáo sư, và đeo một chiếc kính đen lớn. Điều này khiến cô ấy liên tưởng đến nhà khoa học Peabody trong bộ phim hoạt hình Wayback Machine. Bên dưới chiếc áo blouse ấy, ông ta quấn một chiếc tã sơ sinh. Điều này cho thấy, cơ chế phòng vệ kiểu tri thức hóa có thể là một lối đi giúp ai đó thoát khỏi những “chấn thương sinh nở” và “tổn thương sơ sinh” đáng sợ.
Bạn có thể biết một người nhìn cuộc đời bằng một trí tuệ cao siêu, giống như một Spock hiếm khi bộc lộ đam mê của bản thân và luôn cố gắng trở nên khách quan nhất. Ở mức độ vô thức, những cá nhân này thường rất sợ những cảm giác mà họ không thể đoán biết, không thể kiểm soát và nhanh chóng chuyển mình vào cõi vô cảm.
LỜI NÓI CÓ MỘT CƠ CHẾ RIÊNG
Trong trường hợp “chín ép”, đứa trẻ thoát ra khỏi giai đoạn phát triển trí tuệ sớm bằng phản ứng kiểu phủ nhận. “Tôi không hề nhỏ bé, bất lực và thiếu kinh nghiệm. Tôi thực sự hiểu biết và sâu sắc.” Trong hoàn cảnh đó, khả năng tư duy và phát ngôn sẽ trưởng thành sớm, nhưng không đi liền với kinh nghiệm sống thực của họ. Khi đó, tri thức chỉ được coi như một biện pháp phòng vệ. Ngôn từ cũng có đời sống của riêng nó và thường được coi như một phương thức hữu hiệu để loại bỏ hoặc xoa dịu nỗi đau.
Trong gia đình tôi, theo như được kể lại thì khi tôi bắt đầu biết nói, tôi cũng tập nói những câu hoàn chỉnh, chứ không ấp úng hay nói dăm ba từ rời rạc. Trong quá trình trị liệu, bác sĩ của tôi nói đây có thể là cách tôi thể hiện sự thù ghét với cảm giác nhỏ bé và non nớt của mình, tôi muốn mình trưởng thành ngay lập tức mà không cần trải qua quá trình dài hơn để trau dồi. Khả năng sử dụng ngôn ngữ sớm của tôi cũng một cách tôi phản ứng với căn bệnh trầm cảm của mẹ tôi. Để vượt cảm giác bị lấn át và áp đảo, tôi nói năng thông thạo và lưu loát. Như thế, tôi cảm thấy mình có khả năng kiểm soát mọi thứ. Tôi tin rằng “những suy nghĩ” đã giúp tôi thoát khỏi nỗi đau và sự bối rối trong lòng (như cách mẹ tôi cảm thấy).
Kết quả là, tôi luôn coi trọng sự lưu loát trong khi phát ngôn. Nó thường trực trong tâm trí tôi đến mức tôi bị cuốn theo dòng chảy tinh thần của ngôn từ. Khi đi học, tôi rất tự tin viết, tôi đã biết rất nhiều câu từ và có thể vận dụng chúng để thuyết phục người khác. Tuy nhiên, chúng lại tách biệt hẳn với trải nghiệm thực của tôi. Nhưng việc viết ra cũng đóng một vai trò quan trọng trong hành trình trưởng thành của tôi, tôi có thể dung hòa giữa một bên là tâm hồn của một nghệ sĩ, và bên kia là một người cần trị liệu.
Nhiều thân chủ của tôi trong suốt nhiều năm qua đã phải đối mặt với những cơ chế phòng vệ tương tự như vậy. Tôi có thể dễ dàng nhận ra điều này khi lắng nghe họ kể rành rọt về những trải nghiệm của mình, nhưng sự thực lại không thực sự như vậy. Đối với những người này, “sự hiểu biết” chỉ tồn tại trên lời nói, còn hành động của họ thì đi ngược lại với những gì họ nói, nhất là khi động đến những nỗi tổn thương của họ. Bạn có thể cho rằng đó là một lời ngụy biện thâm sâu, khi liên tục đánh lừa bản thân bằng những ý tưởng và lập luận suy đoán nhằm phủ mờ đi sự thật.
Trong trục xoay suy nghĩ, lời nói đôi khi có thể có một cơ chế riêng, để vĩnh viễn bảo vệ chúng ta trước những cảm xúc quá nặng nề hay một sự dày vò nào đó. Vì thế, có những thân chủ đã kể cho tôi nghe về nỗi thống khổ của họ khi không thể ngủ được vì suy nghĩ quá nhiều. Tôi tin rằng động lực này nằm đằng sau nhiều kiểu mất ngủ khác. Giống như bất cứ cơ chế phòng vệ nào khác, chúng đều bắt đầu từ việc bảo vệ bản thân bạn khỏi những vấn đề sâu thẳm bên trong, đó là tổn thương. Chúng ta thường chống lại tổn thương thay vì nghĩ cách chữa lành chúng.
Càng tổn thương, chúng ta càng muốn im lặng để bảo vệ bản thân và thiết lập sự yên bình trong tâm trí, nhưng thực sự thì điều này là cực kì khó khăn đối với hầu hết mọi người.
Muốn buông bỏ, bạn phải chịu đựng nỗi đau một lần nữa, muốn chữa lành, bạn phải mở vết thương ra một lần nữa, tìm ra điều bạn đã trốn tránh trong suốt thời gian qua và đối diện với nó
Điều này là một sự thách thức đối với bất cứ ai thường sử dụng sự hợp lí hóa và tri thức hóa như một biện pháp phòng vệ tâm lí. Tuy nhiên, có một điều quan trọng hơn, đó là phải làm sao để xem xét tổng thể cấu trúc tâm tính của mình và cách bạn đã làm với chính bản thân. Hãy học cách nghĩ ít đi một chút và cảm nhận nhiều hơn.
TÔI LÀ AI, BẠN LÀ AI (7)
Sự hợp lí hóa khá dễ phát hiện, nhưng vì chúng có sức lan tỏa và dễ dàng nảy sinh trong mỗi người, trong khi sự tri thức hóa thì khó để nhận biết hơn.
MONG CẦU VÀ SỰ PHỤ THUỘC
Sự hợp lí hóa thường xảy ra ở thời điểm mà người nào đó cố gắng giảm cân, phá vỡ quy tắc và thói quen ăn uống bấy lâu của bạn.
“Đó là một như địa ngục tại chỗ làm và tôi xứng đáng thưởng thức vài que kem tối nay, dù chỉ một chút thôi cũng được. Tôi luôn chuẩn bị sẵn cho ngày mai.”
“Tôi cảm thấy quá đói. Nếu cứ tiếp tục như vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến chế độ ăn kiêng của tôi. Thực ra nghỉ ngơi đúng nghĩa sẽ giúp tôi tuân thủ được chế độ ăn kiêng của mình.”
Như bạn biết đấy, để có một thứ gì đó mình muốn thường không dễ. Ngay cả khi bạn mong muốn giảm cân, cảm giác đói sẽ khiến bạn không thể chịu nổi. Bạn sẽ thường hợp lí hóa việc vi phạm các mục tiêu dài hạn của mình để thỏa mãn mong cầu trước mắt của bản thân, tức là tự dối mình để đạt được mục đích. Những độc giả trong Nhóm 2 có thể dễ rơi vào tình trạng này.
Những cá nhân phải vật lộn với các chứng nghiện khác nhau thường sẽ nói dối bản thân và mọi người xung quanh họ theo cách này. Kẻ nghiện rượu thường sẽ nói dối mình và người thân. Họ luôn phủ nhận và khăng khăng cho mình là đúng để trốn tránh sự thật về tác hại do rượu gây nên. “Tôi chẳng gây phiền cho ai cả, tôi vẫn sống như bao người đấy thôi.” Đây là cách gã bợm rượu nói với mọi người. Họ cũng cố gắng giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của vấn đề và làm cho nó có vẻ “bình thường”.
“Mỗi người đều có khiếm khuyết. Chẳng ai hoàn hảo cả.”
“Thật là mệt mỏi quá đi! Rượu sẽ khiến tôi chống chọi với cuộc họp này.”
“Rượu giúp tôi thư giãn, dễ ngủ và để tôi có thêm năng lượng vào ngày mai.”
Nhìn chung, sự hợp lí hóa có xu hướng xuất hiện khi các mục tiêu hoặc giá trị dài hạn mà ta đặt ra đang mâu thuẫn với mong muốn được thỏa mãn ngay lập tức. Chúng ta cố gắng trốn tránh tổn thương do sự thiếu hụt đó bằng một lời dối trá về bản chất của ham muốn, hoặc hậu quá thực sự cho hành vi của mình. Nếu bạn thường xuyên biện minh cho việc sử dụng chất kích thích, hay trong trường hợp bạn muốn “phá giới” khi đang phải tuân thủ một chu trình ăn kiêng nào đó, thì bạn hoàn toàn có thể sử dụng phương pháp phòng vệ này.
Ngược lại, sự hợp lí hóa cũng nảy sinh khi ta không có được điều mình muốn. Câu chuyện ngụ ngôn về Con cáo và chùm nho của Aesop minh họa cho cơ chế phòng vệ này. “Dù sao thì chúng cũng có thể chưa chín.” Kiểu hợp lí hóa này đại diện cho một lời nói dối mà chúng ta tự nói với mình để xua đuổi ham muốn tột cùng của bản thân, đôi khi là cả sự đố kị và cảm giác hối tiếc. Người phụ nữ dùng phương pháp này để hợp lí hóa cho cảm giác mất mát bên trong cô ta. Người đàn ông kia thì giải thích với bạn một cách đầy lí trí rằng tại sao anh ta không bao giờ muốn ở trong hoàn cảnh như người bạn của anh ta (đây thực chất là đố kị). Nếu bạn thấy mình ở trong Nhóm 1, rất có thể bạn hay sử dụng phương pháp này.
Những người vô thức sợ hãi sự thân mật có thể sẽ dùng lí trí để biện giải cho hành động của họ, rằng tại sao họ lại né tránh. Họ dùng lí lẽ để chạy trốn sự truy quét của cảm xúc, và ngụy tạo nỗi sợ bằng một nhận định nào đó.
“Tôi không thể tham gia cho tới khi tôi thực sự tìm được lí tưởng sống đời mình.”
“Tôi không muốn hẹn hò gì vào thời điểm này cho tới khi tôi ổn định cuộc sống cá nhân. Hiện tôi chẳng sẵn sàng yêu đương với bất cứ ai.”
Những người làm việc trong lĩnh vực dùng kĩ năng phân tích, thậm chí là những nhà khoa học, say mê nghiên cứu, đam mê học thuật, luật sư, phân tích hóa học thường sẽ khó có chỗ cho cảm xúc. Họ có thể thuyết phục bản thân rằng, thành công trong sự nghiệp đòi hỏi một sự tập trung toàn tâm toàn ý. Và như thế thì không có chỗ cho các mối quan hệ, hay nói đúng hơn là không thể.
Những người dựa vào lí trí và việc tri thức hóa làm cơ chế phòng vệ tâm lí, trước nhất có thể chỉ tập trung vào cuộc sống bên trong não bộ của mình thôi. Họ không để tâm đến việc động chạm thân thể hay những tín tức về mong cầu của thân thể. Họ có vẻ rất “khô khan” (một thân chủ từng mô tả những người này giống như cái cây khô). Họ có thể bị coi như những kẻ vô tình. Ở mức độ vô thức, họ có thể nhận thấy nhu cầu và ham muốn tính dục của bản thân đang bùng phát bên trong. Nếu bạn ít quan tâm đến vấn đề tính dục, không muốn động chạm đến người khác, và chỉ tập trung cho lí trí thì tri thức hóa chính là một trong những biện pháp phòng vệ của bạn.
Biện pháp phòng vệ này thường thấy ở những người nằm trong Nhóm 3.
NHỮNG CẢM XÚC MÃNH LIỆT
Sự hợp lí hóa thường tạo cho ta một cái cớ để không tuân theo các cam kết, hoặc biểu lộ các cảm giác thù ghét mà ta không thừa nhận một cách có ý thức. Trong tình huống này, nó là cơ chế phòng vệ của những người trong Nhóm 4.
“Nếu là tôi, khi ai đó đến ăn tối với tôi chỉ vì anh ta đã hứa như thế, chẳng thà tôi ước anh ta đừng đến thì hơn. Tôi sẵn sàng hủy bỏ, ngay cả sát giờ.”
“Cô ấy có thể cảm thấy tôi tàn nhẫn, nhưng sẽ tàn nhẫn hơn khi không nói cho cô ấy biết sự thật. Thành thực là tốt nhất.”
“Nếu đó là điều cha mẹ muốn, thì cũng là điều tốt nhất cho con cái.”
Đôi khi sự chân thành chính là điều tốt nhất. Cha mẹ thường muốn làm điều tốt nhất cho con cái của họ, nhưng có thể chúng lại thấy không công bằng. Tuy nhiên, có khi những lí lẽ này chỉ đơn giản nhằm che đậy những kì vọng hoặc điều cha mẹ thực sự mong muốn. Đối với ba ví dụ trên, chủ thể thực sự cảm thấy một cách vô thức rằng:
“Tôi không quan tâm nếu tôi đã hứa. John đã gọi và tôi muốn nhìn thấy anh ấy tối nay.”
“Tôi thực sự muốn đáp lại cô ấy về những điều cô ấy đã nói tối qua.”
“Con quá mệt mỏi khi phải đối diện với cha mẹ, con bực bội thực sự với tất cả sự thiếu thốn này. Nước mắt chảy xuôi chăng?”
Sự hợp lí hóa giúp chúng ta không phải thừa nhận cảm xúc tiêu cực như thù hận, tức giận, ghen tị, oán ghét, ích kỉ. Thay vào đó, chúng ta kéo những cảm xúc đó ra khỏi câu chuyện cá nhân của mình và thay thế nó bằng một lời giải thích hợp lí cho hành vi của bản thân. Đôi khi bạn có thể phát hiện ra kiểu phòng vệ này bởi bạn có xu hướng lặp lại liên tục với một cảm giác mơ hồ, hoài nghi hay tội lỗi. Bạn cũng có thể thực sự thấy cần phải liên tục biện minh cho mình. Tôi sẽ nói thêm về đặc điểm này của nhiều cơ chế phòng vệ trong Phần III.
Tri thức hóa có xu hướng ngăn chặn toàn bộ cảm xúc của con người và dễ dàng định hình như một đặc điểm của tính cách, như tôi đã nói ở phần trước. Những người sợ hãi những cảm xúc mãnh liệt có xu hướng muốn tránh những tình huống hoặc sự việc khơi gợi cảm xúc đó. Những người lạnh lùng, lãnh đạm, xa cách hoặc cô độc cũng có xu hướng né tránh cảm giác nóng nảy, mãnh liệt. Mặt khác, “suy nghĩ” trở nên đáng chú ý vào những thời điểm mang tính quyết định. Trong trường hợp của riêng tôi, khi tôi đặc biệt căng thẳng hoặc khó chịu, tôi chẳng thể nghĩ được gì. Đấy là cách tôi cố gắng đối phó với một trải nghiệm có vẻ như “quá sức chịu đựng”. Nếu tôi không cẩn thận, có lẽ tôi sẽ trải qua một đêm không ngủ chăng?
Điều này nghe có vẻ quen nhỉ?
Bất cứ khi nào bạn lên giọng, nói to hoặc nói nhanh, đấy có thể là dấu hiệu cho thấy tổn thương nào đó đang đe dọa bạn và bạn cố gắng ngăn chặn nó.
LÒNG TỰ TRỌNG
Việc hợp lí hóa có thể hữu ích khi chúng ta đã nói hoặc làm điều gì đó khiến bản thân phải xấu hổ. Biện giải cho cảm giác tội lỗi này là điều mà tất cả chúng ta đều làm.
“Tôi đã giúp đỡ cô ấy, và rồi cô ấy sẽ phải cảm ơn tôi thôi.”
“Tôi sẽ làm mọi cách để chuyện đó xảy ra.”
“Xét cho đến cùng, tôi hoàn toàn có quyền lên tiếng, chẳng có lí do gì khiến tôi cảm thấy tồi tệ.”
Như tôi đã nói, chúng ta có xu hướng lặp lại việc hợp lí hóa để tăng cường khả năng phòng vệ. Nếu bạn nghe thấy con người bên trong mình đang cố gắng biện minh, tại sao bạn không cố gắng đối diện với lỗi lầm của bản thân.
Khi tri thức hóa hoạt động như một biện pháp phòng vệ tâm lí nhằm chống lại cảm giác tủi hổ, thì lí trí sáng suốt lúc ấy trở nên ưu việt nhất, nhằm vô hiệu hóa cảm giác xấu hổ này (trong vô thức). Người tự tin rằng mình thông minh hơn, vượt trội hơn người thường tỏ ra kiêu căng và ngạo mạn (hãy nghĩ đến nhân vật Mark Zuckerberg trong bộ phim The Social Network). Anh ta đã trú ẩn trong sự trí tuệ của mình, liên tục củng cố nó bằng cách coi thường người khác. Anh ta cảm thấy tức giận khi phải tranh biện với những bộ óc “kém trí tuệ” hơn.
Như tôi sẽ thảo luận trong chương tiếp theo, người trốn tránh sự tủi hổ của bản thân mình có xu hướng muốn người khác phải cảm thấy tủi hổ. Nếu bạn thường xuyên cảm thấy khinh thường hoặc thiếu kiên nhẫn với người khác, và liên tục xét nét họ; nếu bạn luôn muốn giành chiến thắng trong mọi cuộc tranh luận, thì lí trí của bạn có thể trở thành một cơ chế bảo vệ chống lại sự xấu hổ vô thức. Những người nằm trong Nhóm 5 nên chú ý điều này.
Bài luyện tập số 10:
“TÔI THÍCH LÍ TƯỞNG, TÔI GIÀU TRI THỨC”
1. Dành ra nửa giờ và chú ý đến quá trình suy nghĩ bên trong của bạn. Nói cách khác, hãy ghi lại những gì bạn đang nghĩ. Mục tiêu ở đây chỉ đơn thuần là trở thành một người tự quan sát có ý thức.
• Suy nghĩ của bạn có chuyển hóa thành lời nói không? Suy nghĩ của bạn giống kiểu độc thoại nội tâm ở mức độ nào?
• Bạn có cảm thấy như thể bạn kiểm soát được dòng chảy tinh thần của lời nói không? Bạn có thể bắt đầu và dừng nó lại khi bạn muốn hay tập trung vào nó ở bất cứ đâu bạn muốn?
• Bây giờ hãy cố gắng để tinh thần tĩnh tại, xem liệu bạn có thể im lặng trước những suy nghĩ của mình hay không. Chuyển sự chú ý vào cơ thể, đến những nơi bạn có thể ghi nhận cảm xúc: mặt, bụng, cổ họng, thân mình.
• Bạn có thể kéo dài bao lâu trước khi suy nghĩ bắt đầu trở lại? Bạn có nhận thấy bất kì cảm giác cơ thể cụ thể nào trong thời gian im lặng không? Thân thể bạn có thấy khó chịu không?
2. Vào một ngày bạn rảnh rỗi hoặc không phải ăn kiêng, hãy thử bỏ một hoặc hai bữa và cả ăn vặt xem nào. Không dùng gì ngoài nước và nước trái cây, sau đó tỉ mỉ quan sát khi cơn đói xuất hiện. Bạn có cố gắng biện giải cho cơn thèm ăn của mình không? Hay có lí do nào đó bạn đưa ra để được đi ăn không?
3. Nếu bạn tin rằng bạn mắc chứng nghiện nào đó, có thể là lạm dụng chất kích thích hoặc đồ uống có cồn chẳng hạn, hãy cố gắng nhịn lâu hơn bình thường trước khi tự thỏa mãn.
• Nếu bạn có thể nhịn đủ lâu, điều đó sẽ cung cấp cho bạn một số thông tin chi tiết về trải nghiệm mà bạn đang cố gắng tránh với hành vi gây nghiện;
• Nó cũng có thể tiết lộ cách bạn biện minh cho thói quen của mình. Lắng nghe cẩn thận quá trình suy nghĩ của bạn, những từ chạy qua đầu bạn. Bạn có bao biện cho bản thân hay đưa ra những lí do hoàn toàn chính đáng tại sao bạn nên tiếp tục và nhượng bộ không?
4. Khi có điều gì đó xảy ra khiến bạn khó chịu và bạn thấy bản thân đang nghĩ đi nghĩ lại về chuyện đó, hãy cố gắng ngăn chặn dòng suy nghĩ và xem bạn có thể kéo dài tình trạng im lặng trong bao lâu. Ngược lại bạn có thể áp dụng những điều dưới đây:
• Đừng cố gắng mô tả những gì bạn đang trải qua;
• Đừng viết bất cứ điều gì ra giấy;
• Đừng cố gắng hiểu hoặc hiểu những gì bạn cảm thấy;
• Chỉ cần chú ý nhưng không nói về trải nghiệm của bạn. Đừng nản chí nếu bạn thấy nhiệm vụ này cực kì khó khăn.
5. Cố gắng nhớ lại khoảng thời gian khi bạn thể hiện cảm xúc mạnh mẽ hoặc đả kích ai đó và tiếp tục cố gắng biện minh cho hành vi của mình sau đó.
• Viết ra một lời giải thích thấu đáo và hợp lí cho hành vi của bạn. Đẩy bản thân đến mức cực đoan và đưa ra càng nhiều lời biện minh càng tốt;
• Bây giờ hãy tưởng tượng ai đó tranh luận quan điểm ngược lại, giải thích tại sao mỗi lí do của bạn là không hợp lệ. Bạn có cảm thấy mình đang cố gắng phòng vệ không?
• Giả định rằng thực sự không có lí do xác đáng nào, bạn cảm thấy thế nào?
6. Bạn có coi trọng trí thông minh của mình hay đặc biệt tự hào về việc mình vô cùng lí trí không?
• Bạn cảm thấy thế nào về những người kém thông minh hơn bạn?
• Bạn có nhớ bất kì lần nào bạn gặp phải tình trạng bối rối hoặc không thể suy nghĩ rõ ràng trong thời điểm nhạy cảm không? Bạn cảm thấy thế nào sau trải nghiệm đó?
• Bạn đã bao giờ cố tình làm cho ai đó trông khờ khạo hoặc ngu ngốc vì người đó có quan điểm khác với ý kiến của bạn? Càng chi tiết càng tốt, hãy mô tả cảm xúc của bạn với người đó và quan điểm của họ;
• Bây giờ hãy thử đặt mình vào vị trí của người đó. Hãy thể hiện trí tưởng tượng của bạn và cố gắng cảm nhận trải nghiệm của người đó, tận hưởng cảm xúc của họ;
• Nếu bạn có thể cảm nhận được cảm giác xấu hổ hoặc bị chỉ trích của họ, điều đó có thể giúp bạn hiểu được cảm giác mà bạn đang cố gắng xua đuổi.
Theo kinh nghiệm của tôi, hầu hết chúng ta đều sử dụng các cơ chế phòng vệ được thảo luận trong chương này. Bởi lí trí là cốt lõi của ý thức cá nhân, điều quan trọng là phải phân biệt được đâu là đúng là sai, khi ta thấy có vẻ như mình đang nói dối chính mình. Chương này sẽ giúp bạn hòa nhập với quá trình đó, đồng thời khuyến khích bạn nên tập trung vào một dòng suy nghĩ nhất định, vào cảm nhận của thân thể mình. Trong Phần III, tôi sẽ thảo luận chi tiết hơn về quá trình “định vị” cảm xúc của chúng ta.
Mặc dù bạn có thể làm điều tương tự với tất cả các bài tập ở phần này, nhưng bạn cần phải đặc biệt chăm chỉ để khái quát trải nghiệm này, biến nó thành một phần trong cuộc sống hằng ngày của bạn. Chúng ta thường dựa vào cơ chế phòng vệ này để biện minh cho tất cả những biện pháp phòng khác mà ta sử dụng, như một phương án dự phòng. Bởi vậy, hãy truy nguyên lại về sự đúng đắn của nó để lí giải các biện pháp phòng vệ trong chúng ta. Tôi sẽ thảo luận trong phần cuối của cuốn sách này.