T
herese đi vào căn phòng cũ của mình, và điều đầu tiên mà cô chú ý tới là góc thảm đã được trải thẳng thớm. Căn phòng trông thật nhỏ bé và buồn chán. Vậy nhưng nó thuộc về cô, chiếc radio nhỏ xíu trên giá sách, chồng gối trên ghế, tất cả đều mang đậm dấu ấn cá nhân như một chữ ký cô đã viết từ rất lâu và rồi quên mất.
Như hai hoặc ba tấm bìa mẫu đang treo trên tường mà cô cố tình tránh nhìn vào.
Cô đi ra ngân hàng và rút ra một trăm trong hai trăm đô la còn lại, mua một chiếc váy đen và một đôi giày.
Ngày mai, cô sẽ gọi điện cho Abby và xử lý chiếc xe của Carol, không phải hôm nay.
Cùng buổi chiều hôm đó, cô hẹn với Ned Bernstein, đồng sản xuất của vở kịch Anh quốc mà Harkevy đang làm bối cảnh. Cô mang theo ba tấm bìa mẫu mà cô đã làm ở miền Tây và cả những bức hình Cơn Mưa Nhỏ để giới thiệu với anh ta. Nếu cô được nhận vào làm thực tập sinh với Harkevy thì cũng chẳng đủ tiền để sống, nhưng vẫn còn nhiều việc khác, những việc còn tốt hơn là làm trong cửa hàng. Ví dụ như làm ở đài truyền hình chẳng hạn.
Ông Bernstein nhìn tác phẩm của cô một cách lãnh đạm. Therese nói rằng cô chưa báo cho Harkevy và hỏi liệu ông Bernstein có biết gì về việc anh ấy tuyển trợ lý hay không. Ông Bernstein bảo rằng điều đó phụ thuộc vào Harkevy, nhưng theo ông ta biết thì anh ta không cần thêm trợ lý nữa. Và ông ta cũng không biết một studio nào cần tuyển người vào lúc này hết. Và Therese nghĩ tới chiếc váy sáu mươi đô. Và một trăm đô la còn lại trong ngân hàng. Cô còn bảo với bà Osborne rằng cứ dẫn người đi xem căn hộ bất kỳ lúc nào vì cô sắp chuyển đi nữa chứ. Therese chưa biết mình định đi đâu. Cô đứng dậy để ra về và cảm ơn ông Bernstein vì đã bỏ công sức để xem xét tác phẩm của cô. Cô mỉm cười khi nói ra điều đó.
“Thế còn đài truyền hình thì sao?” Ông ta hỏi. “Cô đã thử bắt đầu ở chỗ đó chưa? Ở đó dễ vào hơn.”
“Tôi sẽ gặp một người ở Dumont chiều nay.” Từ tháng Một, ông Donohue đã giới thiệu cho cô vài cái tên. Ông Bernstein giới thiệu cho cô thêm vài người nữa.
Rồi cô gọi tới studio của Harkevy. Anh ta nói mình đang định đi ra ngoài, nhưng cô có thể để mô hình của cô lại studio của anh ta trong hôm nay và sáng mai anh ta sẽ xem xét.
“Tiện thể, có một bữa tiệc cocktail ở St. Regis để chúc mừng Genevieve Cranell lúc năm giờ ngày mai. Nếu cô muốn tới dự,” Harkevy nói, cách nhấn âm của anh ta khiến giọng nói nhẹ nhàng trở nên chính xác như toán học, “ít nhất thì chúng ta chắc chắn sẽ gặp nhau ngày mai. Cô có thể tới không?”
“Có chứ. St. Regis ở đâu nhỉ?”
Anh ta đọc thiệp mời. Sảnh D. Từ năm đến bảy giờ. “Tôi sẽ đến đó lúc sáu giờ.”
Cô rời khỏi bốt điện thoại với cảm giác hạnh phúc như thể Harkevy vừa mời cô hợp tác. Cô đi bộ qua mười hai khu phố tới studio của anh ta và chuyển tác phẩm của mình cho một chàng trai ở đó, một người khác với người mà cô đã gặp hồi tháng Một. Harkevy có vẻ thường xuyên thay đổi trợ lý.
Cô nhìn quanh phòng làm việc của anh ta một cách cung kính trước khi đóng cửa lại.
Có lẽ anh ta sẽ để cô tới đây làm sớm. Có lẽ ngày mai cô sẽ biết.
Cô đi vào một cửa hàng tạp phẩm trên đường Broadway và gọi điện cho Abby ở New Jersey.
Giọng Abby khác hẳn lúc cô còn ở Chicago. Therese nghĩ Carol chắc đã khá hơn nhiều. Nhưng cô không hỏi thêm về Carol. Cô gọi điện để xử lý chiếc xe.
“Tôi có thể tới lấy nó về nếu cô muốn,” Abby nói. “Nhưng sao cô không gọi cho Carol nhỉ? Tôi biết là cậu ấy sẽ muốn nghe tin của cô.” Thật ra Abby đang cố gắng dụ dỗ cô.
“À…” Therese không muốn gọi cho chị. Nhưng cô có gì phải sợ nhỉ?
Sợ giọng của Carol hay chính Carol? “Được rồi. Tôi sẽ mang xe đến chỗ chị, trừ phi chị không muốn. Trong trường hợp đó thì tôi sẽ gọi lại cho chị.”
“Khi nào? Chiều nay à?”
“Phải. Trong vài phút nữa.”
Therese đi ra khỏi cửa hàng tạp hóa và đứng đó trong vài phút, nhìn sang biển quảng cáo thuốc lá Camel với hình con lạc đà có khuôn mặt khổng lồ thổi các vòng khói to đùng như những chiếc bánh doughnut khổng lồ, rồi cô nhìn chiếc taxi gầm trũng luồn lách như cá mập trong dòng xe cộ đổ ra sau buổi hòa nhạc, nhìn những biển quảng cáo nhà hàng và quán bar lộn xộn quen thuộc, nhìn những tấm bạt, cửa sổ và bậc thềm, những con hẻm màu đỏ nâu lộn xộn như hàng trăm con phố khác ở New York. Cô nhớ lại một lần mình đi bộ trên một con phố ở khu West 80s, những mặt tiền gạch nâu được chất đống đồ vật, nhỏ bé chật hẹp, và cô nhớ lại cảm giác đè nén mà nó mang lại cho cô, cô đã phải vội vã đi qua đó để tới đại lộ chính. Nó chỉ mới diễn ra cách đây hai, ba tháng thôi. Giờ thì cũng con phố kiểu đó lại khiến cô cảm thấy phấn khích một cách căng thẳng, cô muốn đâm đầu vào đó, muốn đi bộ trên vỉa hè với một dàn biển hiệu, lều của rạp hát, và những con người hối hả hay va vào nhau. Cô quay lại và đi ra khỏi bốt điện thoại.
Một giây sau, cô nghe giọng nói của Carol. “Em quay lại lúc nào thế, Therese?”
Cô đã thoáng khựng lại vì sốc khi nghe thấy âm thanh đầu tiên của chị, sau đó thì chẳng còn cảm xúc gì nữa. “Hôm qua.”
“Em thế nào rồi? Trông em vẫn như cũ chứ?” Carol có vẻ nén giọng, như thể có người đang ở cạnh chị, nhưng cô chắc chắn rằng chị ở một mình.
“Không hẳn. Chị thì sao?”
Carol đợi. “Giọng em khác quá.”
“Đúng vậy.”
“Chị có được gặp em không? Hay em không muốn? Chỉ một lần thôi.” Đó là giọng của Carol, nhưng câu nói ấy dường như không phải. Nó thật cẩn trọng và do dự. “Chiều nay thì sao? Em vẫn giữ xe ô tô chứ?”
“Chiều nay em phải đi gặp vài người. Không có thời gian đâu.”
Cô đã có lần nào từ chối Carol khi chị muốn gặp cô chưa? “Chị có muốn em lái xe tới vào ngày mai không?”
“Không, chị có thể đến lấy xe. Chị không tàn tật. Xe vẫn còn hoạt động tốt chứ?”
“Nó vẫn tốt,” Therese nói. “Không có vết xước nào hết.”
“Thế còn em thì sao?” Carol hỏi, nhưng Therese không trả lời. “Mai chị gặp em nhé? Buổi chiều em có thời gian không?”
Họ hẹn gặp ở một quán bar trong Ritz Tower trên đường Năm Mươi Bảy, lúc bốn rưỡi, rồi gác máy.
Carol đến muộn mười lăm phút. Therese ngồi đợi chị ở một chiếc bàn có thể nhìn ra cánh cửa kính dẫn vào quầy bar và cuối cùng cô cũng thấy Carol đẩy một bên cửa ra, cảm giác căng thẳng vỡ vụn thành từng cơn nhức nhối đờ đẫn trong cô. Carol vẫn mặc chiếc áo lông ấy, vẫn đi đôi giày cao gót đen bằng da lộn mà chị đã đi vào ngày đầu tiên Therese gặp chị, nhưng giờ một chiếc khăn đỏ được buộc trên mái tóc vàng ngẩng cao đầu. Cô nhìn thấy khuôn mặt của chị gầy đi nhiều, khuôn mặt ấy chuyển sang ngạc nhiên và khẽ cười khi nhìn thấy cô.
“Xin chào,” Therese nói.
“Mới đầu chị còn không nhận ra em đấy.” Chị đứng cạnh bàn hồi lâu để nhìn cô trước khi ngồi xuống. “Em thật tốt bụng khi chịu gặp chị.”
“Đừng nói thế.”
Bồi bàn tiến đến và Carol gọi trà. Therese cũng máy móc làm theo.
“Em có ghét chị không, Therese?” Carol hỏi cô.
“Không.” Therese có thể lờ mờ ngửi thấy hương nước hoa của Carol, mùi hương ngọt ngào quen thuộc mà hiện giờ lại lạ lẫm một cách kỳ cục, vì nó không còn gợi nên những cảm xúc ngày xưa nữa. Cô đặt vỏ bao diêm mà cô đang nắm chặt trong tay xuống. “Làm sao em có thể ghét chị được, Carol?”
“Chị nghĩ là em có thể. Em cũng có lúc từng ghét chị đúng không?” Carol chỉ như đang nói ra sự thật.
“Ghét chị à? Không.” Không hẳn thì đúng hơn. Nhưng cô biết đôi mắt của chị đọc được điều đó trên mặt cô.
“Và bây giờ... em đã trưởng thành... với kiểu tóc người lớn và quần áo người lớn.”
Therese nhìn vào đôi mắt xám đã trở nên nghiêm túc hơn của chị, không hiểu sao nó cũng có vẻ thông thái hơn, bất chấp cái đầu hếch cao quen thuộc, và cô lại nhìn xuống, không thể dò nổi đôi mắt ấy. Chị vẫn đẹp, Therese nghĩ với cảm giác mất mát đau nhói bất chợt hiện ra. “Em đã học được vài điều,” Therese nói.
“Gì thế?”
“Rằng em…” Therese dừng lại, suy nghĩ của cô đột nhiên bị chặn lại bởi ký ức về bức chân dung ở Sioux Falls.
“Em biết không, trông em rất tuyệt vời,” Carol nói. “Đột nhiên, em lột xác. Có phải đó là kết quả của việc rời khỏi chị không?”
“Không phải,” Therese đáp vội. Cô cau mày nhìn cốc trà mà cô không thích.
Cụm từ “lột xác” của Carol khiến cô nghĩ đến cảnh được tái sinh và nó làm cô xấu hổ. Phải, cô đã được tái sinh từ khi rời xa Carol. Cô đã được tái sinh ngay giây phút nhìn thấy bức tranh trong thư viện, tiếng nức nở nghẹn ngào của cô lúc ấy giống như tiếng khóc đầu tiên của trẻ sơ sinh khi bị lôi vào thế giới bất chấp ý nguyện của nó. Cô nhìn Carol. “Có một bức tranh ở trong thư viện ở Sioux Falls,” cô nói. Rồi cô kể cho Carol về bức tranh ấy, đơn điệu, không cảm xúc, như một câu chuyện đã xảy ra với người khác.
Và chị lắng nghe, không hề rời mắt khỏi cô. Carol quan sát cô như đang quan sát một người mà chị không thể giúp đỡ từ xa.
“Lạ lùng,” chị nói lặng lẽ. “Và đáng sợ.”
“Phải.” Therese biết Carol sẽ hiểu. Và cô cũng nhìn thấy sự đồng cảm trong mắt chị và cô mỉm cười, nhưng chị không cười đáp lại. Chị vẫn đang nhìn cô đăm đăm. “Chị đang nghĩ gì thế?” Therese hỏi.
Carol lấy một điếu thuốc lá ra. “Em nghĩ gì về ngày hôm đó ở trung tâm mua sắm?”
Therese lại mỉm cười. “Thật tuyệt vời khi chị tới chỗ em. Vì sao chị lại tới chỗ em?”
Carol đợi một lúc. “Vì một lý do nhạt nhẽo lắm. Vì em là cô gái duy nhất không bận như điên. Chị nhớ lúc đó em cũng không mặc áo khoác đồng phục.”
Therese phá ra cười. Carol chỉ cười mỉm, nhưng đột nhiên chị lại trở về là con người cũ, như hồi ở Colorado Springs, trước khi mọi chuyện xảy ra. Cùng lúc ấy, Therese nhớ lại giá nến cầm tay trong túi của mình.
“Em đã mua thứ này,” cô nói, đưa nó cho chị. “Em đã thấy nó ở Sioux Falls.”
Therese chỉ quấn một ít giấy trắng xung quanh nó. Carol mở nó ra trên bàn.
“Chị cảm thấy nó thật đẹp,” Carol nói. “Trông nó giống hệt em.”
“Cảm ơn. Em thì nghĩ trông nó giống như chị.” Therese nhìn vào bàn tay của Carol, ngón cái và đầu ngón giữa đặt lên vòng tròn mảnh mai của giá nến, hệt như cô thấy tay chị đặt trên đĩa đựng tách cà phê ở Colorado, Chicago, những vùng đất đã rơi vào quên lãng. Therese nhắm mắt lại.
“Chị yêu em,” Carol nói.
Therese mở mắt ra, nhưng cô không ngước lên nhìn.
“Chị biết em không còn cảm xúc đó đối với chị. Phải không?”
Therese muốn phủ nhận điều đó, nhưng cô có thể làm như vậy không? Cô không còn cảm xúc đó nữa. “Em không biết nữa, Carol.”
“Cũng vậy cả.” Giọng chị dịu dàng, mong đợi, chờ một lời khẳng định hoặc phủ nhận.
Therese nhìn chằm chằm vào chồng bánh nướng hình tam giác trên cái khay giữa hai người. Cô nghĩ tới Rindy. Cô đã cố không hỏi về cô bé. “Chị đã gặp Rindy chưa?”
Chị thở dài. Therese thấy tay chị rụt khỏi giá nến. “Rồi, vào Chủ nhật tuần trước, khoảng một tiếng. Quá ít ỏi. Chị đã hoàn toàn gục ngã.”
“Em tưởng chị bảo vài tuần một năm.”
“À thì có thêm vài chuyện nhỏ nữa đã diễn ra - chuyện riêng giữa chị và Harge thôi. Chị không chịu đáp ứng kha khá yêu cầu anh ta đề ra. Và gia đình anh ta cũng can thiệp. Chị không chịu sống theo một danh sách quy chuẩn ngớ ngẩn mà họ lập ra - cho dù điều đó có nghĩa là họ sẽ cách ly Rindy với chị như thể chị là quỷ ăn thịt người. Và họ thật sự làm vậy. Harge đã kể mọi chuyện cho luật sư - tất cả những gì mà luật sư còn chưa được biết.”
“Chúa tôi,” Therese thì thầm. Cô có thể tưởng tượng ra điều đó có nghĩa là gì, một chiều Rindy tới thăm, được tháp tùng bởi một nữ gia sư mắt cú vọ, người đã được cảnh báo trước về Carol, cô ta được ra lệnh không để đứa trẻ rời khỏi tầm mắt của cô ta, và Rindy cũng sẽ sớm nhận ra điều đó. Thế thì việc đến thăm còn gì vui thú nữa? Harge, Therese không muốn gọi tên anh ta nữa. “Thậm chí, quan tòa còn tử tế hơn,” cô nói.
“Hiển nhiên là chị cũng không hứa hẹn gì nhiều ở tòa. Ở đó chị cũng từ chối tuân thủ.”
Therese bất giác mỉm cười, bởi vì cô thấy mừng khi Carol đã từ chối, mừng khi chị vẫn còn kiêu hãnh.
“Nhưng em biết đấy, đó không phải là một phiên tòa, mà chỉ là một cuộc thảo luận bàn tròn thôi. Em có biết họ thực hiện ghi âm ở Waterloo như thế nào không? Họ đóng một đầu nhọn vào tường, gần như ngay khi chúng ta tới nơi.”
“Một cái đinh à?”
“Chị nhớ đã nghe thấy có người đóng búa vào tường. Chị nghĩ nó diễn ra lúc chúng ta vừa tắm xong. Em có nhớ không?”
“Không.”
Carol mỉm cười. “Một cái đinh ghi lại âm thanh như máy thu âm. Hắn ta ở ngay bên cạnh phòng chúng ta.”
Therese không nhớ vụ đóng búa, nhưng sự tàn nhẫn của toàn bộ câu chuyện quay lại với cô, thật là một hành động tàn phá, hủy diệt. “Mọi chuyện đã xong rồi,” Carol nói. “Em biết đấy, chị thà không gặp Rindy nữa còn hơn. Chị sẽ không bao giờ đòi gặp con bé nếu nó không còn muốn gặp chị nữa. Chị sẽ để nó quyết định điều đó.”
“Em không thể tưởng tượng nổi một ngày cô bé không bao giờ muốn gặp chị nữa.”
Lông mày Carol nhướn lên. “Có cách nào để dự đoán những gì Harge có thể làm với con bé không?”
Therese im lặng. Cô rời mắt khỏi Carol và nhìn thấy một chiếc đồng hồ. Bây giờ là năm giờ ba mươi lăm. Cô nên đến dự bữa tiệc cocktail trước sáu giờ, nếu cô định đi. Cô đã trưng diện để tới đó, mặc bộ váy đen mới, đeo khăn quàng trắng, xỏ đôi giày mới, đeo đôi găng tay đen mới.
Và giờ đây, bộ đồ ấy mới thật vô nghĩa làm sao. Đột nhiên, cô nghĩ tới đôi găng tay bằng len xanh mà sơ Alicia đã đưa cho cô. Nó có còn nằm trong tờ giấy ăn cũ kỹ ở dưới đáy hòm của cô không nhỉ? Cô muốn quẳng nó đi.
“Người ta rồi sẽ vượt qua thôi,” Carol nói.
“Phải.”
“Harge và chị đang bán ngôi nhà đó và chị đã mua một căn hộ ở trên đại lộ Madison. Và tìm một công việc, dù em có tin hay không. Chị sẽ đi mua hàng cho một cửa hàng nội thất trên đại lộ Bốn. Tổ tiên của chị hẳn từng làm nghề thợ mộc.” Chị nhìn Therese. “Dẫu sao đi nữa, đó là một công việc và chị thích nó. Căn hộ của chị cũng đẹp và to lắm - đủ to cho hai người. Chị cứ hy vọng em sẽ muốn chuyển đến sống cùng chị, nhưng chị đoán em không muốn nữa rồi.”
Trái tim Therese nhảy lên, hệt như cái lần Carol gọi cho cô ở cửa hàng hôm ấy. Một thứ gì đó trong cô phản ứng lại bất chấp ý chí, khiến cô cảm thấy dâng trào hạnh phúc và tự hào. Cô tự hào vì Carol đủ can đảm để làm những việc đó, nói ra điều đó, vì chị luôn luôn can đảm. Cô nhớ lại sự can đảm của chị lúc đối mặt với gã thám tử trên con đường quê. Therese nuốt nước bọt, cố đè nén trái tim đập dồn dập của mình. Carol thậm chí còn không nhìn cô. Chị đang di đầu thuốc lá trên gạt tàn. Sống cùng chị sao?
Từng có lúc điều đó là bất khả thi, và cũng là điều cô khao khát nhất trên thế gian này. Được sống cùng chị, sẻ chia mọi thứ cùng chị, dù mùa đông hay mùa hè, được đi bộ và đọc sách cùng nhau, du lịch cùng nhau. Và cô nhớ lại những ngày căm ghét Carol, khi ấy cô đã mường tượng ra cảnh Carol đề nghị cô như thế này và cô sẽ từ chối.
“Được không?” Carol nhìn cô.
Therese cảm thấy mình đang chấp chới trên vực sâu. Cảm giác căm ghét đã biến mất.
Chẳng còn gì ngoài quyết định đó, cô như một sợi chỉ mỏng manh lơ lửng trên không trung, hai bên chẳng có gì để kéo cô lại. Nhưng một bên là Carol, và bên còn lại là dấu hỏi chấm trống không. Một bên là Carol, và mọi chuyện sẽ khác, vì bây giờ cả hai người họ đều đã khác. Đó sẽ là một thế giới xa lạ như thế giới mà cô mới bước chân vào. Chỉ có điều bây giờ không còn vật cản nữa. Therese nghĩ đến hương nước hoa của Carol mà ngày hôm nay đã chẳng còn ý nghĩa gì. Một chỗ trống để điền vào, Carol sẽ nói như vậy.
“Sao nào,” Carol mỉm cười nói, chị đang mất kiên nhẫn.
“Không,” Therese nói. “Em nghĩ là không.” Bởi vì rồi chị sẽ lại phản bội em. Đó là những gì cô đã nghĩ ở Sioux Falls, điều cô định viết thư hoặc nói với chị. Nhưng Carol đâu có phản bội cô. Carol yêu cô hơn cả con gái chị. Đó là một phần lý do chị không đáp ứng các yêu cầu của luật sư. Giờ đây, chị đang đánh một canh bạc như cái ngày chị đánh cược sẽ nhận được tất cả mọi thứ từ gã thám tử trên con đường đó và khi ấy chị cũng đã thua. Và giờ cô nhìn thấy khuôn mặt của chị thay đổi, thấy những dấu hiệu nhỏ thể hiện sự chết lặng và sửng sốt, chúng nhỏ bé đến mức có lẽ chỉ có cô có thể nhận ra chúng trên thế giới này và trong khoảnh khắc, Therese chẳng nghĩ được gì.
“Đó là quyết định của em,” Carol nói.
“Đúng vậy.”
Carol nhìn đăm đăm xuống chiếc bật lửa trên bàn. “Thế đấy.”
Therese nhìn chị, vẫn muốn đưa tay ra để chạm vào tóc chị, để giữ nó thật chặt trong các ngón tay cô. Carol không nghe ra vẻ do dự trong giọng cô sao? Đột nhiên, cô chỉ muốn bỏ chạy, lao thật nhanh ra ngoài cửa và đi ra vỉa hè. Bây giờ là sáu giờ kém mười lăm.
“Chiều nay, em phải đi dự một bữa tiệc cocktail. Nó quan trọng vì có liên quan tới một công việc tiềm năng. Harkevy sẽ có mặt ở đó.” Cô chắc chắn anh ta sẽ trao cho cô một công việc nào đó, cô chắc chắn. Buổi trưa hôm nay, cô đã gọi điện lại để hỏi về những tấm bìa mà cô gửi ở studio của anh ta. Harkevy thích tất cả. “Hôm qua, em cũng nhận được một công việc ở đài truyền hình.”
Carol ngẩng đầu lên, mỉm cười. “Vĩ nhân của chị. Giờ thì trông em giống một người tinh anh rồi đấy. Em có biết là đến giọng em cũng thay đổi không?”
“Thật sao?” Therese do dự, cảm thấy việc ngồi lại đây ngày một khó khăn hơn.
“Carol, chị có thể đến dự bữa tiệc nếu muốn. Đó là một bữa tiệc lớn được tổ chức ở sảnh khách sạn - chào đón một người phụ nữ sẽ đóng vai chính trong vở kịch của Harkevy. Em biết là họ sẽ không để ý nếu em rủ thêm một người đi cùng đâu.” Và cô cũng chẳng biết vì sao mình lại rủ chị và vì sao chị lại có thể muốn đi dự một bữa tiệc cocktail vào lúc này cơ chứ.
Carol lắc đầu. “Không, cảm ơn em, em yêu. Em nên chạy đến đó một mình thôi. Chị cũng có hẹn ở Elysee trong vài phút nữa rồi.”
Therese đặt găng tay và túi vào lòng. Cô nhìn vào tay của Carol, những đốm tàn nhang nhạt màu rải rác trên mu bàn tay - chiếc nhẫn cưới đã biến mất - rồi cô nhìn vào mắt của Carol. Cô cảm thấy rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại chị nữa. Chưa đầy hai phút nữa, họ sẽ chia tay trên vỉa hè. “Xe ở bên ngoài. Ở bên trái cửa. Còn chìa khóa đây.”
“Chị biết, chị đã nhìn thấy nó.”
“Chị có định ở lại thêm một lát không?” Therese hỏi chị. “Em sẽ trả tiền.”
“Chị sẽ trả,” Carol nói. “Đi đi nếu em vội.”
Therese đứng dậy. Cô không thể bỏ chị ngồi lại ở chiếc bàn vẫn còn đặt hai cốc trà của họ, với tàn thuốc lá trước mặt. “Đừng ngồi lại đây. Ra ngoài với em đi.” Carol ngẩng lên nhìn với vẻ ngạc nhiên dò hỏi hiện rõ trên mặt. “Được rồi,” chị nói. “Có vài món đồ của em ở trong nhà chị. Chị có nên…”
“Điều đó không quan trọng,” Therese cắt lời chị.
“Cả hoa của em nữa. Mấy chậu cây của em.” Carol đang thanh toán hóa đơn mà người bồi bàn mang đến.
“Có chuyện gì với những bông hoa mà em đưa chị vậy?”
“Những bông hoa mà em đưa cho chị - chúng đã chết rồi.” Mắt của Carol nhìn vào mắt cô trong giây lát và Therese quay mặt đi. Họ chia tay trên vỉa hè, ở góc đường Park và đại lộ Năm Mươi Bảy. Therese chạy băng qua đường, ngay trước khi đèn giao thông chuyển sang màu xanh và thả phanh cho một dãy ô tô sau lưng, xóa nhòa hình ảnh của Carol khi chị bước đi ở vỉa hè bên kia. Carol chậm rãi bước đi, đi qua cửa Ritz Tower rồi cứ tiếp tục bước đi. Mọi chuyện nên như thế, Therese nghĩ, không có cái nắm tay níu kéo, không có ánh mắt ngoái lại nhớ thương. Rồi khi cô nhìn thấy chị chạm vào tay nắm cửa xe, cô nhớ ra lon bia vẫn nằm ở dưới ghế trước, nhớ lại tiếng leng keng của nó khi cô đi lên con đường dốc từ hầm Lincoln vào New York. Lúc ấy, cô đã nghĩ mình phải bỏ nó ra trước khi trả xe cho Carol nhưng rồi lại quên mất.
Therese vội vã đi tới khách sạn.
Mọi người đã bắt đầu tràn ra khỏi hai ô cửa và vào trong sảnh, một người bồi bàn vất vả cố gắng đẩy cái bàn có bánh xe đựng các xô đá vào phòng. Căn phòng hết sức ồn ào và Therese không nhìn thấy Bernstein hay Harkevy ở đâu cả. Cô chẳng quen một ai hết. Trừ một người mà cô đã nói chuyện cách đây mấy tháng ở đâu đó về một công việc không có thực.
Therese quay lại. Một người đàn ông dúi một cái ly cao vào trong tay cô.
“Thưa cô,” anh ta nói một cách hoa mỹ. “Có phải cô đang tìm một ly rượu không?”
“Cảm ơn anh.” Cô không ở lại cùng anh ta. Cô nghĩ mình đã nhìn thấy ông Bernstein ở góc phòng. Có vài người phụ nữ đội mũ rộng chắn đường của cô.
“Cô có phải là một diễn viên không?” Anh chàng đó vẫn cứ gặng hỏi cô, cùng cô len lỏi trong đám đông.
“Không. Tôi là nhà thiết kế sân khấu.”
Đúng là ông Bernstein và Therese lách qua một nhóm người và tiến đến gần ông ta. Ông ta chìa một bàn tay mập mạp, thân ái ra với cô và đứng dậy khỏi chiếc ghế trên lò sưởi của mình.
“Cô Belivet!” Ông ta hét lên. “Đây là bà Crawford, tư vấn trang điểm…”
“Đừng nói chuyện công việc!” Bà Crawford rít lên.
“Đây là anh Stevens, anh Fenelon,” ông Bernstein tiếp tục mãi không ngừng cho tới tận khi cô đã gật đầu chào cả tá người và nói “Xin chào” với khoảng nửa số đó. “Và Ivor… Ivor!” Ông Bernstein gọi vọng ra.
Harkevy xuất hiện, người mảnh khảnh với khuôn mặt thanh mảnh và một bộ ria mép nhỏ, anh ta mỉm cười với cô và chìa tay ra bắt tay cô. “Xin chào,” anh ta nói. “Tôi rất mừng được gặp lại cô. Phải, tôi rất thích tác phẩm của cô. Tôi thấy cô có phần lo lắng nhỉ.”
Anh ta cười.
“Đủ để cho tôi một chân chứ?” Cô hỏi.
“À tất nhiên là cô nôn nóng rồi,” anh ta mỉm cười nói. “Phải, cô có một chân. Ngày mai, hãy tới studio của tôi tầm mười một giờ. Cô có tới được không?”
“Được.”
“Lát nữa hãy đến chỗ tôi nhé. Tôi phải chào tạm biệt những người đang chuẩn bị ra về.” Và anh ta bỏ đi.
Therese đặt cốc nước xuống mép bàn và lấy một điếu thuốc lá trong túi ra. Mọi chuyện đã xong rồi. Cô nhìn ra cửa. Một người phụ nữ với mái tóc vàng buông xõa, đôi mắt xanh lục rực rỡ, mãnh liệt vừa mới bước vào phòng và khiến cả đám người xung quanh chộn rộn phấn khích. Cô ta có phong thái lanh lợi, hồ hởi khi quay sang tiếp đón và bắt tay mọi người và đột nhiên, Therese nhận ra rằng cô ta là Genevieve Cranell, nữ diễn viên người Anh đóng vai chính. Cô ta trông khác hẳn vài bức ảnh tĩnh mà Therese đã nhìn. Cô ta có kiểu khuôn mặt phải nhìn tận mắt mới thấy hấp dẫn.
“Xin chào, xin chào!” Cô ta chào tất cả mọi người khi nhìn quanh phòng và Therese nhận thấy ánh mắt của cô ta nấn ná ở chỗ cô trong giây lát, trong khi Therese cảm thấy sốc hệt như khi cô nhìn thấy Carol lần đầu tiên, và đôi mắt xanh dương của cô ta lóe lên vẻ hứng thú đã từng nằm trong mắt cô khi nhìn thấy Carol. Và giờ, Therese tiếp tục nhìn cô ta, còn cô ta thì đã quay đi chỗ khác.
Therese nhìn xuống ly rượu trong tay, rồi đột nhiên, cô cảm thấy nóng bừng cả mặt và các đầu ngón tay, cảm xúc dâng trào bên trong ấy không chỉ diễn ra trong huyết quản hoặc trong dòng suy nghĩ của cô. Trước cả khi được giới thiệu, cô đã biết người phụ nữ này giống như Carol. Cô ta đẹp lộng lẫy. Và cô ta trông không giống với người phụ nữ trong bức tranh ở thư viện. Therese mỉm cười khi nhấp rượu. Cô uống một ngụm lớn để trấn tĩnh lại.
“Cô lấy một bông hoa chứ, thưa cô?” Một người bồi bàn giơ một cái khay đựng đầy hoa lan trắng ra.
“Cảm ơn nhiều.” Therese cầm lấy một bông. Cô không cài hoa vào được, và một người nào đó - ông Fenelon hay Stevens gì đó - tới giúp cô.
“Cảm ơn,” cô nói.
Genevieve Cranell đang tiến về phía cô với ông Bernstein theo sau.
Cô diễn viên chào người đàn ông ở cạnh Therese như thể họ quen nhau.
“Cô đã gặp cô Cranell chưa nhỉ?” Ông Bernstein hỏi Therese.
Therese nhìn cô ta. “Tên tôi là Therese Belivet.” Cô nắm lấy bàn tay chìa ra của cô ta.
“Chào cô. Vậy cô thuộc bộ phận đạo cụ phải không?”
“Không. Chỉ một nhóm nhỏ trong đó thôi.” Cô vẫn cảm nhận được cái nắm tay còn đọng lại dù cô ta đã thả tay cô ra. Cô cảm thấy phấn khích một cách hoang dại và ngớ ngẩn.
“Không có ai mang nước đến cho tôi sao?” Cô Cranell hỏi.
Ông Bernstein tuân lệnh. Ông giới thiệu cô ta với những người chưa gặp cô ta ở xung quanh. Therese nghe cô ta bảo với ai đó rằng cô ta chỉ vừa xuống máy bay và đống hành lý của cô ta vẫn còn chất đống trong sảnh, và trong khi nói, Therese nhận thấy cô ta khẽ liếc mắt nhìn cô vài lần qua vai những người đàn ông. Therese cảm thấy cuốn hút một cách phấn khích khi nhìn mái tóc gọn gàng của cô ta, nhìn cái mũi hếch lên một cách vui vẻ và bất cần, nét phóng khoáng duy nhất trên khuôn mặt cổ điển của cô ta. Môi cô ta khá mỏng. Trông cô ta có vẻ cực kỳ hốt hoảng, nhưng cũng điềm đạm một cách bình thản. Tuy nhiên, Therese cảm thấy rằng Genevieve có thể sẽ không nói chuyện lại với cô ở bữa tiệc này chỉ vì một lý do đơn giản là cô ta muốn làm vậy.
Therese đi tới trước một tấm gương trên tường và liếc xem tóc và son môi của cô có còn ổn không.
“Therese,” một giọng nói gần cô vang lên. “Cô có thích sâm panh không?”
Therese quay lại và thấy Genevieve Cranell. “Tất nhiên.”
“Tất nhiên. À, tí nữa đi lên phòng sáu một chín nhé. Đó là phòng riêng của tôi. Lát nữa chúng tôi sẽ tổ chức tiệc riêng.”
“Tôi vô cùng vinh hạnh,” Therese nói.
“Nên đừng phí công uống rượu pha soda làm gì. Cô đã mua chiếc váy đáng yêu này ở đâu vậy?”
“Bonwit - tôi đã vung tiền quá trớn.”
Genevieve Cranell bật cười. Cô ta mặc một bộ đồ len màu xanh dương trông có vẻ rất đắt đỏ. “Trông cô rất trẻ, tôi nghĩ cô sẽ không bận tâm nếu tôi hỏi cô bao nhiêu tuổi đâu nhỉ.”
“Tôi hai mươi mốt.”
Cô ta đảo mắt. “Tuyệt thật. Còn có người mới hai mươi mốt tuổi thôi sao?”
Mọi người đang quan sát nữ diễn viên. Therese cảm thấy phổng mũi, phổng mũi một cách quá đáng, và cảm giác ấy xen vào giữa cảm giác mà cô dành cho Genevieve Cranell.
Cô ta mời cô một điếu thuốc. “Tôi đã nghĩ cô còn chưa vị thành niên đâu đấy.”
“Như vậy có phải là phạm tội không?”
Cô ta chỉ nhìn cô, đôi mắt xanh dương mỉm cười trên ngọn lửa bập bùng của bật lửa. Rồi cô ta quay đầu đi để châm thuốc lá, đột nhiên, Therese biết rằng Genevieve sẽ chẳng bao giờ có ý nghĩa gì với cô ngoại trừ nửa tiếng đồng hồ ở bữa tiệc cocktail này, rằng sự phấn khích mà cô đang cảm thấy này sẽ chẳng kéo dài, sẽ chẳng nổi lên một lần nào nữa dù ở bất kỳ đâu hay bất kỳ lúc nào. Điều đó nói lên điều gì đối với cô nhỉ?
Therese nhìn chằm chằm vào hàng lông mày vàng thẳng tưng của Genevieve Cranell khi làn khói đầu tiên thoát ra khỏi điếu thuốc lá của cô ta, nhưng cô không tìm được câu trả lời ở đó. Và đột nhiên, cảm giác bi thảm, gần như là hối hận, dâng lên trong cô. “Cô là người New York à?” Cranell hỏi cô.
“Vivy!”
Một nhóm người mới vừa bước vào cửa bao vây Genevieve Cranell và lôi cô ta đi. Therese mỉm cười và uống nốt cốc rượu, cô cảm thấy hơi ấm an ủi của cốc Scotch lan đi trong người cô. Cô tán gẫu với một người đàn ông mà cô đã gặp ở trong văn phòng của ông Bernstein ngày hôm qua, và còn có cả một người đàn ông mà cô không hề quen biết, rồi cô nhìn vào ngưỡng cửa bên kia phòng, hiện giờ nó chỉ là một hình chữ nhật trống không và cô nghĩ tới Carol. Nếu là chị thì chị sẽ đến để hỏi cô thêm một lần nữa. Hay phải nói rằng, chị ngày xưa thì thế, nhưng bây giờ thì không như vậy nữa.
Carol sẽ đến cuộc hẹn ở quán bar ở Elysee. Với Abby sao?
Hay với Stanley McVeigh? Therese rời mắt khỏi cửa như sợ Carol sẽ xuất hiện và rồi cô lại phải từ chối một lần nữa.
Therese nhận thêm một cốc rượu và cảm thấy sự trống rỗng trong cơ thể chậm rãi được lấp đầy khi nhận ra mình sẽ thường xuyên gặp Genevieve Cranell nếu cô muốn và dù cô sẽ không bao giờ trở nên gắn bó với cô ta thì cô vẫn có thể được yêu.
Một người đàn ông bên cạnh cô hỏi, “Ai dựng bối cảnh cho vở Messiah Mất Tích nhỉ, Therese? Em có nhớ không?”
“Blanchard à?” Cô trả lời lơ đễnh vì còn mải nghĩ tới Genevieve Cranell, với cảm giác sợ hãi, xấu hổ vì những gì cô vừa nghĩ tới, biết rằng mình sẽ không bao giờ làm vậy. Cô nghe cuộc đối thoại giữa Blanchard và một người nữa, thậm chí cô còn tham gia vào đó, nhưng ý thức của cô vẫn còn bị nhốt lại giữa một đống bùi nhùi gồm nhiều sợi chỉ giao nhau và thắt nút lại. Một là Dannie. Một là Carol. Một là Genevieve Cranell.
Từng sợi cứ đi qua, đi qua, nhưng tâm trí cô thì vẫn kẹt ở giữa. Cô cúi xuống để lấy bật lửa châm thuốc lá và cảm thấy mình rơi sâu thêm vào cái mạng nhện đó, cô níu lấy Dannie. Nhưng sợi chỉ đen mạnh mẽ ấy lại chẳng dẫn đến đâu hết. Cô biết rõ điều đó như thể có một giọng nói báo trước cho cô rằng cô sẽ không tiến xa với Dannie. Và cảm giác cô đơn lại quét qua người cô như một cơn gió mạnh, nó đến một cách huyền bí như những giọt nước mắt mong manh vừa đột nhiên làm mờ mắt cô, vì biết nó quá mỏng manh chẳng ai thèm chú ý nên cô mới dám ngẩng đầu lên và nhìn ra cửa.
“Đừng quên đấy.” Genevieve Cranell lại tới bên cô, vỗ nhẹ vào cánh tay của cô, nói vội, “Phòng sáu một chín. Chúng tôi định hoãn lại một lúc.” Cô ta vừa mới quay đi nhưng rồi lại quay lại. “Cô sẽ lên chứ? Harkevy cũng dự đấy.”
Therese lắc đầu. “Cảm ơn, tôi… tôi cứ tưởng mình có thể, nhưng vừa nhớ ra mình phải tới một chỗ khác.”
Cô ta nhìn cô dò hỏi. “Có chuyện gì thế, Therese? Có gì không ổn sao?”
“Không.” Cô mỉm cười, đi ra cửa. “Cảm ơn vì đã hỏi thăm. Chắc chắn chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.”
“Chắc chắn rồi,” cô ta nói.
Therese đi vào căn phòng cạnh phòng lớn và lấy áo khoác trong đống áo treo trên cột giường. Cô vội vã đi dọc hành lang tới cầu thang, qua nhóm người đang đợi thang máy, Genevieve Cranell cũng đứng giữa họ và Therese không thèm quan tâm dù cô ta có thấy cô hay không khi cô lao xuống cầu thang như thể đang chạy trốn một thứ gì đó. Therese mỉm cười một mình. Không khí lạnh lẽo nhưng ngọt ngào phả qua trán cô, tạo ra âm thanh như tiếng vỗ cánh lướt qua tai cô, và cô có cảm giác như mình đang bay qua những con đường và góc phố. Bay về phía Carol. Và có lẽ lúc này, Carol cũng biết điều đó, vì trước đây lúc nào chị cũng biết điều đó. Cô băng qua thêm một con đường nữa và mái hiên của Elysee xuất hiện trước mặt.
Người quản lý nói gì đó với cô ở sảnh, cô bảo ông ta rằng “Tôi đang tìm người” và đi tiếp qua cửa.
Cô đứng ở cửa, nhìn qua những con người đang ngồi ở các bàn trong một căn phòng có tiếng đàn piano phát ra. Đèn không sáng, và mới đầu cô không nhìn thấy chị khi chị bị khuất nửa người trong bóng tối của một bức tường xa xa, đối diện với cô. Carol cũng không nhìn thấy cô. Một người đàn ông ngồi đối diện với chị mà Therese không quen mặt. Carol chậm rãi nâng tay lên và vuốt tóc ra đằng sau, mỗi bên một lần và Therese bất giác mỉm cười vì động tác đó đậm chất Carol, Carol mà cô yêu và sẽ vẫn hằng yêu. Chỉ có điều, bây giờ tình yêu ấy đã khác, vì cô là một con người mới, cô cảm thấy như gặp gỡ chị từ đầu, nhưng đó vẫn là Carol chứ không phải ai khác. Vẫn là chị, trong cả ngàn thành phố, cả ngàn ngôi nhà, ở những đất nước mà họ sẽ cùng nhau đi tới, dù ở thiên đường hay địa ngục. Therese chờ đợi.
Rồi ngay khi cô định tới chỗ Carol, chị nhìn thấy cô, dường như chị phải căng mắt ra nhìn cô một cách ngờ vực trong giây lát và rồi Therese thấy nụ cười chậm rãi nở ra, trước khi cánh tay chị đột ngột nhấc lên, hăm hở vẫy tay với cô theo một cách mà Therese chưa từng thấy. Cô tiến về phía chị.