Khi đang trên đường đến Pensacola thăm mẹ, Popeye bị bắt ở Birmingham vì tội giết một cảnh sát tại một trị trấn nhỏ ở Alabama ngày Mười bảy tháng Sáu năm đó. Hắn bị bắt vào tháng Tám. Vào đêm Mười bảy tháng Sáu đó, Temple đã đi ngang qua hắn lúc hắn đang ngồi trong một chiếc xe đỗ trên đường bên cạnh căn nhà, cái đêm Red bị giết.
Mùa hè nào, Popeye cũng đi thăm mẹ. Bà ta nghĩ hắn là một thư ký ca đêm cho một khách sạn ở Memphis.
Mẹ hắn là con gái của một ông chủ nhà trọ. Cha hắn là một tay chuyên phá hoại các cuộc đình công, được công ty xe lửa thuê để phá vỡ một cuộc đình công vào năm 1900. Mẹ hắn vào thời điểm đó đang làm việc tại một cửa hàng bách hóa ở trung tâm thị trấn. Ba đêm liền, bà ngồi trên xe buýt cạnh cha Popeye - tài xế của chiếc xe đó. Một đêm, tay phá hoại đình công xuống xe ở chỗ nhà bà và cùng bà ta đi bộ về nhà.
“Anh sẽ không bị đuổi việc chứ?”, bà hỏi.
“Ai đuổi?”, tay phá hoại đình công nói. Họ đi bộ cùng nhau. Ông ta ăn mặc khá đẹp. “Phe bên kia sẽ nhanh chóng thuê anh. Họ cũng biết chuyện đó.”
“Ai sẽ thuê anh?”
“Những người đình công. Anh chả thèm quan tâm lái xe cho ai. Với ai, anh cũng vậy thôi. Tuy nhiên anh sẽ thích hơn, nếu có thể đi tuyến đường này mỗi đêm vào giờ này.”
Bà đi bên cạnh ông ta. “Anh không nghĩ như thế đâu”, bà nói.
“Chắc chắn là anh nghĩ thế.” Ông ta nắm lấy cánh tay bà.
“Em đoán anh rồi sẽ sớm kết hôn với một ai đó như cách những người khác vẫn làm.”
“Ai đã nói với em thế?”, ông ta nói. “Cái bọn khốn đó đang bàn tán về anh à?”
Một tháng sau, bà bảo ông ta rằng họ phải kết hôn.
“Ý em là sao, phải ư?”, ông ta nói.
“Em không dám nói cho họ biết. Nếu không em sẽ phải bỏ đi. Em không dám.”
“Thôi được, đừng lo lắng. Anh tự nguyện mà. Dù sao anh cũng phải đi ngang qua đây mỗi đêm.”
Họ kết hôn. Ông sẽ đi ngang qua góc phố này vào ban đêm. Ông sẽ dùng chân nhấn cái chuông. Đôi khi, ông sẽ về nhà. Ông sẽ đưa cho bà tiền. Mẹ bà thích ông, ông sẽ ồn ào đi vào trong nhà vào giờ ăn tối Chủ nhật, gọi những người khách thuê trọ khác, thậm chí những người già, bằng tên Thánh của họ. Rồi một hôm, ông không về, ông không nhấn cái chuông dưới chân khi chuyến xe lửa đi ngang qua. Khi ấy, cuộc đình công đã chấm dứt. Bà nhận được một thiệp Giáng sinh từ ông, một bức hình với một cái chuông và vòng hoa dập nổi mạ vàng, từ một thị trấn ở Georgia. Cái thiệp viết: “Người ta đang cố gắng sửa chữa nó trên này. Nhưng họ làm rất lề mề. Có lẽ mọi chuyện sẽ tiếp tục cho đến khi bọn anh đập tan được một thị trấn, ha ha ha”. Từ đập tan đã được gạch chân.
Ba tuần sau khi kết hôn, bà bắt đầu khó ở. Bà có thai. Bà không đến khám bác sĩ, bởi vì một bà lão da đen đã nói cho bà những thông tin sai lệch. Popeye được sinh ra vào ngày Giáng sinh, cái ngày mà bà mẹ hắn nhận được tấm thiệp. Lúc đầu, họ nghĩ hắn bị mù. Sau đó, họ khám phá ra là hắn không mù, mặc dù mãi đến năm bốn tuổi hắn mới học đi và nói. Cũng trong khoảng thời gian đó, người chồng thứ hai của bà ngoại hắn, một người đàn ông còi cọc, khó chịu, với bộ ria mép mềm mại và rậm rạp, người cứ luẩn quẩn làm việc vặt vãnh trong nhà, sửa những bậc thang bị hỏng, những chỗ nước rò rỉ và đại khái thế, đã bỏ đi vào một buổi chiều với tấm ngân phiếu ký sẵn, chưa ghi số tiền, để thanh toán một hóa đơn mười hai đô la của hàng thịt. Ông ta không bao giờ trở lại. Ông ta rút một ngàn bốn trăm đô la trong tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng của bà vợ và biến mất.
Mẹ hắn vẫn làm việc ở trung tâm thành phố, trong khi bà ngoại chăm sóc đứa bé. Một buổi chiều, một trong những khách thuê trọ trở về và thấy phòng mình đang cháy. Ông ta dập tắt nó, một tuần sau ông ta tìm thấy một miếng mồi lửa trong thùng rác của mình. Bà ngoại đang chăm sóc đứa bé. Bà hay mang nó đi với bà. Một buổi tối, không ai thấy bà đâu. Các gia đình túa ra. Một người hàng xóm bật chuông báo cháy và những người lính cứu hỏa tìm thấy bà ngoại trên gác mái, đang dập một ngọn lửa bốc lên từ một đống mùn cưa ở giữa căn phòng, đứa bé đang ngủ trên một tấm nệm bỏ đi gần đó.
“Mấy đứa khốn kiếp đang cố gắng bắt thằng bé”, bà già nói. “Bọn chúng đốt nhà.” Ngày hôm sau, tất cả khách trọ rời đi.
Người phụ nữ trẻ bỏ việc. Mẹ hắn ở nhà suốt. “Con nên ra ngoài hít thở không khí”, bà ngoại nói.
“Con có đủ không khí rồi”, người con nói.
“Con có thể ra ngoài và mua mấy món đồ”, bà mẹ nói. “Con có thể mua chúng rẻ hơn.”
“Mình mua chúng đủ rẻ rồi.”
Bà xem xét tất cả củi lửa, bà không để một que diêm nào trong nhà. Bà cất một ít diêm sau một viên gạch ở vách tường bên ngoài. Popeye lúc đó được ba tuổi. Trông hắn chỉ giống đứa trẻ một tuổi, mặc dù được ăn uống rất khá. Một ông bác sĩ đã bảo mẹ hắn cho hắn ăn trứng rán dầu ô liu. Một buổi chiều, cậu nhỏ giao hàng tạp hóa, đi xe đạp vào sân trước, bị trượt bánh và ngã. Một cái gì đó rỉ ra từ gói hàng. “Đó không phải là trứng”, cậu nhỏ nói. “Đó là một chai dầu ô liu. Cô phải mua loại dầu này đựng trong những cái can”, cậu nhỏ nói. “Ông ta không thể nhận ra sự khác biệt đâu. Cháu sẽ mang cho cô một can khác. Và cô nên sửa cái cổng đó đi. Cô muốn cháu bị gãy cổ vì nó à?”
Tới sáu giờ, cậu ta vẫn chưa quay lại. Đó là mùa hè. Không có lửa, không có một que diêm nào trong nhà. “Con sẽ quay về trong vòng năm phút”, mẹ hắn nói.
Bà rời nhà. Bà ngoại nhìn theo cho đến khi mẹ hắn khuất bóng. Sau đó, bà ngoại bọc đứa bé trong một cái chăn mỏng và rời nhà. Đây là một đường nhánh tách ra từ đường chính nơi có khu chợ - nơi những người giàu có trong những chiếc xe sang trọng dừng lại trên đường về nhà để mua sắm. Khi bà ngoại tới góc phố, một chiếc xe vừa tấp vào lề đường. Một người phụ nữ ra khỏi xe và đi vào một cửa hàng, để lại người tài xế da đen phía sau tay lái. Bà ngoại đi tới cái xe hơi.
“Cho tôi xin nửa đô la”, bà nói.
Người tài xế da đen nhìn bà ta. “Nửa gì?”
“Nửa đô la. Thằng bé đã làm vỡ cái chai.”
“Ồ”, người da đen nói. Anh ta thò tay vào túi. “Làm thế nào tôi biết được bà nói thật? Cô ta đã bảo bà ra xin tiền ở ngoài này phải không?”
“Tôi muốn xin nửa đô la. Thằng bé đã làm vỡ cái chai thật mà.”
“Vậy thì tôi cho là tôi nên đi vào trong”, người da đen nói.
“Nửa đô la thôi”, người đàn bà nói. Anh ta cho bà nửa đô la và đi vào cửa hàng. Người đàn bà dõi theo anh ta. Sau đó, bà đặt đứa bé lên ghế xe và đi theo người da đen. Đó là một cửa hàng tự phục vụ, nơi khách hàng từ từ di chuyển dọc một rào chắn theo hàng một. Người da đen đã đứng cạnh người phụ nữ da trắng rời khỏi xe ban nãy. Bà trông thấy người phụ nữ chuyển cho người da đen vài chai nước xốt cà chua. “Chỗ đó là một đô la hai mươi lăm xu”, bà nói. Người da đen đưa tiền cho bà. Bà lấy tiền, đi qua họ và băng ngang căn phòng. Có một chai dầu ô liu nhập khẩu của Ý, có nhãn ghi giá tiền. “Tôi còn hai mươi tám xu nữa”, bà nói. Bà đi tiếp, ngắm nhìn những cái nhãn ghi giá, cho đến khi tìm thấy một cái đề hai mươi tám xu. Đó là bảy bánh xà phòng tắm. Với hai gói đồ, bà rời cửa hàng. Có một viên cảnh sát ở góc đường. “Tôi hết diêm rồi”, bà nói.
Người cảnh sát tìm trong túi mình. “Tại sao bà không mua nó khi bà ở trong đó?”, ông ta nói.
“Tôi quên mất. Ông biết đi mua sắm với một đứa bé là như thế nào mà.”
“Đứa bé đâu rồi?”, người cảnh sát hỏi.
“Tôi đã bán nó”, người đàn bà nói.
“Bà nên là diễn viên hài kịch mới phải”, người cảnh sát nói. “Bà muốn mấy que diêm? Tôi không có nhiều, chỉ một, hai que thôi.”
“Một thôi”, người đàn bà nói. “Tôi chẳng bao giờ đốt lửa mà cần nhiều hơn một que diêm.”
“Bà nên đi đóng hài kịch”, người cảnh sát nói. “Bà sẽ đốt nhà à?”
“Phải”, người đàn bà nói. “Tôi đốt nhà.”
“Nhà nào?”, ông ta nhìn bà. “Cái nhà tế bần hả?”
“Tôi sẽ đốt nhà”, người đàn bà nói. “Ngày mai ông hãy đọc báo. Tôi hy vọng họ viết đúng tên tôi.”
“Tên bà là gì? Calvin Coolidge* à?”
* Tên thật là John Calvin Coolidge (04/07/1872 - 05/01/1933), là tổng thống Hoa Kỳ thứ 30.
“Không, thưa ngài. Đó là con trai tôi.”
“Ồ. Đó là lý do tại sao bà gặp nhiều phiền phức khi mua sắm, phải vậy không? Hai que diêm sẽ đủ chứ?”
Sau đó, cảnh sát đã nhận được ba cuộc báo động về địa chỉ đó, vì thế họ không vội vàng. Người đầu tiên tới đó là mẹ Popeye. Cánh cửa bị khóa và khi những người lính cứu hỏa đến bẻ khóa, ngôi nhà đã bị thiêu rụi bên trong. Bà ngoại đang thò người ra ngoài trên một cửa sổ ở tầng trên nơi khói đã cuồn cuộn bốc lên. “Lũ khốn nạn”, bà nói. “Bọn chúng tưởng sẽ bắt được nó. Nhưng tôi đã nói tôi sẽ cho chúng thấy. Tôi đã bảo chúng như vậy.”
Mẹ Popeye nghĩ rằng hắn đã chết. Họ giữ chặt bà trong khi bà gào thét, trong khi khuôn mặt la hét của bà ngoại biến mất trong khói và khung căn nhà đổ bẹp rúm, người phụ nữ da trắng và người cảnh sát mang đứa bé đến và tìm thấy người phụ nữ - mẹ Popeye với khuôn mặt hoang dại, miệng mở to, nhìn đứa bé với vẻ mơ hồ, chầm chậm vuốt ngược mái tóc thưa thớt của bà từ hai bên thái dương. Bà không bao giờ bình phục hoàn toàn. Bởi công việc khó khăn và sự thiếu không khí trong lành, sự đãng trí, bệnh tật hành hạ, những tài sản mà người chồng thoáng qua đã để lại cho bà, bà đã bị sốc và có những lúc bà tin rằng đứa bé đã chết, ngay cả khi đang ôm nó trong tay, ngân nga hát ru nó.
Popeye cũng có thể suýt nữa đã chết. Hắn không có sợi tóc nào cho đến khi được năm tuổi, khi đã là học sinh tại một cơ sở giáo dục: một đứa trẻ còi cọc, với cái dạ dày quá yếu ớt đến nỗi một sai lầm nhỏ nhất với chế độ dinh dưỡng nghiêm ngặt cố định bác sĩ đã đưa ra cho hắn, sẽ khiến hắn liên tục bị co giật. “Rượu sẽ giết cậu ta giống như chất độc từ cây mã tiền”, bác sĩ nói. “Và cậu ta sẽ không bao giờ là một người đàn ông, nói một cách đúng đắn. Nếu được chăm sóc, cậu ta sẽ sống lâu hơn một chút. Tuy nhiên, cậu ta sẽ không bao giờ lớn thêm chút nào so với hiện nay nữa.” Ông bác sĩ đang nói chuyện với người phụ nữ đã tìm thấy Popeye trong xe của cô vào ngày bà ngoại thiêu rụi căn nhà và nhờ cô mà Popeye mới có được sự chăm sóc của bác sĩ. Cô sẽ đem hắn về nhà vào các buổi chiều và ngày nghỉ lễ, hắn sẽ tự chơi một mình. Cô quyết định tổ chức một bữa tiệc của trẻ con cho hắn. Cô nói với hắn về chuyện đó, mua cho hắn một bộ đồ mới. Khi bữa tiệc bắt đầu và khách khứa đã tới, không thể tìm thấy Popeye. Cuối cùng, người giúp việc phát hiện một cánh cửa phòng tắm bị khóa. Họ gọi thằng bé, nhưng không có tiếng trả lời. Họ tìm một thợ khóa, nhưng trong khi chờ đợi, người phụ nữ vì quá hoảng sợ, đã cho phá cửa bằng một cái rìu. Phòng tắm trống không. Cửa sổ mở. Nó nhìn ra một mái nhà thấp hơn, từ đó có một ống nước dẫn xuống mặt đất. Nhưng Popeye đã đi mất. Trên sàn có một cái lồng đan bằng cây liễu gai, bên cạnh nó là xác hai con vẹt, và cây kéo đẫm máu mà hắn đã dùng để giết chúng.
Ba tháng sau, theo gợi ý từ một người hàng xóm của mẹ hắn, Popeye bị gửi đến một ngôi nhà dành cho trẻ em hư. Hắn đã giết một con mèo con với cách thức tương tự.
Mẹ hắn là một người tàn phế. Người phụ nữ đã cố gắng giúp đỡ Popeye, đã hỗ trợ cho bà ta, cho bà làm công việc may vá. Sau khi Popeye được thả ra - hắn được thả ra sau năm năm, dường như hắn đã được chữa khỏi bệnh hoàn toàn - hắn viết thư cho bà hai hoặc ba lần một năm, từ Mobile và rồi New Orleans và sau đó là Memphis. Mỗi mùa hè, hắn sẽ về nhà gặp mẹ, với vẻ lặng lẽ, yếu ớt, đen đúa trong bộ com lê đen bó sát. Hắn nói với bà rằng công việc của hắn là thư ký ca đêm cho những khách sạn, rằng nghề nghiệp của hắn đòi hỏi phải di chuyển từ thị trấn này sang thị trấn khác, giống như một bác sĩ hoặc một luật sư.
Khi hắn đang trên đường về nhà mùa hè đó, cảnh sát đã bắt hắn về tội giết một người đàn ông trong một thị trấn và thời điểm đó là khi hắn đang ở trong một thị trấn khác giết một người khác - người đàn ông đó làm ra tiền và không biết phải làm gì với nó, tiêu nó ra sao, vì ông ta biết rằng rượu sẽ giết mình như thuốc độc, người không có bạn bè và chưa bao giờ biết đến một người phụ nữ và biết rằng ông ta không bao giờ có thể làm được điều đó - và hắn nói: “Bởi ý Chúa”, nhìn quanh quất xà lim trong nhà tù của thị trấn nơi người cảnh sát đã bị giết, bàn tay tự do của hắn (bàn tay kia bị còng vào tay viên sĩ quan đưa hắn đến từ Birmingham) lấy một điếu thuốc từ áo khoác ra một cách kiểu cách.
“Hãy để anh ta mời luật sư”, họ nói, “và lấy cái đó ra khỏi ngực anh ta. Anh muốn đánh điện không?”.
“Không”, hắn nói, đôi mắt lạnh lẽo, lướt nhanh về phía cái giường, cái cửa sổ nhỏ trên cao, cái cửa lưới mà ánh sáng đang chiếu vào qua đó. Họ tháo còng tay, hắn châm thuốc và búng que diêm về phía cửa. “Tôi muốn luật sư làm gì chứ? Tôi chưa bao giờ ở trong… Tên của chỗ rác rưởi này là gì?”
Họ nói với hắn ta. “Anh quên rồi, phải không?”
“Anh ta sẽ không quên được nó nữa”, người khác nói.
“Ngoại trừ việc anh ta sẽ nhớ tên vị luật sư của mình vào buổi sáng”, người thứ nhất nói.
Họ để hắn hút thuốc trên giường. Hắn nghe tiếng cửa sập mạnh. Thi thoảng, hắn nghe thấy tiếng nói từ những xà lim khác, đâu đó trên hành lang một người da đen đang hát. Popeye nằm trên giường, chân hắn bắt chéo trong đôi giày đen nhỏ xíu bóng loáng. “Bởi ý Chúa”, hắn nói.
Sáng hôm sau, viên thẩm phán hỏi xem hắn có muốn một luật sư không.
“Để làm gì?”, hắn nói. “Tôi đã nói với họ tối qua rằng trước đây tôi chưa bao giờ ở trong này. Tôi không thích thị trấn của ông đủ để mang một người lạ tới đây chẳng vì cái gì cả.”
Viên thẩm phán và viên mõ tòa đứng qua một bên hội ý.
“Anh nên kiếm luật sư”, viên thẩm phán nói.
“Được rồi”, Popeye nói. Hắn quay lại và nói với toàn bộ căn phòng: “Có ai trong số mấy tay say rượu các anh muốn một công việc một ngày không?”.
Viên thẩm phán gõ lên mặt bàn. Popeye quay lại, hắn nhún cái vai áo nhô lên một cách yếu ớt, bàn tay lần đến cái túi nơi hắn để thuốc lá. Viên thẩm phán chỉ định cho hắn một luật sư, một tay trẻ tuổi mới ra trường.
“Và tôi sẽ không bận tâm về việc bị nổ tung đâu”, Popeye nói. “Hãy tính toán mọi chuyện một lần cho xong.”
“Anh sẽ không nhận được bất kỳ bảo lãnh tại ngoại nào từ tôi”, viên thẩm phán bảo hắn.
“Vậy sao?”, Popeye nói. “Được rồi, Jack”, hắn bảo tay luật sư của hắn, “bắt đầu nào. Tôi được hưởng quyền ở Pensacola* ngay bây giờ”.
* Pensacola là một thành phố rất đẹp, thu hút nhiều khách du lịch ở bang Florida, Mỹ.
“Đưa tù nhân trở lại nhà tù”, thẩm phán nói.
Luật sư của hắn có một khuôn mặt xấu xí, háo hức, sốt sắng. Anh ta huyên thuyên với một vẻ nhiệt tình đáng sợ trong khi Popeye nằm trên giường hút thuốc, mũ hắn sụp xuống tận mắt, bất động như một con rắn tắm nắng ngoại trừ những chuyển động đều đặn của bàn tay đang cầm điếu thuốc lá. Cuối cùng hắn nói: “Này. Tôi không phải quan tòa. Hãy nói với ông ta tất cả điều này”.
“Nhưng tôi phải…”
“Hãy nói điều đó với bọn họ. Tôi chẳng biết gì về nó. Tôi thậm chí không có mặt ở đó. Cút đi.”
Phiên tòa kéo dài một ngày. Trong lúc một cảnh sát địa phương, một người bán xì gà, một cô điện thoại viên làm nhân chứng, trong lúc luật sư riêng của hắn phản biện, Popeye nằm ườn trên ghế, nhìn ra ngoài cửa sổ phía trên đầu của bồi thẩm đoàn. Thỉnh thoảng hắn ngáp, bàn tay lần đến cái túi nơi cất thuốc lá, rồi lại cố kiềm chế và nằm ra trên bàn nghỉ ngơi một cách nhàn nhã.
Bồi thẩm đoàn đã đi ra được tám phút. Họ đứng nhìn hắn và nói rằng hắn có tội. Bất động, tư thế không đổi, hắn nhìn lại họ chậm rãi, câm lặng trong nhiều giây. “Được thôi, bởi ý Chúa”, hắn nói.
Viên thẩm phán gõ mạnh cái búa của ông ta, viên sĩ quan chạm vào cánh tay hắn.
“Tôi sẽ kháng cáo”, tên luật sư lảm nhảm. “Tôi sẽ chiến đấu với họ trong mỗi phiên tòa…”
“Chắc chắn”, Popeye nói, nằm trên giường và châm một điếu thuốc, “nhưng không phải trong này. Hãy cút đi, ngay bây giờ. Biến đi chỗ khác”.
Viên công tố quận đã lập kế hoạch sẵn sàng cho việc kháng cáo. “Chuyện đó quá dễ dàng”, ông ta nói. “Hắn đã chấp nhận nó… Ông thấy hắn đã chấp nhận nó như thế nào. Như thể hắn đang nghe một bài hát mà do quá lười biếng nên hắn không thích cũng chẳng ghét và tòa án bảo hắn ngày nào họ sẽ treo cổ hắn. Có lẽ một luật sư Memphis đã sẵn sàng bên ngoài cửa tòa án tối cao ngay bây giờ, chờ đợi một bức điện tín. Tôi biết họ. Chính những kẻ tội phạm như thế đã biến công lý thành một trò cười.”
Popeye gọi người cai ngục đến và đưa cho anh ta tờ một trăm đô la. Hắn muốn một bộ dụng cụ cạo râu và thuốc lá. “Giữ lấy tiền thừa và cho tôi biết khi nào bọn chúng xông khói tôi”, hắn nói.
“Tôi cho rằng anh bạn sẽ không được hút thuốc với tôi lâu hơn nữa”, người cai ngục nói. “Anh bạn sẽ kiếm được một luật sư giỏi, lần này.”
“Đừng quên dầu gội đầu đấy”, Popeye nói. “Ed Pinaud.” Nhưng hắn ta gọi là Py-nawd.
Đó là một mùa hè ảm đạm, mát mẻ. Ánh sáng ban ngày hiếm khi chạm đến xà lim và một bóng đèn luôn sáng trong hành lang, chiếu vào xà lim gần chỗ cái võng nơi hắn gác chân. Người cai ngục đưa cho hắn một cái ghế. Hắn dùng nó làm bàn, trên đó có một đồng hồ quả quýt, một tút thuốc lá và một cái bát nứt đựng xúp. Hắn nằm trên giường, hút thuốc và ngắm nghía hai bàn chân của mình trong khi ngày lại ngày trôi qua. Vẻ bóng loáng trên đôi giày dần mờ xỉn và quần áo hắn nhàu nhĩ, bởi vì hắn mặc nguyên quần áo mà nằm suốt ngày trong cái xà lim bằng đá lạnh lẽo.
Một ngày, người cai ngục cho biết: “Có mấy người ở đây nói rằng sự sa đọa mời gọi sự giết chóc. Hắn đã làm hai, ba việc hèn hạ mà người ta biết”. Popeye hút thuốc, mũ hắn sụp xuống mặt. Người cai ngục nói: “Có thể họ đã không gửi bức điện tín của anh bạn. Anh bạn có muốn tôi gửi giùm một bức khác không?”. Tựa người lên song sắt, anh ta có thể thấy hai chân của Popeye, hai cái chân nhỏ bé, đen đúa, bất động, cơ thể mảnh khảnh nằm sõng soài và cái mũ sụp xuống khuôn mặt ngoảnh đi của hắn, điếu thuốc lá trong bàn tay nhỏ. Hai chân hắn đang nằm trong cái bóng, cái bóng của thân hình người cai ngục. Một lúc sau, người cai ngục lặng lẽ bỏ đi.
Khi hắn còn lại sáu ngày, người cai ngục đề nghị mang cho hắn những tờ tạp chí và một bộ bài.
“Để làm gì?”, Popeye nói. Lần đầu tiên hắn nhìn người cai ngục, đầu hắn ngẩng lên, trên khuôn mặt nhẵn nhụi, xanh xao, đôi mắt hắn tròn và có vẻ ôn hòa. Rồi hắn nằm xuống trở lại. Sau đó mỗi buổi sáng, người cai ngục lại dúi một cuộn báo vào qua cánh cửa. Chúng rơi xuống sàn và nằm đó, chồng chất, dần dần trải ra và lún dần bởi chính trọng lượng của chúng theo thời gian mỗi ngày một tăng lên.
Khi hắn còn lại ba ngày, một luật sư từ Memphis đến. Ông ta tự ý xông vào xà lim. Cả buổi sáng hôm đó, người cai ngục nghe giọng ông ta lớn tiếng phê bình nhận xét, đến trưa ông ta đã khản giọng, giọng ông ta không lớn hơn tiếng thì thầm.
“Chẳng lẽ anh sẽ chỉ nằm đây và để cho…”
“Tôi ổn mà”, Popeye nói. “Tôi không mời ông đến. Đừng nhúng mũi vào.”
“Anh muốn bị treo cổ hả? Phải không? Anh đang cố tự sát à? Anh, người tinh ranh nhất…”
“Tôi đã từng nói với ông rồi.”
“Khi tôi về lại Memphis và kể với họ, họ sẽ không thể tin nổi.”
“Vậy thì đừng kể với họ.” Hắn nằm một lúc trong khi viên luật sư nhìn hắn tràn trề thất vọng. “Khốn kiếp”, Popeye nói. “Lạy Chúa Jesus… Cút đi ngay”, hắn nói. “Tôi bảo ông là tôi ổn mà.”
Đêm trước đó, một vị mục sư đã đi vào.
“Anh cho phép tôi cầu nguyện cho anh chứ?”, ông ta nói.
“Chắc chắn”, Popeye nói, “Làm đi. Đừng để ý đến tôi”.
Vị mục sư quỳ xuống bên cạnh chiếc giường nơi Popeye nằm hút thuốc. Một lúc sau, ông mục sư thấy hắn đứng lên và băng qua sàn phòng, sau đó lại trở về cái giường. Khi ông ta đứng lên thì Popeye đang nằm trên giường, hút thuốc.
Vừa qua năm giờ, viên mục sư đã quay lại. Popeye đang nằm trên giường. “Sẵn sàng đi chưa?”, hắn nói.
“Chưa đâu”, mục sư nói. “Cố gắng cầu nguyện đi”, ông ta nói. “Cố gắng.”
“Chắc chắn rồi”, Popeye nói”, “Làm đi”. Mục sư lại quỳ xuống.
Vào lúc năm giờ ba mươi phút, người cai ngục đến. “Tôi mang đến…”, anh ta nói. Anh ta chìa bàn tay nắm chặt của mình qua song sắt. “Đây là tiền thừa từ một trăm đô la đó… Tôi mang đến… Nó chỉ hết bốn mươi tám đô la thôi”, anh ta nói. “Đợi đã, tôi sẽ đếm lại một lần nữa, tôi không biết chính xác, nhưng tôi có thể đưa cho anh bạn một danh sách… những cái hóa đơn mua hàng…”
“Giữ nó đi”, Popeye nói, không cử động. “Hãy mua cho mình một cái nhẫn.”
Họ đến tìm hắn lúc sáu giờ. Viên mục sư đi cùng hắn, bàn tay ông ta đặt bên dưới khuỷu tay Popeye, ông ta đứng cầu nguyện bên dưới bục pháp trường, trong khi họ điều chỉnh sợi dây thừng, tròng nó qua cái đầu bôi keo bóng mượt của Popeye, làm hỏng mái tóc được chải chuốt của hắn. Hai tay bị trói, do đó hắn ngọ nguậy đầu, hất ngược tóc ra sau mỗi lần nó rũ về phía trước, trong khi viên mục sư cầu nguyện, những người khác đứng yên tại chỗ của mình, đầu cúi xuống.
Popeye bắt đầu co giật cổ về phía trước. “Psssssst!”, hắn nói, âm thanh như đâm vào cái giọng đều đều của viên mục sư, “psssssssst!”. Viên cảnh sát trưởng nhìn hắn, hắn thôi co giật cổ và đứng thẳng đơ, như thể phải giữ một quả trứng thăng bằng trên đầu. “Sửa tóc lại cho tôi, Jack”, hắn nói.
“Chắc chắn”, cảnh sát trưởng nói. “Tôi sẽ sửa tóc cho anh bạn.”
* * *
Đó là một ngày xám xịt, một mùa hè xám xịt, một năm xám xịt. Trên đường phố, vài người già mặc áo khoác và trong vườn Luxembourg khi Temple và cha cô đi ngang qua, những người đàn bà đang ngồi đan khăn quàng và thậm chí ngay cả những người đàn ông chơi bóng vồ cũng mặc áo khoác và áo choàng không tay để chơi, trong vẻ ảm đạm của những cây dẻ, tiếng đánh bóng khô khốc, tiếng la ngẫu nhiên của trẻ con, có cái đặc trưng của mùa thu, lộng lẫy, phù du và đìu hiu. Một tiếng nhạc đều đều vọng đến. Họ tiếp tục đi, ngang qua hồ bơi nơi những đứa trẻ và một ông già mặc áo khoác màu nâu sờn rách đang thả những chiếc thuyền đồ chơi, họ lại đi vào rừng cây tìm chỗ ngồi. Ngay lập tức, một bà già bước đến với vẻ già yếu hom hem xin bốn đồng xu.
Tại nhà rạp, một ban nhạc mặc quần áo màu xanh da trời của quân đội đang chơi nhạc của Massenet, Scriabin, Berlioz và Tschaikovsky, trong khi hoàng hôn hòa tan trong những ánh sáng lập lòe ướt át từ các ngả đường, vào trong nhà rạp và những cái dù hình nấm ảm đạm. Trầm trầm và vang dội, tiếng kèn đồng vang động và lại tắt lịm trong hoàng hôn ngập sắc xanh. Temple che miệng ngáp, sau đó cô lấy ra hộp phấn, soi mình trong cái gương nhỏ với vẻ buồn bã, ảm đạm. Cha cô ngồi bên cạnh, hai bàn tay vắt chéo trên đầu cây gậy, bộ ria mép lấm tấm vài giọt nước, ẩm ướt như phủ sương. Cô đóng hộp phấn và từ bên dưới cái mũ mới hợp mốt của mình, dường như đôi mắt cô dõi theo những sóng nhạc, để hòa tan vào tiếng kèn đồng đang lịm chết, ngang qua hồ bơi, đối diện với những hàng cây nhìn lên bầu trời nằm nghiêng và bị chế ngự trong vòng ôm ghì chặt trong mùa của mưa và sự chết chóc.
Hết