T
om gỡ người ra khỏi Heloise đang say ngủ, rút một cánh tay từ dưới cổ cô ra, mạo hiểm lật người cô lại và hôn lên một bầu ngực trước khi nhẹ nhàng xuống giường. Cô không bị đánh thức hẳn và chắc đang nghĩ anh đi vệ sinh. Tom đi chân trần về phòng mình và lấy quyển hộ chiếu Mackay ra khỏi túi áo khoác.
Anh xuống tầng. Bảy giờ kém mười lăm theo đồng hồ gần điện thoại. Ngọn lửa đã cháy rụi thành tro trắng phớ, nhưng không nghi ngờ gì nó vẫn còn ấm. Tom lấy một nhành cây và cời tro ra để tìm chiếc nhẫn bạc, cùng lúc ấy chuẩn bị che giấu quyển hộ chiếu màu xanh lục trong tay – anh đã gập quyển sổ làm đôi – phòng trường hợp bà Annette bước vào. Tom tìm ra chiếc nhẫn, đã đen xì và hơi thay hình đổi dạng, nhưng không chảy nhũn ra như anh đã nghĩ. Anh đặt nhẫn lên nền lò sưởi để nó nguội lại, khuấy đống tro lên, và xé toạc quyển hộ chiếu. Anh lấy diêm để đẩy nhanh tốc độ cháy của hộ chiếu, đứng nhìn cho tới khi nó cháy thành tro. Sau đó anh cầm nhẫn lên gác, đặt nó cùng chỗ với món đồ màu đỏ và đen không thể miêu tả rõ trong chiếc va-li da lợn mang về từ Salzburg.
Điện thoại reo và Tom nhấc máy ngay lập tức.
“À, điều tra viên Webster à, xin chào!... Không sao cả, tôi đã dậy rồi.”
“Nếu tôi hiểu anh Constant thì… Derwatt đã chết rồi?” Tom thoáng ngập ngừng, và Webster nói thêm là đêm qua Constant đã gọi tới văn phòng của anh ta và để lại một tin nhắn. “Anh ta đã tự sát ở Salzburg,” Tom nói. “Tôi vừa đến Salzburg đây.”
“Tôi muốn gặp anh, anh Ripley, và lý do tôi gọi điện sớm thế này là vì tôi phát hiện ra mình có thể lên chuyến bay lúc chín giờ sáng. Tôi có thể đến gặp anh trong sáng nay vào khoảng mười một giờ được không?”
Tom sẵn lòng đồng ý.
Sau đó anh quay lại phòng ngủ của Heloise. Họ sẽ được bà Annette đánh thức – nếu Tom ngủ thiếp đi – trong một tiếng nữa với trà dành cho Heloise và cà phê cho anh.
Bà Annette đã quen với việc thấy cả hai người họ ngủ chung phòng với nhau, phòng anh hoặc cô. Tom không ngủ, nhưng việc nghỉ ngơi một chút, như quãng thời gian anh nằm bên Heloise, giúp anh hồi phục sức khỏe.
Bà Annette lên gác vào khoảng tám rưỡi sáng, và Tom ra hiệu là anh sẽ uống cà phê nhưng Heloise muốn ngủ thêm. Tom nhấm nháp cà phê và nghĩ xem mình phải làm gì, phải hành xử như thế nào. Thành thật là trên hết, Tom nghĩ, và anh kể đi kể lại câu chuyện trong đầu mình. Derwatt gọi điện vì thấy đau đớn trước sự biến mất của ông Murchison (quá mức đau đớn, kỳ lạ thay, một thứ vô lý nhưng lại có vẻ rất thực, một phản ứng không lường trước có vẻ chân thật), và hỏi anh ta có thể tới gặp Tom không? Heloise báo cho anh ta biết là Tom đã tới Salzburg để tìm Bernard Tufts. Phải, tốt nhất là để Heloise kể cho Webster nghe về Bernard. Đối với Derwatt, Bernard Tufts là một người bạn cũ mà anh ta sẽ giúp đỡ ngay lập tức. Ở Salzburg, anh và Derwatt còn lo lắng cho Bernard hơn cả ông Murchison.
Khi Heloise cựa quậy, Tom rời giường và đi xuống nhà để nhờ bà Annette pha trà mới. Lúc đó là khoảng chín rưỡi.
Tom ra ngoài xem ngôi mộ cũ của ông Murchison. Đã có vài cơn mưa đổ xuống kể từ lần cuối cùng anh nhìn thấy nó. Anh để lại vài cành cây trên mộ như hiện trạng vì trông chúng rất tự nhiên, không giống có người cố gắng che giấu nơi ấy, và Tom cũng chẳng có lý do gì để che giấu việc đào bới của cảnh sát hết.
Tầm mười giờ, bà Annette ra ngoài mua đồ.
Tom báo cho Heloise biết rằng thanh tra Webster sắp đến và anh, Tom, muốn có sự hiện diện của cô. “Em có thể thành thật nói rằng anh đã tới Salzburg để cố gắng tìm Bernard.”
“Tay Webster có định buộc tội anh không?”
“Làm sao anh ta có thể?” Tom đáp lại, mỉm cười.
Webster đến nơi lúc mười một giờ kém mười lăm. Anh ta mang theo cặp táp đen, trông nhanh nhẹn như một bác sĩ.
“Đây là vợ tôi – anh đã gặp rồi,” Tom nói. Anh cầm áo hộ Webster và mời anh ta ngồi xuống.
Viên thanh tra ngồi xuống sô-pha. Đầu tiên anh ta điểm lại các mốc thời gian, ghi chú. Tom đã được Derwatt liên lạc hôm nào? Ngày 3 tháng Mười một, Chủ nhật, Tom nghĩ thầm.
“Vợ tôi đã nghe máy khi anh ta gọi tới,” Tom nói. “Tôi thì đang ở Salzburg.”
“Cô đã nói chuyện với Derwatt à?” Webster hỏi Heloise.
“Đúng thế. Anh ta muốn nói chuyện với Tome cơ, nhưng tôi bảo là Tom đến Salzburg rồi – để tìm Bernard.”
“Hừm. Anh đã ngủ lại khách sạn nào?” Webster hỏi. Anh ta vẫn giữ nụ cười cố hữu, từ vẻ vui tươi của anh ta thì người ta sẽ nghĩ chẳng có ai chết cả.
“Khách sạn Goldener Hirsch,” Tom nói. “Đầu tiên tôi tới Paris, tìm kiếm Bernard Tufts theo trực giác, rồi tôi lại tới Salzburg – vì Bernard từng nhắc đến nơi này với tôi. Anh ta không kể là anh ta định tới đó mà chỉ nói muốn ngắm nó lần nữa. Nó là một thị trấn nhỏ và không khó tìm một người mà anh muốn tìm kiếm. Dẫu sao đi nữa, tôi đã tìm được Bernard vào ngày thứ hai.”
“Anh đã gặp ai trước, Bernard hay Derwatt?”
“À, Bernard, vì tôi muốn tìm anh ta mà. Tôi không hề biết Derwatt cũng đến Salzburg.”
“Và… tiếp tục đi,” Webster nói.
Tom rướn người trong ghế. “À… tôi nhớ là mình đã nói chuyện riêng với Bernard một hay hai lần gì đó. Với Derwatt cũng vậy. Rồi chúng tôi ngồi cùng nhau vài lần. Họ là bạn cũ. Tôi nghĩ Bernard mới là người trầm cảm hơn. Cô bạn Cynthia của anh ta ở Luân Đôn không muốn gặp lại anh ta nữa. Không phải Derwatt…” Tom ngập ngừng. “Derwatt có vẻ còn quan tâm tới Bernard hơn chính bản thân anh ta. Tiện thể tôi giữ vài quyển sổ của Bernard mà tôi nghĩ phải cho anh xem.” Tom đứng dậy nhưng Webster nói:
“Tôi cần ghi lại vài sự kiện trước đã. Bernard đã tự tử như thế nào?”
“Anh ta biến mất. Nó diễn ra ngay sau cái chết của Derwatt. Theo những gì anh ta viết trong sổ thì tôi nghĩ anh ta chắc đã nhảy xuống sông ở Salzburg. Nhưng tôi không hoàn toàn chắc chắn về điều đó nên không thể báo cho cảnh sát ở đó được. Tôi muốn nói chuyện với anh trước đã.”
Webster trông có vẻ bối rối, hoặc mụ mị, phản ứng này cũng không khiến Tom ngạc nhiên. “Tôi rất quan tâm tới sổ của Bernard, nhưng Derwatt – chuyện gì đã xảy ra ở đó?”
Tom liếc nhìn Heloise. “À, hôm thứ Ba, tất cả chúng tôi hẹn gặp nhau lúc mười giờ sáng. Derwatt nói rằng anh ta đã uống thuốc an thần. Trước đó anh ta từng đề cập tới việc tự tử và nói muốn được hỏa táng – bởi chúng tôi, Bernard và tôi. Ít nhất bản thân tôi không hề coi đó là chuyện nghiêm trọng cho tới hôm thứ Ba khi anh ta mơ màng xuất hiện và kiểu… pha trò cười. Anh ta uống thêm thuốc ngủ trong lúc bọn tôi đi dạo. Chúng tôi vào rừng, nơi Derwatt muốn đến.” Tom nói với Heloise, “Em yêu, nếu em không muốn nghe thì nên lên gác. Anh phải kể mọi chuyện đúng như những gì đã diễn ra”.
“Em sẽ nghe.” Heloise áp tay lên mặt trong giây lát rồi thả tay xuống và đứng dậy. “Em sẽ nhờ bà Annette pha trà. Được chứ, Tome?”
“Ý hay đấy,” Tom nói. Anh tiếp tục với Webster, “Derwatt đã nhảy xuống khỏi một mỏm đá, đập vào nền đá bên dưới. Anh có thể nói rằng anh ta đã tự sát theo ba cách, uống thuốc an thần, nhảy khỏi mỏm đá – và rồi bị hỏa thiêu, nhưng chắc chắn anh ta đã chết khi chúng tôi thiêu anh ta. Anh ta chết vì cú nhảy. Bernard và tôi quay lại… vào ngày hôm sau. Chúng tôi đốt cháy những gì có thể. Sau đó chúng tôi chôn phần xác còn lại”.
Heloise quay vào.
Webster vừa ghi chép vừa hỏi, “Ngày hôm sau. Mùng 6 tháng Mười một, thứ Tư”. Bernard đã ở đâu? Tom có thể trả lời câu hỏi này, một chỗ tên Der Blaue gì đó ở Linzergasse. Nhưng sau thứ Tư thì Tom cũng không chắc. Họ đã mua xăng ở đâu và khi nào? Tom rất mơ hồ về nơi đó, nhưng đó là trưa thứ Tư.
Derwatt đã ở đâu? Tom nói rằng anh không hề cố gắng tìm hiểu chuyện đó.
“Sáng thứ Năm, Bernard và tôi đã hẹn gặp vào khoảng chín rưỡi ở chợ Alter. Tối thứ Tư, anh ta đưa túi đồ của mình cho tôi và nhờ tôi giữ hộ trong khi đi tìm một khách sạn khác để ở tối đó. Tôi đã rủ anh ta ở tại khách sạn của tôi nhưng anh ta không muốn. Sau đó… anh ta không giữ lời hẹn ngày thứ Năm với tôi. Tôi đã đợi khoảng một tiếng. Tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa. Anh ta cũng không để lại tin nhắn nào ở khách sạn của tôi. Tôi cảm thấy khi Bernard không muốn giữ lời hẹn hôm ấy, có thể anh ta đã hủy diệt mình – có thể là nhảy sông tự tử. Rồi tôi về nhà.”
Webster châm một điếu thuốc lá, chậm chạp hơn thường lệ. “Anh được dặn giữ túi đồ của anh ta qua đêm thứ Tư à?”
“Không hẳn. Bernard biết tôi ở đâu, và tôi cứ nghĩ anh ta sẽ đến lấy túi vào đêm hôm đó. Tôi đã nói là ‘Nếu tối nay tôi không gặp anh thì sáng mai chúng ta sẽ gặp.’”
“Sáng hôm qua anh có hỏi thăm các khách sạn để tìm anh ta không?”
“Không. Tôi nghĩ mình đã cạn kiệt hy vọng. Tôi buồn bực và chán chường.”
Bà Annette bưng khay trà ra, và nói “Bonjour” với thanh tra Webster.
Tom nói, “Cách đây vài ngày Bernard đã treo một hình nộm trong tầng hầm của chúng tôi ở dưới kia. Nó tượng trưng cho chính bản thân anh ta. Vợ tôi phát hiện ra nó và nó khiến cô ấy khá kinh hãi. Quần dài và áo khoác của Bernard được treo cổ trên trần nhà bằng một cái thắt lưng và có tờ giấy đi kèm”. Tom liếc nhìn vợ. “Heloise, xin lỗi em.”
Heloise cắn môi và nhún vai. Phản ứng của cô chân thật không cần bàn cãi. Những gì Tom nói là đã xảy ra đã xảy ra thật, và cô không thích nhớ lại cảnh tượng đó.
“Vậy anh có giữ tờ giấy mà anh ta đã viết không?” Webster hỏi.
“Có. Hẳn là nó nằm trong túi áo choàng ngủ của tôi. Tôi lấy nó nhé?”
“Chờ chút đã.” Webster suýt nữa đã lại cười, nhưng dừng lại. “Tôi có thể hỏi chính xác thì vì sao anh lại đến Salzburg không?”
“Tôi đã rất lo lắng cho Bernard. Anh ta từng nói muốn đến tham quan Salzburg. Tôi cảm giác Bernard có thể định tự sát. Và tôi băn khoăn – vì sao anh ta lại phải đến tìm tôi làm gì? Anh ta biết chuyện tôi có hai bức tranh Derwatt, đúng thế, nhưng anh ta không quen tôi mà. Vậy nhưng lần đầu tiên đến nơi này anh ta đã nói chuyện hết sức thoải mái. Tôi nghĩ biết đâu mình lại giúp được gì. Nhưng rồi sau đấy thì cả Derwatt và Bernard đều tự tử, Derwatt đi trước. Không hiểu sao người ta không muốn can thiệp vào chuyện của… một người như Derwatt. Người ta cảm thấy là họ đang phạm sai lầm. Tôi không thật sự nghĩ vậy, nhưng ý tôi là, khuyên một người đừng tự tử khi biết rõ là người đó đã quyết tâm tự tử và sẽ không nghe lời khuyên răn. Ý tôi là thế. Nó không thích hợp và cũng chỉ là một hành động vô vọng thôi, vì sao người ta lại phải chịu chỉ trích vì không nói ra một điều mà người ta biết rõ là có nói cũng chẳng đem lại ích lợi gì cơ chứ?” Tom dừng lại.
Webster đang chăm chú lắng nghe.
“Bernard rời đi – chắc là tới Paris – sau khi treo cổ bản thân bằng hình nộm ở đây. Sau đó anh ta quay lại. Đó là lúc Heloise gặp anh ta.”
Webster muốn biết ngày Bernard Tufts quay lại Belle Ombre. Tom cố gắng hết sức để nhớ lại. Ngày hai lăm tháng Mười, anh nghĩ vậy.
“Tôi đã cố gắng giúp đỡ Bernard bằng cách bảo rằng cô bạn gái Cynthia của anh ta có thể muốn gặp lại anh ta. Dù tôi không nghĩ là điều đó sẽ xảy ra, theo những gì tôi nghe Bernard kể. Tôi chỉ đang cố kéo anh ta ra khỏi trạng thái tuyệt vọng. Tôi nghĩ Derwatt thậm chí còn cố gắng hơn thế. Tôi chắc chắn là họ đã gặp riêng nhau vài lần ở Salzburg. Derwatt rất quý Bernard.” Tom nói với Heloise, “Em có hiểu được không, em yêu?”.
Heloise gật đầu.
Có thể cô thật sự hiểu hết toàn bộ câu chuyện.
“Vì sao Derwatt lại tuyệt vọng thế?”
Tom ngẫm nghĩ hồi lâu. “Anh ta tuyệt vọng với cả thế giới. Cuộc sống. Tôi không biết có vấn đề cá nhân gì – ở Mexico ấy – góp phần dẫn đến chuyện này không. Anh ta đã kể về một cô gái Mexico từng kết hôn rồi bỏ đi. Tôi không rõ chuyện này quan trọng đến mức nào. Anh ta có vẻ phiền não vì đã trở về Luân Đôn. Anh ta nói đó là một sai lầm.”
Cuối cùng Webster cũng ngừng ghi chép. “Chúng ta có nên lên gác không?”
Tom đưa thanh tra vào phòng mình và tới tủ quần áo lấy va-li.
“Tôi không muốn vợ tôi thấy thứ này,” Tom nói và mở va-li ra. Anh và Webster khom người xuống nhìn nó.
Những phần hài cốt nhỏ được bọc trong các tờ báo Đức và Áo mà Tom đã mua. Anh để ý thấy Webster đã kiểm tra ngày tháng trên báo trước khi nhấc cái bọc ra và đặt nó xuống thảm. Anh ta trải thêm báo dưới cái bọc nhưng Tom biết nó không ướt. Webster mở nó ra.
“Ôi… trời. Quỷ thần ơi. Derwatt muốn anh làm gì với thứ này?”
Tom ngập ngừng, cau mày. “Không gì cả.” Anh tiến về phía cửa sổ và mở hé nó ra. “Tôi không biết vì sao mình lại mang nó theo nữa. Tôi đã rất buồn bã. Bernard cũng vậy. Anh ta có nói chúng tôi nên mang một ít tro cốt về Anh không thì tôi cũng không nhớ. Nhưng tôi đã lấy nó theo. Chúng tôi cứ nghĩ chỉ còn tro tàn. Nhưng không.”
Webster đang dùng đầu bút bi của mình chọc vào nó. Anh ta phát hiện ra cái nhẫn và lấy bút gạt nó ra. “Một chiếc nhẫn bạc.”
“Tôi đã cố tình lấy nó đấy.” Tom biết hai con rắn trên nhẫn vẫn rõ hình dạng.
“Tôi sẽ đem thứ này về Luân Đôn,” Webster nói, đứng dậy. “Nếu anh có một cái hộp thì…”
“Chắc chắn là có rồi,” Tom nói, dợm bước ra cửa. “Anh đã nhắc đến quyển sổ của Bernard Tufts.”
“Đúng thế.” Tom quay lại và chỉ vào quyển sổ và sổ vẽ ở góc bàn làm việc của mình. “Chúng nằm đây. Còn tờ giấy mà anh ta đã viết…” Tom vào phòng tắm, nơi áo choàng ngủ của anh đang móc trên giá. Tờ giấy vẫn còn nằm trong túi áo. Tôi đã tự treo cổ bằng hình nộm… Tom đưa nó cho Webster và đi xuống gác.
Bà Annette vẫn giữ các hộp thừa và có đủ loại kích cỡ. “Anh lấy hộp để làm gì?” Bà ta hỏi, cố gắng giúp anh.
“Cái hộp này là được rồi,” Tom nói. Những cái hộp nằm trên nóc tủ quần áo của bà Annette và anh kéo một cái xuống. Bên trong có vài mẩu len vụn được cuộn lại gọn gàng và anh trả chúng cho bà Annette kèm một nụ cười. “Cảm ơn bà, bà đúng là báu vật.”
Webster đang ở dưới nhà, nói chuyện điện thoại bằng tiếng Anh. Heloise chắc đã về phòng cô. Tom cầm hộp lên gác và đặt gói đồ nhẹ bẫng vào trong, chèn thêm vài tờ báo cho kín hộp. Anh lấy dây trong xưởng vẽ và buộc nó lại. Đó là một hộp giày. Tom mang chiếc hộp xuống nhà.
Webster vẫn đang nói chuyện điện thoại.
Tom đi về phía quầy bar và rót cho mình một cốc whiskey nguyên chất, quyết định chờ xem Webster có muốn một cốc Dubonnet không.
“… mấy người ở Buckmaster Gallery à? Anh có thể đợi tới khi tôi về đó không?”
Tom đổi ý và vào bếp tìm đá để pha Dubonnet cho Webster. Anh lấy đá và khi nhìn thấy bà Annette, yêu cầu bà ta pha nốt cốc rượu và đừng quên cho lát chanh vào.
Webster vẫn đang nói, “Tôi sẽ gọi lại cho anh sau khoảng một tiếng nữa nên đừng ra ngoài ăn trưa… Không, đừng nói một lời nào với ai cả… Tôi vẫn chưa rõ”.
Tom cảm thấy bất an. Anh nhìn Heloise trên bãi cỏ và ra ngoài để trò chuyện với cô, dù anh chỉ thích ở lì trong phòng khách thôi. “Anh nghĩ chúng ta nên mời thanh tra ăn trưa hoặc sandwich, món nào đó kiểu vậy. Có được không, em yêu?”
“Anh đã đưa tro cốt cho anh ta à?”
Tom chớp mắt. “Một món đồ nhỏ thôi. Trong một cái hộp,” anh ngượng ngập nói. “Nó đã được bọc kín. Đừng nghĩ về nó nữa.” Tom nắm tay dẫn cô quay vào nhà. “Bernard cũng nên để lại tro cốt của mình để được coi là Derwatt, chuyện đó cũng thích đáng mà.”
Có thể cô hiểu. Cô hiểu những chuyện đã diễn ra, nhưng Tom không mong cô cũng hiểu được sự ngưỡng mộ mà Bernard dành cho Derwatt. Anh hỏi bà Annette có thể làm sandwich tôm hùm đóng hộp hoặc một món tương tự không. Heloise vào giúp bà ta và Tom đến chỗ thanh tra.
“Cho đúng thủ tục thôi, anh Ripley, tôi có thể xem hộ chiếu của anh không?” Webster hỏi.
“Chắc chắn rồi.” Tom lên gác và ngay lập tức mang hộ chiếu xuống.
Webster đã cầm trên tay cốc Dubonnet rồi. Anh ta cẩn thận kiểm tra hộ chiếu, có vẻ cũng quan tâm tới các giai đoạn trước hệt như giai đoạn gần đây. “Áo. Đúng rồi. Hừm.”
Tom cảm thấy an toàn khi nhớ lại là anh đã không đến Luân Đôn dưới tư cách Tom Ripley khi Derwatt xuất hiện lần thứ hai. Tom mệt mỏi ngồi xuống một chiếc ghế lưng thẳng. Anh nên tỏ ra mệt mỏi và chán nản vì những sự kiện đã diễn ra ngày hôm qua.
“Đồ đạc của Derwatt thì sao?”
“ Đồ đạc?”
“Va-li của anh ta chẳng hạn.”
Tom trả lời, “Tôi không hề biết anh ta ở đâu. Bernard cũng không, vì tôi đã hỏi anh ta – sau khi chúng tôi… sau khi Derwatt chết”.
“Anh nghĩ là anh ta vứt đồ đạc của mình lại khách sạn à?”
“Không.” Tom lắc đầu. “Derwatt không như thế. Bernard nói rằng anh ta nghĩ Derwatt hẳn đã tiêu hủy mọi dấu vết của bản thân, rời khỏi khách sạn, và… À thì, làm sao người ta tiêu hủy một chiếc va-li nhỉ? Vứt đồ đạc bên trong vào các thùng rác khác nhau hoặc cũng có thể là quẳng nguyên va-li xuống sông. Chuyện đó khá dễ thực hiện ở Salzburg. Đặc biệt là nếu Derwatt tiến hành nó trong đêm hôm trước, khi trời đã tối.”
Webster trầm ngâm. “Anh có nghĩ đến việc Bernard có khi lại trở lại chính chỗ trong rừng và lao mình xuống từ chính vách đá đó không?”
“Có,” Tom nói, vì kỳ cục làm sao nhưng ý nghĩ đó cũng từng xuất hiện trong đầu anh. “Nhưng tôi không thể quay lại đó vào sáng hôm qua. Có lẽ tôi nên làm thế. Có lẽ tôi nên tìm kiếm thêm trên đường phố xem có thấy Bernard không. Nhưng tôi cảm thấy là anh ta đã chết – bằng cách nào đó, ở đâu đó, và vì thế tôi không hề đi tìm anh ta.”
“Nhưng theo những gì tôi vừa nghe thì Bernard Tufts có thể vẫn còn sống.”
“Đúng là như thế.”
“Anh ta có đủ tiền chứ?”
“Tôi không nghĩ vậy. Tôi đã đề nghị cho anh ta vay một ít tiền – ba ngày trước – nhưng anh ta đã từ chối.”
“Derwatt đã tâm sự gì với anh về sự biến mất của ông Murchison?”
Tom ngẫm nghĩ hồi lâu. “Chuyện đó khiến anh ta trầm cảm. Còn anh ta đã nói gì à – Anh ta nói gì đó về gánh nặng của việc nổi tiếng. Anh ta ghét sự nổi tiếng. Anh ta cảm thấy chính điều đó đã gây ra cái chết cho một người – của ông Murchison.”
“Derwatt có thân thiện với anh không?”
“Có. Ít nhất thì tôi cũng chưa bao giờ nhận thấy sự kém thân thiện nào. Những cuộc trò chuyên riêng của tôi với anh ta diễn ra ngắn thôi. Chỉ một đến hai lần gì đó, tôi nghĩ vậy.”
“Anh ta có biết gì về quan hệ của anh với Richard Greeleaf không?”
Cả cơ thể Tom run rẩy dù anh hy vọng nó không hiện rõ. Anh nhún vai. “Anh ta chưa bao giờ đề cập đến chuyện đó, nếu có biết.”
“Bernard cũng không à? Anh ta cũng không một lần đề cập à?”
“Không,” Tom nói.
“Anh thấy đấy, anh cũng phải đồng ý với tôi là thật kỳ lạ khi có tận ba người đàn ông biến mất hoặc chết xung quanh anh – ông Murchison, Derwatt và Bernard Tufts. Richard Greenleaf cũng biến mất – người ta chưa bao giờ tìm được xác anh ta, tôi nhớ vậy. Và tên người bạn của anh ta là gì ấy nhỉ? Fred? Freddie gì đó?”
“Miles, tôi nghĩ vậy,” Tom nói. “Nhưng tôi không dám nói là ông Murchison gần gũi với tôi. Tôi chỉ quen sơ sơ với ông ta mà thôi. Hay Freddie Miles cũng vậy.” Ít nhất thì Webster chưa nghĩ đến khả năng anh đã đóng giả Derwatt, Tom nghĩ.
Heloise và bà Annette bước vào, bà Annette đẩy một xe đồ có chứa một đĩa sandwich và một chai rượu vang trong xô đá.
“À, món ăn nhẹ!” Tom nói. “Tôi chưa kịp hỏi anh có hẹn ăn trưa chưa, thanh tra, nhưng món ăn nhỏ này…”
“Tôi có hẹn với cảnh sát Melun rồi,” Webster cười nhẹ nói. “Tôi phải gọi lại cho họ sớm. Mà tiện thể tôi sẽ hoàn trả tiền cước mọi cuộc gọi đó cho anh.”
Tom liền xua tay phản đối. “Cảm ơn bà,” anh nói với bà Annette.
Heloise đưa cho thanh tra Webster khăn ăn và đĩa rồi giới thiệu món sandwich. “Tôm hùm và cua. Tôm hùm là loại này,” cô nói, chỉ tay.
“Làm sao tôi có thể từ chối được?” Viên thanh tra nói, mỗi loại ăn một cái. Nhưng Webster vẫn bám riết vào chủ đề. “Tôi phải báo cho cảnh sát Salzburg – qua Luân Đôn, vì tôi không biết tiếng Đức – để họ tìm Bernard Tufts. Và có thể ngày mai chúng ta sẽ sắp xếp để gặp nhau ở Salzburg. Mai anh rảnh không, anh Ripley?”
“Có… Tôi có thể, đương nhiên rồi.”
“Anh phải dẫn chúng tôi tới địa điểm đó trong rừng. Chúng tôi phải đào cái… anh biết đấy. Derwatt là công dân của Anh Quốc. Mà có phải vậy không nhỉ?” Webster cười khi miệng còn đầy thức ăn. “Nhưng chắc chắn anh ta chưa trở thành một công dân Mexico rồi.”
“Chuyện đó tôi chưa từng hỏi anh ta,” Tom nói.
“Tìm ra ngôi làng nơi anh ta cư ngụ ở Mexico mới thú vị đây,” Webster nhận xét, “một ngôi làng hẻo lánh vô danh. Anh có biết nó nằm gần làng nào không?”.
Tom mỉm cười. “Derwatt chưa từng tiết lộ chút manh mối nào.”
“Tôi băn khoăn không biết nhà của anh ta có bị bỏ hoang – hay anh ta thuê bảo mẫu hoặc một luật sư có thẩm quyền giải quyết công chuyện ở đó sau khi biết anh ta đã chết.” Webster dừng lại.
Tom giữ im lặng. Webster đang thả mồi chờ anh hé lộ vài thông tin có phải không? Khi đóng vai Derwatt ở Luân Đôn, Tom đã nói với Webster là Derwatt có hộ chiếu Mexico và sống ở đó dưới một cái tên khác.
Webster nói. “Anh có nghĩ là Derwatt vào Anh và đi đây đó với tên giả không? Có khả năng vẫn là hộ chiếu Anh nhưng dùng tên giả?”
Tom bình tĩnh trả lời, “Tôi vẫn nghi như thế”.
“Vậy có khả năng anh ta cũng sống ở Mexico với một cái tên giả.”
“Khả năng cao là như vậy. Tôi đã không nghĩ đến chuyện đó.”
“Và dùng chính cái tên giả đó để chuyển tranh của mình từ Mexico.”
Tom dừng lại, làm như anh cũng chẳng quan tâm lắm. “Buckmaster Gallery nhất định phải biết chứ.”
Heloise lại mời sandwich nhưng viên thanh tra từ chối. “Tôi cảm giác chắc chắn họ sẽ không khai gì cả,” Webster nói. “Và cũng có thể đến họ cũng không biết cái tên giả đó, chỉ cần Derwatt vẫn gửi tranh bằng tên Derwatt thôi chẳng hạn. Nhưng nhất định là anh ta đã vào Anh Quốc dưới tên giả, vì chúng tôi không có thông tin ghi chép nào về việc anh ta đến và đi. Giờ tôi có thể gọi cho cảnh sát Melun chứ?”
“Sao lại không chứ,” Tom nói. “Anh có muốn dùng điện thoại của tôi trên gác không?”
Webster nói rằng dùng điện thoại dưới nhà là được. Anh ta tìm trong sổ và tiếp tục nói chuyện với tổng đài viên bằng vốn tiếng Pháp tiêu chuẩn của mình. Anh ta muốn gặp ủy viên.
Tom rót rượu vang trắng vào hai cái ly trên khay. Heloise vẫn uống rượu của cô.
Webster hỏi ủy viên ở Melun xem họ có bất kỳ tin tức nào về Thomas Murchison không. Tom đoán là không. Anh ta nói thêm rằng bà Murchison sẽ ở lại khách sạn Connaught ở Luân Đôn trong vài ngày tới, lo lắng muốn nhận thêm thông tin, mong cảnh sát Melun chuyển tin tức nếu có về ông Murchison cho văn phòng của Webster. Webster cũng hỏi về bức tranh còn mất tích “L’Horloge”. Không có tin gì mới.
Sau khi anh ta dập máy, Tom rất muốn hỏi xem chuyện gì đã diễn ra trong quá trình tìm kiếm ông Murchison nhưng lại không muốn tỏ ra là đã nghe lỏm cuộc nói chuyện qua điện thoại của Webster.
Webster khăng khăng đòi để lại một tờ năm mươi franc để trả tiền điện thoại. Không, anh ta cảm ơn Tom, anh ta không muốn uống thêm một ly Dubonnet nữa, nhưng anh ta vẫn nhấp thử rượu vang.
Tom có thể thấy rõ là trong lúc đứng đó, Webster đang tính toán xem Tom Ripley đang che giấu bao nhiêu điều, anh phạm tội nào, phạm tội như thế nào, và sẽ được lợi lộc gì từ chuyện này? Nhưng một điều rõ rành rành là sẽ không có ai giết hẳn hai người, hay thậm chí tận ba người – ông Murchison, Derwatt và Bernard Tufts – chỉ để bảo vệ giá trị của hai bức tranh Derwatt đang treo trên tường nhà mình, Tom nghĩ. Và nếu Webster chịu bỏ công điều tra đến tận công ty Cung cấp Dụng cụ Vẽ tranh Derwatt qua ngân hàng mà Tom được nhận một khoản thu nhập hàng tháng thì sẽ thấy khoản thu nhập ấy được gửi nặc danh tới một tài khoản đánh số ở Thụy Sĩ.
Dẫu vậy, mai vẫn còn chuyện ở Áo phải xử lý nốt đã, và Tom sẽ phải đi theo đám cảnh sát.
“Tôi có thể nhờ anh gọi hộ tắc-xi được không, anh Ripley? Anh rõ số điện thoại hơn tôi.”
Tom đi tới chỗ điện thoại và gọi tới một công ty tắc-xi ở Villeperce. Họ nói là sẽ đến ngay lập tức.
“Tối muộn đêm nay anh sẽ nhận được thêm một cú điện thoại nữa của tôi,” Webster dặn Tom, “về chuyến đi Salzburg ngày mai. Chỗ đó có khó tới không?”.
Tom giải thích về việc đổi máy bay ở Frankfurt và nói rằng anh được cho biết là có một chuyến xe buýt đi từ Munich tới Salzburg nếu người ta hạ cánh xuống Munich, đi như thế nhanh hơn là chờ máy bay đi Áo ở Frankfurt. Nhưng chuyện này sẽ được điều phối qua điện thoại sau khi Webster tìm hiểu được lịch bay từ Luân Đôn tới Munich. Anh ta sẽ đi cùng một người đồng nghiệp nữa.
Sau đó thanh tra Webster cảm ơn Heloise và cô cùng Tom tiễn anh ta ra cửa khi tắc-xi đến. Webster nhìn thấy hộp giày trên chiếc bàn dài ngoài hành lang trước khi Tom kịp chạm tay đến nó, và anh ta nhấc nó lên.
“Tôi đã cất tờ giấy nhớ và hai quyển sổ của Bernard vào va-li,” Webster nói với Tom.
Tom và Heloise vẫn đứng ở bậc thềm trước cửa khi tắc-xi chở Webster đi mất, anh ta còn nở nụ cười răng thỏ qua cửa sổ. Sau đó họ quay vào nhà.
Sự im lặng yên bình ngự trị. Không yên bình, Tom biết, nhưng ít nhất cũng được yên tĩnh. “Tối nay – hôm nay – chúng ta không làm gì cả có được không? Chỉ xem ti-vi thôi nhé?” Chiều nay Tom muốn đi làm vườn. Hoạt động ấy luôn khiến anh chỉnh đốn bản thân.
Vậy nên anh làm vườn. Và vào buổi tối, họ mặc pyjama nằm trên giường của Heloise, xem ti-vi và thưởng trà. Điện thoại reo ngay trước mười giờ tối và Tom về phòng mình nghe điện. Anh đã chuẩn bị tinh thần nghe giọng của Webster, tay cầm sẵn bút để ghi chép lịch trình ngày mai, nhưng hóa ra là Chris Greenleaf gọi điện từ Paris. Cậu ta đã từ Rheinland quay về và muốn biết có thể mang theo anh bạn Gerald tới chơi không.
Tom, sau khi nói chuyện xong với Chris, quay lại phòng của Heloise và nói, “Chris, em họ của Dickie Greenleaf vừa gọi tới. Cậu ta muốn tới thăm chúng ta vào thứ Hai và đưa cả cậu bạn Gerald Hayman đi cùng. Anh đã đồng ý. Anh hy vọng em không thấy phiền, em yêu. Họ sẽ chỉ ở lại một đêm thôi, chắc vậy. Nó sẽ đem đến một sự thay đổi dễ chịu – du lịch một chút, ăn một bữa trưa ngon miệng. Được không? Yên bình thôi”.
“Khi nào thì anh từ Salzburg về?”
“À, chắc là Chủ nhật. Anh không thấy có lý do gì để công chuyện đó tốn nhiều hơn một ngày – ngày mai và một buổi ngày Chủ nhật. Tất cả những gì họ muốn từ anh là chỉ cho họ chỗ chôn xác trong rừng. Và cả khách sạn của Bernard nữa.”
“Ừm. Tốt lắm,” Heloise lầm bầm, dựa vào gối. “Thứ Hai họ đến chứ gì.”
“Họ sẽ gọi lại. Anh sẽ hẹn vào tối thứ Hai.” Tom quay về giường. Heloise tò mò về Chris, Tom biết. Những thanh niên như Chris và cậu bạn của cậu ta sẽ khiến cô thấy thích thú một thời gian. Tom hài lòng với sự sắp xếp này. Anh chăm chú xem bộ phim Pháp cũ rích chiếu trên ti-vi trước mặt họ. Louis Jouvet, ăn mặc như một vị thánh Thụy Sĩ ở Vatican, đang dùng kích để dọa dẫm một ai đó. Tom quyết định ngày mai đến Salzburg anh phải tỏ ra nghiêm nghị và thẳng thắn. Cảnh sát Áo sẽ dùng ô-tô, tất nhiên rồi, và anh sẽ dẫn họ thẳng tới chỗ trong rừng, khi trời vẫn còn sáng, và buổi tối sẽ đi thẳng tới Der Blaue gì đó, ở phố Linzergasse. Người phụ nữ tóc đen ngồi sau bàn tiếp tân hẳn vẫn nhớ rõ Bernard Tufts và chuyện Tom từng hỏi thăm về anh ta. Anh cảm thấy an tâm. Ngay khi anh bắt đầu chú tâm vào cuộc đối thoại buồn ngủ trên màn hình thì điện thoại reo.
“Chắc chắn là Webster,” Tom nói và lại xuống giường.
Tay Tom khựng lại khi đang định nhấc điện thoại lên – chỉ trong đúng một giây thôi, nhưng trong một giây ấy anh đã vẽ ra cảnh bị bại lộ và sự đau đớn theo sau. Lộ tẩy. Nhục nhã. Cứ bình tĩnh đối đáp như trước đi, anh nghĩ thầm. Buổi trình diễn vẫn chưa đến hồi kết. Can đảm lên! Anh nhấc điện thoại lên.
Hết.