T
om choàng tỉnh sau một giấc mơ bức bối, trong mơ tám kẻ nào đó (chỉ có một kẻ trong đó anh nhận ra, Jeff Constant) trong một ngôi nhà nào đó, chế nhạo và cười giễu anh, vì mọi chuyện đều không ổn thỏa với anh, anh đến muộn một cái gì đó, anh chẳng tài nào thanh toán nổi một hóa đơn mà mình phải trả, anh mặc quần đùi trong khi phải mặc quần dài, anh cũng quên béng một buổi hẹn quan trọng. Cảm giác bất lực do giấc mơ tạo ra quẩn quanh suốt vài phút sau khi anh đã ngồi dậy. Tom chìa tay ra chạm vào mặt tủ đầu giường bằng gỗ dày, bóng loáng.
Sau đó anh gọi một cốc Kaffee Komplett.
Vài ngụm cà phê đầu tiên đã có ích. Anh phân vân xem nên làm gì đó về Bernard – làm gì đây? – hay gọi cho Jeff và Ed để kể cho họ nghe những gì đã xảy ra. Jeff chắc sẽ suy nghĩ rành mạch hơn, nhưng Tom không nghĩ anh ta hay Ed có thể nảy ra một ý tưởng nào đó về động thái kế tiếp của anh. Tom cảm thấy bồn chồn, tâm trạng này sẽ chẳng dẫn anh đến đâu cả. Lý do anh phải nói chuyện với Jeff và Ed chỉ đơn giản là vì anh cảm thấy sợ hãi và cô đơn.
Thay vì đợi trong một bưu điện ồn ào, đông đúc, Tom nhấc điện thoại bàn trong phòng mình và báo số của Jeff ở Luân Đôn. Khoảng nửa tiếng tiếp theo, trong lúc anh đợi điện thoại, là quãng thời gian lấp lửng kỳ lạ nhưng cũng không quá khó chịu. Tom dần dần nhận ra rằng chính anh đã thầm nghĩ hoặc ước Bernard đi tử tự, dù là cùng lúc ấy, vì vốn đã biết trước anh ta chuẩn bị tự sát, Tom khó có thể đổ lên đầu mình tội bắt Bernard đi đến bước đường cùng được. Ngược lại, Tom đã cho thấy khá rõ ràng là mình còn sống – tận vài lần – trừ phi Bernard thà gặp ma còn hơn gặp người. Với lại việc Bernard tự tử có khi chẳng liên quan gì, dù có thì cũng chẳng nhiều, đến việc Tom tin là mình đã giết anh ta. Không phải Bernard đã tự treo cổ hình nộm của bản thân trong hầm rượu của anh, vài ngày trước khi anh ta tấn công anh trong rừng à?
Tom đồng thời nhận ra rằng anh muốn xác của Bernard, và chuyện này đã lẩn khuất trong đầu anh lâu rồi. Nếu anh lấy cái xác đó ra làm xác của Derwatt thì chuyện này sẽ mở ra câu hỏi điều gì đã xảy ra với Bernard Tufts. Sau này hẵng lo liệu vấn đề đó, Tom nghĩ.
Điện thoại reo và anh lao bổ tới nó. Jeff cất tiếng.
“Tom đây. Ở Salzburg. Anh nghe rõ tôi nói chứ?”
Đường dây rất ổn định.
“Bernard… Bernard chết rồi. Nhảy xuống vách đá. Anh ta đã nhảy.”
“Không thể nào. Anh ta tự sát sao?”
“Phải. Tôi đã nhìn thấy anh ta. Luân Đôn thế nào rồi?”
“ Họ… Cảnh sát đang tìm Derwatt. Họ không biết anh ta ở Luân Đôn hay… ở chỗ nào,” Jeff nói, lắp bắp.
“Chúng ta phải kết thúc chuyện Derwatt,” Tom nói, “và đây là cơ hội tuyệt vời. Đừng đề cập tới cái chết của Bernard cho cảnh sát nhé”.
Jeff không hiểu gì.
Những câu trò chuyện tiếp theo hết sức ngượng ngập vì Tom không thể cho Jeff biết ý định của anh. Tom nói hàm ý là bằng cách nào đó anh sẽ đưa tro cốt của Bernard ra khỏi Áo và có thể sẽ đem về Pháp.
“Ý anh là… Anh ấy đang ở đâu? Anh ấy vẫn đang nằm đó à?”
“Không có ai nhìn thấy anh ta hết. Chỉ là tôi buộc phải làm vậy thôi,” Tom nói với thái độ kiên nhẫn khổ sở và đau đớn, cố gắng đáp lại những câu hỏi thẳng thắn hoặc nửa vời của Jeff, “như thể anh ta muốn tự thiêu hoặc muốn được thiêu ra tro. Không còn cách nào khác, đúng không?”. Không, nếu anh còn muốn cố gắng giúp đỡ công ty Derwatt thêm một lần nữa.
“Không.” Jeff, vẫn hữu dụng như thường lệ.
“Tôi sẽ sớm thông báo cho cảnh sát Pháp, và cả Webster nữa nếu anh ta còn ở đó,” Tom nói với thái độ kiên định hơn.
“À, Webster đã quay lại. Họ đang tìm Derwatt ở đây và một người đàn ông – một cảnh sát mặc thường phục – hôm qua vừa đề xuất ý kiến là biết đâu Derwatt đã bị ai đó đóng giả.”
“Họ có nghĩ đến tôi không?” Tom lo lắng hỏi, nhưng đồng thời cũng trào lên cảm giác thách thức.
“Không hề, Tom. Tôi không nghĩ vậy. Nhưng ai đó – tôi không chắc có phải Webster không – nói rằng họ tự hỏi anh ở đâu tại Paris.” Jeff nói thêm, “Tôi nghĩ họ đã kiểm tra các khách sạn ở Paris”.
“Hiện thời,” Tom nói, “anh không biết tôi đang ở đâu, tự nhiên là vậy, và anh phải nói rằng Derwatt có vẻ tuyệt vọng. Anh cũng không tài nào biết được anh ta có thể đã đi tới đâu”.
Vài giây sau, họ dập máy. Nếu sau này cảnh sát điều tra hoạt động của Tom ở Salzburg và thấy cuộc điện thoại này trong hóa đơn của anh thì Tom sẽ khai rằng anh gọi điện vì Derwatt. Anh sẽ phải bịa ra một câu chuyện là anh đã đi theo Derwatt tới Salzburg, vì một lý do nào đó. Bernard cũng sẽ phải đóng một vai trong câu chuyện đó. Nếu Derwatt, chẳng hạn…
Derwatt, tuyệt vọng và phiền não vì việc ông Murchison biến mất và thậm chí có thể đã chết, có thể gọi cho Tom Ripley ở Belle Ombre. Derwatt có thể cũng biết được, qua Jeff và Ed, là Bernard đã tới Belle Ombre. Derwatt có thể đã đề nghị họ gặp nhau ở Salzburg, nơi anh ta muốn tới. (Hoặc có thể Tom sẽ đẩy cho Bernard là người đưa ra gợi ý về Salzburg.) Tom sẽ nói rằng anh đã gặp Derwatt ít nhất hai, ba lần gì đó ở Salzburg, có thể là đi cùng Bernard. Derwatt tuyệt vọng. Cụ thể là vì sao nhỉ? Chịu, Derwatt có nói gì cho Tom biết đâu. Derwatt chỉ nói rất ít về Mexico nhưng hỏi rất nhiều về ông Murchison, và nói rằng chuyến đi tới Luân Đôn của anh ta đúng là sai lầm. Ở Salzburg, Derwatt khăng khăng đòi đi đến đủ chỗ lạ thường để uống cà phê, ăn một bát súp Gulyassuppe, hoặc uống một chai Grinzing. Đúng như tính cách của anh ta, Derwatt không hề kể cho Tom nơi mình nghỉ lại tại Salzburg, luôn bỏ lại anh và đi bộ một mình sau khi chào tạm biệt. Tom cho rằng anh ta đang ở đâu đó với tên giả.
Anh sẽ khai rằng anh ta muốn anh đừng kể cho một ai kể cả Heloise chuyện anh tới Salzburg để gặp Derwatt.
Câu chuyện đó, cho đến lúc ấy, bắt đầu khớp dần.
Tom mở cửa sổ nhìn xuống Sigmundsplatz, giờ nó đã đầy những xe đẩy hàng bày bán các củ cải trắng to khổng lồ, cam và táo tươi ngon. Mọi người đứng nhúng xúc xích dài vào sốt mù tạt trên các đĩa giấy.
Có thể bây giờ anh đã đủ sức đối diện với túi vải của Bernard rồi. Tom quỳ xuống sàn và mở khóa ra. Trên cùng là một cái áo bẩn. Bên dưới là quần đùi và áo lót. Tom quẳng chúng ra sàn. Rồi anh xoay chìa khóa cửa phòng mình – dù không giống nhân viên của rất nhiều khách sạn khác, ở đây các cô hầu phòng không xộc vào mà không gõ cửa. Tom tiếp tục. Một tờ báo Salzburger Nachrichten số ra hai ngày trước, một tờ Times của Luân Đôn cũng cùng ngày. Bàn chải đánh răng, dao cạo, một chiếc lược đã mòn, một chiếc quần bằng vải bông thô màu be được cuộn tròn, và ở dưới đáy là quyển sổ màu nâu cũ mèm mà Bernard đã bỏ ra đọc ở Belle Ombre. Bên dưới là một sổ vẽ gáy xoắn, trên bìa có chữ ký của Derwatt, cũng là tên thương mại của công ty cung cấp dụng cụ vẽ. Tom mở nó ra. Các nhà thờ và tòa tháp theo phong cách Ba-rốc của Salzburg, có chỗ khá nghiêng, được trang trí thêm vòng xoắn. Lũ chim trông như dơi bay phía trên ở vài nơi. Bóng tối được tạo nên ở vài chỗ bằng cách dùng ngón cái ướt quệt ngang giấy. Có một bản phác thảo đã bị gạch xóa nặng nề. Trong một góc túi là một lọ mực Ấn Độ, đầu nút của nó đã bị vỡ mất, nhưng nó vẫn đậy kín mực, và một đống bút vẽ cùng vài cây cọ được buộc dây chun chung với nhau. Tom cả gan mở quyển sổ nâu ra để xem có nhật ký mới gần đây không. Không có gì từ ngày 5 tháng Mười năm nay, nhưng giờ Tom chưa thể đọc nó được. Anh căm ghét việc đọc thư từ hay giấy tờ cá nhân của người khác. Nhưng anh nhận ra tờ giấy viết thư được gấp lại đến từ Belle Ombre, hai tờ. Đây là tờ giấy mà Bernard đã viết vào buổi tối đầu tiên ở nhà Tom, và liếc qua anh thấy nó liệt kê danh sách tranh giả của Bernard, bắt đầu từ cách đây sáu năm. Tom không muốn đọc nó, anh xé tờ giấy thành từng mảnh vụn rồi thả vào sọt rác. Tom trả mọi thứ vào trong túi vải, khóa lại, và cất nó vào tủ đồ của anh.
Làm sao để mua dầu, xăng để thiêu cái xác nhỉ?
Anh có thể khai rằng xe của mình hết nhiên liệu. Chắc chắn là mọi chuyện không thể hoàn tất được trong hôm nay, vì chuyến bay duy nhất về Paris khởi hành lúc 2 giờ 40 phút chiều. Anh có vé khứ hồi. Tất nhiên anh cũng có thể đi tàu, nhưng như thế thì việc kiểm tra hành lý sẽ cẩn thận hơn chứ? Tom không muốn thanh tra hải quan mở va-li ra và phát hiện thấy một hũ tro.
Ở ngoài trời thì liệu xác người có thể cháy thành tro không nhỉ? Không phải sẽ cần đến lò sao? Để tăng nhiệt độ?
Tom rời khỏi khách sạn khi vừa qua trưa. Bên kia sông, anh mua một chiếc va-li bằng da lợn nhỏ xíu ở một cửa hàng trên đường Schwarzstrasse, và mua thêm cả vài tờ báo để cho chúng vào va-li. Hôm đó là một ngày dông bão, lạnh lẽo, dù vẫn có chút nắng. Tom lên một chiếc xe buýt đi ngược dòng sông ở khu vực thị trấn cổ, theo hướng Mariaplain và Bergheim, hai thị trấn mà anh đã tìm hiểu được tên. Tom xuống xe ở địa điểm mà anh nghĩ là đúng, và bắt đầu tìm trạm xăng. Anh mất đến hai mươi phút mới tìm ra. Anh bỏ lại chiếc va-li mới trong rừng trước khi tiến lại gần trạm xăng.
Người phục vụ rất lịch sự và đề nghị chở anh về chỗ xe của anh đậu, nhưng Tom nói rằng nó cũng không ở xa đây lắm, liệu anh có thể mua cả thùng đựng không vì anh không muốn quay lại? Tom mua mười lít. Anh không ngoái lại nhìn khi đi ra đường. Anh lấy va-li của mình. Ít nhất thì anh cũng đang đi đúng đường, nhưng đó là một quãng đường dài, và anh đã đi nhầm vào rừng hai lần.
Cuối cùng anh cũng tìm được nơi ấy. Anh nhìn thấy các tảng đá xám trước mặt. Tom bỏ va-li lại và vòng vèo xách xăng xuống. Máu đã tràn ra thành các dòng gân nhỏ lộn xộn dưới thân Bernard. Tom nhìn một vòng xung quanh. Anh cần một cái hang, một chỗ trú ẩn, thứ gì đó có mái che để tăng nhiệt độ. Anh sẽ cần đến rất nhiều gỗ. Anh nhớ lại hình ảnh những cái xác của Ấn Độ trên những bậc thềm bốc cháy ngùn ngụt. Rõ ràng là cần rất nhiều gỗ. Tom tìm được một chỗ thích hợp dưới vách đá, giống một cái hốc trong khe đá. Lăn cái xác xuống là việc dễ nhất.
Trước tiên Tom tháo chiếc nhẫn mà Bernard đeo, một chiếc nhẫn vàng có đính một thứ trông có vẻ là huy hiệu đã mòn vẹt. Anh dợm quẳng nó vào trong rừng nhưng chợt nghĩ luôn có khả năng đến một lúc nào đó sẽ có người tìm thấy, nên anh đút nó vào túi, định sẽ đứng trên một cây cầu nào đó thả xuống sông Salzach. Tiếp đến là các túi quần. Không có gì ngoài vài đồng xu Áo trong áo mưa, thuốc lá còn lại trong túi áo khoác thì Tom để lại, ví trong túi quần và anh lấy toàn bộ đồ bên trong ra, nghiền nát chúng, cả tiền lẫn giấy, rồi lại nhét chúng vào túi của anh để dùng châm lửa hoặc sau đó sẽ quẳng vào lửa. Sau đó anh nhấc cơ thể nhớp nháp lên và lăn. Nó lăn xuống các hòn đá. Tom trèo xuống và kéo cái xác về phía hốc đá mà anh đã phát hiện ra.
Sau đó, vui mừng vì có thể rời xa thứ đó, anh bắt đầu thu gom gỗ một cách hăng hái. Anh đi đi về về ngôi mộ nhỏ mà anh đã khám phá ra ít nhất sáu chuyến. Anh tránh nhìn vào mặt và đầu Bernard, tất cả giờ chỉ là một khoảng tối. Cuối cùng anh gom một đống lá và cành cây khô, những gì có thể tìm được, và kẹp giấy cùng số tiền trong ví của Bernard vào giữa. Sau đó anh kéo lê cái xác lên trên đống gỗ, nín thở khi kéo phần chân, dùng chân anh đẩy một cánh tay của cái xác vào đúng vị trí. Cơ thể cứng đờ, một tay chìa ra. Tom lấy xăng và đổ một nửa lên áo mưa, thấm đẫm nó. Anh quyết định tìm thêm củi để chất lên trên, trước khi châm lửa thiêu rụi toàn bộ.
Tom đốt một que diêm và quẳng nó vào đống củi từ xa.
Ngọn lửa bùng cháy ngay lập tức, màu vàng trắng. Tom – mắt khép hờ – tìm được một chỗ tránh khói. Tiếng nổ lép bép vang lên ồn ào. Anh không nhìn nữa.
Trong tầm mắt không có sinh vật sống nào cả, đến cả một con chim bay cũng không.
Tom thu thập thêm củi. Chắc cũng không cần quá nhiều, anh nghĩ. Khói nhạt màu nhưng bốc lên cuồn cuộn.
Một chiếc ô-tô đi qua trên đường, hẳn là xe tải, xét đến tiếng gầm của động cơ. Tom không nhìn thấy nó do cây cối che khuất. Âm thanh của nó nhỏ dần và anh hy vọng nó không dừng lại để tìm hiểu. Suốt ba, bốn phút, chẳng có gì xảy ra hết và Tom cho rằng lái xe đã chạy đi. Không nhìn những gì còn sót lại của Bernard, Tom hẩy vài cành cây lại gần lửa hơn. Anh dùng một cái que dài. Anh cảm thấy mình thật vụng về, lửa không đủ nóng – không đủ độ nóng dữ dội cần thiết để hoàn toàn hỏa táng một cái xác. Do đó, việc duy nhất anh có thể làm là khiến ngọn lửa cháy lâu hết mức có thể. Giờ là 2 giờ 17 phút chiều. Hơi nóng từ ngọn lửa khá dữ dội nhờ mái che, và cuối cùng Tom phải vứt cành cây vào từ xa. Anh liên tục làm vậy suốt vài phút. Khi ngọn lửa hơi dịu xuống, anh có thể tiến lại gần nó, nhặt những cành cây cháy dở lên rồi quẳng chúng vào lửa. Vẫn còn nửa can xăng nữa.
Có phương pháp trong đầu, Tom thu thập thêm gỗ, đi xa hơn, cho nỗ lực lần cuối cùng. Khi đã gom được một chồng gỗ, anh quẳng can xăng vào cái xác – nó vẫn còn hình dạng cơ thể người. Áo mưa và quần đã cháy nhưng giày thì chưa, cả da thịt, những gì anh thấy được, đã đen thui nhưng chưa cháy, rõ ràng mới chỉ bị hun khói. Thùng xăng phát ra tiếng bùm như tiếng trống nhưng không phải tiếng nổ. Tom vẫn liên tục nghe ngóng tiếng chân người hoặc tiếng cành cây lạo xạo trong rừng. Có khả năng sẽ có người vào đây vì thấy khói. Cuối cùng, Tom lùi lại vài bước, cởi áo mưa ra, và vắt nó lên cánh tay khi ngồi xuống đất, quay lưng về đám cháy. Cứ đợi hai mươi phút nữa đã, anh nghĩ thầm. Xương sẽ không cháy thành vụn, anh biết. Có nghĩa là lại phải đào thêm một ngôi mộ nữa. Anh phải kiếm một cái xẻng ở đâu đó. Mua một cái chăng? Đi ăn trộm thì sẽ khôn ngoan hơn.
Khi Tom quay lại nhìn giàn thiêu, nó đã đen xì, bao quanh là một vòng tròn than hồng. Tom gạt chúng ra. Cơ thể vẫn cứ giữ hình dạng cơ thể. Đối với việc hỏa thiêu thì nó đã thất bại, Tom biết. Anh đấu tranh xem nên hoàn tất công việc trong hôm nay hay để mai quay lại và quyết định sẽ làm cho xong trong hôm nay, nếu vẫn còn đủ ánh sáng để anh nhìn thấy công việc mình đang làm. Thứ anh cần là một thứ để đào. Anh dùng cái que dài chọc cái xác và thấy nó nhũn như thạch. Tom đặt va-li xuống đất, trên một bụi cây.
Rồi anh gần như chạy lên dốc, ra đường. Mùi khói thật kinh khủng và trên thực tế thì anh đã không hít thở mấy suốt vài phút. Anh có thể tìm xẻng suốt một tiếng đồng hồ nếu cần thiết, anh nghĩ. Anh muốn có một kế hoạch nào đó vì hiện giờ anh đang cảm thấy khá lạc lối và không thạo. Anh đi bộ xuống đường, không còn va-li, tay trống không. Sau vài phút, anh tới một con đường có vài ngôi nhà thưa thớt, không xa quán cà phê nơi Bernard đã uống ly vang đỏ. Có vài khu vườn gọn gàng, có vài nhà kính trồng cây, nhưng lại chẳng có cái xẻng nào đặt cạnh tường gạch một cách thuận tiện cả.
“Gruss’ Gott36!” Một người đàn ông nói, đang đào vườn bằng một cái thuổng hẹp, sắc, mà Tom có thể dùng được.
36 (Tiếng Đức): Xin chào.
Anh thản nhiên đáp lại lời chào của ông ta.
Sau đó Tom nhìn thấy một bến xe buýt, cái mà hôm qua anh không hề để ý đến, một cô gái trẻ, hoặc là một phụ nữ, đang tiến về phía nó, về phía Tom. Hẳn sắp có một chiếc xe buýt đến. Tom muốn lên xe khi nó tới, quên cả cái xác lẫn cái va-li đi. Anh đi qua cô ta mà không liếc ngang, hy vọng cô ta không nhớ mặt anh. Đúng lúc đó Tom nhìn thấy một chiếc xe cút kít kim loại chất đầy lá cây cạnh vỉa hè, và đối diện nó là một cái xẻng. Anh không tin nổi. Một món quà nhỏ từ Chúa – chỉ có điều cái xẻng đó khá cùn. Tom đi chậm lại và liếc vào rừng, nghĩ chắc người công nhân sở hữu hai món đồ ấy chắc chỉ tạm thời biến vào rừng một lát.
Xe buýt đến. Cô gái lên xe và xe tiếp tục lăn bánh.
Tom cầm xẻng và tự nhiên đi bộ ngược trở lại con đường ban nãy, thờ ơ cầm cái xẻng như thể đang cầm ô, chỉ có điều anh phải cầm nó theo chiều ngang.
Về chỗ đốt xác, Tom thả xẻng xuống và tiếp tục tìm thêm củi. Thời gian trôi dần đi và khi trời vẫn còn đủ sáng để nhìn khá rõ, Tom đi sâu hơn vào trong rừng để tìm nhiên liệu. Anh nhận ra mình sẽ phải đập nát sọ và hơn tất thảy là phi tang đống răng, và anh không muốn phải quay lại đây vào ngày mai. Tom lại đốt lửa lên rồi cầm xẻng và bắt đầu đào một chỗ toàn lá ướt. Có chạc thì sẽ dễ hơn. Mặt khác, cái xác còn lại của Bernard sẽ không gợi hứng thú cho một con thú lang thang nào cả, nên mộ cũng không cần đào sâu lắm. Khi đã thấm mệt, anh quay lại chỗ ngọn lửa và không ngừng một giây, đập xẻng xuống sọ. Anh chưa gì đã thấy làm vậy chỉ vô dụng. Nhưng đập thêm vài nhát nữa là quai hàm long ra và Tom dùng xẻng cào nó ra. Anh bỏ thêm củi gần hộp sọ.
Sau đó anh tới chỗ va-li và trải đều báo ra bên trong va- li. Anh sẽ phải lấy một thứ gì đó từ cái xác. Anh rúm người lại trước ý nghĩ mang tay hoặc chân. Có thể là một ít da trên thân. Da là da, đây là người và sẽ không thể bị nhầm với da bò, chẳng hạn thế, Tom thấy vậy. Trong vài giây, anh thấy buồn nôn và khom người xuống, dựa vào một cái cây. Rồi anh cầm xẻng tiến thẳng tới chỗ lửa cháy và cào một ít da ở eo Bernard ra. Nó đen xì và hơi ẩm ướt. Tom dùng xẻng đưa nó về chỗ va- li và đổ xuống. Anh để va-li mở nguyên như thế. Sau đó anh nằm xuống đất, kiệt sức.
Chắc khoảng một tiếng trôi qua. Tom không ngủ. Anh nhận thức rất rõ về hoàng hôn đang buông xuống quanh mình và nhận ra là anh không có đèn pin. Anh đứng dậy. Thử đập xẻng vào sọ thêm lần nữa nhưng vẫn chẳng được kết quả gì. Và cho dù anh có dẫm chân lên cái xác thì cũng vậy, Tom biết. Chắc phải dùng đến đá. Tom tìm được một hòn đá và lăn nó về phía ngọn lửa. Sau đó anh dùng chút sức lực mới khai phá ra, chỗ sức lực ấy cũng chẳng nhiều nhặn gì, và thả đá xuống sọ. Tảng đá nằm lại đó. Sọ bị nghiền nát bên dưới. Tom dùng xẻng đẩy hòn đá đi, vội vã lùi lại để tránh cái nóng của ngọn lửa đỏ hồng. Anh chọc chọc, và dùng xẻng lôi ra một đống xương lạ lẫm và thứ hẳn là hàm răng trên.
Động tác này khiến anh thấy nhẹ nhõm và giờ Tom bắt đầu dọn dẹp đống lửa. Lạc quan, anh thấy hình dạng dài nằm kia không còn tương đồng chút nào với xác người nữa. Anh tiếp tục đào. Nó là một cái hào nông và không lâu sau đã sâu khoảng một mét. Tom dùng xẻng lăn cái thứ đang bốc khói về phía ngôi mộ mà anh vừa đào xong. Thỉnh thoảng anh lại phải dập các ngọn lửa nhỏ trên mặt đất bằng xẻng. Anh kiểm tra trước khi chôn sọ để xem có đúng anh đã phi tang được hàm răng trên và đúng là anh đã thành công. Anh chôn phần xác còn lại và phủ đất lên. Một chút vòng khói bốc lên từ đống lá mà anh đã rải lên trên lần cuối cùng. Anh xé báo từ trong va-li và bọc mẩu xương có chứa hàm răng trên lại, cũng gỡ cả hàm răng dưới ra và bọc nó vào.
Anh dồn lửa vào một chỗ và cố gắng đảm bảo tro than không bay ra ngoài và đốt lửa giữa rừng cây. Anh kéo lá ra khỏi chỗ đốt lửa để chuyện đó không xảy ra. Nhưng anh không thể tốn thêm thời gian ở đây vì trời mỗi lúc một tối. Tom gấp báo trong va-li lại quanh cái gói nhỏ và đi lên dốc, cầm theo va-li và xẻng.
Khi anh đến trạm xe buýt đó, cái xe cút kít không còn ở chỗ lúc trước nữa. Dẫu vậy Tom vẫn bỏ xẻng lại.
Đi đến trạm xe buýt tiếp theo, cũng khá xa, anh mới đứng lại đợi. Một người phụ nữ đến đợi cùng anh. Tom không nhìn cô ta.
Khi chiếc xe lăn bánh và xóc loạn lên, khiến hành khách nảy lên rồi xuống với cái cửa kêu vù vù, Tom cố gắng suy nghĩ, những ý nghĩ hỗn loạn, như thường lệ. Sẽ thế nào nếu tất cả bọn họ – Bernard, Derwatt, và chính anh – gặp nhau ở đây, ở Salzburg này, nói chuyện với nhau vài ba lần? Derwatt nói đến chuyện tự tử. Anh ta nói muốn được hỏa táng, không phải trong lò thiêu mà ở ngoài trời. Anh ta đã nhờ Bernard và Tom giúp. Anh đã cố gắng thuyết phục cả hai người họ thoát khỏi cảm xúc tuyệt vọng, nhưng Bernard thì tuyệt vọng vì Cynthia (Jeff và Ed có thể làm chứng cho chuyện đó), còn Derwatt thì…
Tom xuống xe, không quan tâm mình đang ở đâu, vì anh muốn suy nghĩ trong lúc đi bộ.
“Ngài có cần tôi xách túi không?” Người xách hành lý ở Goldener Hirsch hỏi.
“À, nó nhẹ lắm,” Tom nói. “Cảm ơn anh.” Anh lên phòng của mình.
Tom rửa mặt và tay, sau đó cởi quần áo và đi tắm. Anh đang hình dung ra cuộc đối thoại giữa Bernard và Derwatt trong các quán bia và rượu vang ở Salzburg. Đó sẽ là lần đầu tiên Bernard gặp lại Derwatt từ khi Derwatt đến Hy Lạp năm, sáu năm trước, vì Bernard đã tránh gặp anh ta trong lần Derwatt quay lại Luân Đôn, và Bernard lại không ở Luân Đôn trong chuyến thăm ngắn ngủi thứ hai của Derwatt. Bernard đã đến Salzburg trước. Bernard nói với Tom về nơi này ở Belle Ombre (đây là sự thật), và khi Derwatt gọi cho Heloise ở Belle Ombre, cô đã nói cho Derwatt biết chuyện Tom tới Salzburg để gặp hay cố gắng tìm gặp Bernard, do đó Derwatt đã đi theo. Derwatt đã đến đây dưới tên gì? Chuyện đó sẽ mãi là một bí ẩn. Giống như làm gì có ai biết tên Derwatt dùng ở Mexico đâu? Tom chỉ còn phải dặn Heloise (nhưng chỉ khi và nếu có người hỏi cô) là Derwatt đã gọi tới Belle Ombre.
Có thể câu chuyện chưa hoàn hảo và được sắp xếp tỉ mỉ, nhưng đó là khởi đầu.
Lần thứ hai anh đối mặt với túi đồ của Bernard và giờ anh tìm đọc những ghi chép gần đây của anh ta. Ghi chép ngày 5 tháng Mười viết, “Thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy mình như đã chết rồi. Kỳ lạ thay tôi vẫn còn sót lại một chút ý thức để nhận ra danh tính của tôi, bản thân tôi, đã tan rã và biến mất sao đó. Tôi chưa từng là Derwatt. Nhưng giờ liệu tôi có thật sự còn là Bernard Tufts không?”.
Tom không thể để hai câu cuối đó lại nên anh xé cả trang đi.
Vài bức tranh có đôi dòng chữ. Vài dòng về màu sắc, màu xanh của các tòa nhà ở Salzburg. “Lăng mộ công cộng ồn ào của Mozart – không có nổi một bức tranh chân dung của ông mà người ta thấy đẹp.” Rồi cả, “Tôi rất hay nhìn sông. Nó là một dòng sông chảy nhanh và như thế thật dễ chịu. Có thể đó là cách giải thoát tuyệt vời nhất, một tối nào đó nhảy xuống khỏi một cây cầu với hy vọng không có ai ở quanh đó để hét lên ‘Cứu anh ta!’”.
Đó chính là điều Tom cần và anh vội vã đóng sổ vẽ lại và thả nó vào trong túi.
Liệu có đoạn nhật ký nào nói về anh không nhỉ? Tom lại tìm kiếm tên hoặc chữ cái viết tắt của tên anh trong sổ vẽ. Rồi anh mở quyển sổ nâu ra. Phần lớn trong đó là các đoạn trích sao chép từ nhật ký của Derwatt và vài đoạn nhật ký cuối cùng, do Bernard tự viết, đều có ghi rõ ngày tháng, chỉ trừ đúng giai đoạn anh ta ở Luân Đôn. Không nói gì về Tom Ripley hết.
Tom đi xuống nhà hàng trong khách sạn. Lúc đó đã muộn nhưng anh vẫn có thể gọi món. Sau khi ăn vài miếng, anh bắt đầu cảm thấy khỏe hơn. Ly rượu vang trắng nhẹ, mát lạnh khiến anh hứng khởi. Anh có thể rời khỏi đây trên chuyến bay chiều mai. Nếu cuộc điện thoại của anh cho Jeff ngày hôm qua bị điều tra, Tom sẽ nói rằng anh đã nảy ra suy nghĩ gọi cho Jeff để báo rằng Derwatt đang ở Salzburg và Tom thấy lo lắng cho anh ta. Anh cũng sẽ phải nói rằng mình đã nhờ Jeff đừng cho ai biết nơi anh ta đang ở – đặc biệt là “công chúng”. Còn Bernard? Tom có thể kể cho Jeff biết là Bernard cũng đang ở Salzburg, bởi vì sao lại không thể nói thế chứ? Cảnh sát đâu có đi tìm Bernard Tufts. Sự biến mất của anh ta chắc chắn chỉ là một vụ tự sát, chắc là nhảy xuống sông Salzach, hẳn đã diễn ra vào chính cái ngày Tom và Bernard hỏa thiêu xác của Derwatt. Tốt nhất cứ nói là Bernard đã giúp anh làm việc đó.
Anh sẽ bị khiển trách vì trợ giúp và tiếp tay cho một vụ tự tử, Tom đoán vậy. Họ sẽ xử những người như vậy ra sao nhỉ? Derwatt đã khăng khăng đòi uống một lượng lớn thuốc ngủ, Tom sẽ nói như vậy. Ba người họ đã dành cả sáng trong rừng, đi dạo. Derwatt đã uống vài viên thuốc ngủ trước khi họ gặp nhau. Không tài nào cản nổi anh ta uống nốt chỗ thuốc còn lại và – Tom sẽ phải thú nhận – anh không muốn can thiệp vào khao khát ra đi mãnh liệt đến thế của Derwatt. Bernard cũng không.
Tom về phòng, mở cửa sổ ra, rồi mở chiếc va-li da lợn. Anh lấy gói giấy báo nhỏ hơn ra và bọc thêm báo. Nó vẫn chẳng to hơn một quả bưởi là bao. Rồi anh đóng va-li lại phòng trường hợp có hầu phòng bước vào (dù giường đã được dọn sẵn để đi ngủ), vẫn để cửa sổ mở hé ra, và mang theo gói đồ nhỏ xuống gác. Anh đi lên cây cầu bên tay phải, cây cầu có tay vịn, nơi anh đã thấy Bernard dựa vào ngày hôm qua. Tom dựa vào thành cầu với tư thế y hệt. Và khi không có hành khách nào đi ngang qua, Tom buông tay ra và để gói đồ rơi xuống. Nó rơi xuống nhẹ bẫng và sớm mất hút khỏi tầm mắt trong bóng tối. Tom mang theo nhẫn của Bernard và cũng thả xuống hệt như vậy.
Sáng hôm sau, anh đặt vé máy bay rồi ra ngoài mua vài món đồ, chủ yếu cho Heloise. Anh mua cho cô một chiếc áo gile màu xanh lục, một chiếc áo khoác len Wolljanker màu xanh dương sáng giống màu của hộp thuốc lá Gauloise, và một chiếc áo sơ mi trắng có xếp nếp, mua cho mình một chiếc áo gile màu xanh lục sậm hơn và vài con dao săn.
Lần này, chiếc máy bay nhỏ của anh mang tên Ludwig van Beethoven.
Đến sân bay Orly lúc tám giờ tối, Tom chìa hộ chiếu của mình ra. Người ta nhìn anh rồi nhìn ảnh, không đóng dấu. Anh đi tắc-xi tới Villeperce. Anh đã sợ là Heloise có khách tới chơi, và anh đã đoán đúng, anh biết điều đó nhờ chiếc Citroen màu đỏ sậm to lù lù trước cửa nhà. Xe ô-tô của nhà Grais.
Họ đã ăn gần xong bữa tối. Một ngọn lửa nhỏ dễ chịu được thắp lên.
“Sao anh không gọi điện chứ?” Heloise trách nhưng cô rất vui khi gặp anh.
“Đừng để anh làm gián đoạn bữa tối của mọi người,” Tom nói.
“Nhưng chúng tôi ăn xong rồi mà!” Agnes Grais nói. Đúng thế. Họ chuẩn bị uống cà phê trong phòng khách. “Anh đã ăn tối chưa, anh Tome?” Bà Annette hỏi.
Tom trả lời là anh đã ăn rồi, nhưng anh muốn uống cà phê. Tom, nói chuyện khá bình thường, theo anh nghĩ, kể cho nhà Grais biết việc anh đã đến Paris để gặp một người bạn đang gặp chút vấn đề cá nhân. Nhà Grais không hay thọc mạch. Tom hỏi vì sao Antoine, kiến trúc sư bận rộn, lại ở Villeperce trong một tối thứ Năm?
“Tự giải phóng bản thân thôi,” Antoine nói. “Thời tiết đẹp, tôi thuyết phục mình là tôi đang ghi chép lại ý tưởng cho một tòa nhà mới và quan trọng hơn nữa là, tôi đang thiết kế lò sưởi cho phòng khách nhà mình.” Anh ta cười lớn.
Chỉ có Heloise, Tom nghĩ, nhận thấy anh không giống bình thường cho lắm. “Bữa tiệc của Noelle hôm thứ Ba thế nào?” Tom hỏi.
“Vui lắm!” Agnes nói. “Chúng tôi nhớ anh lắm.”
“Thế còn ông Mur-chee-son bí ẩn thế nào rồi?” Antoine hỏi. “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
“À… họ vẫn chưa tìm được ông ta. Bà Murchison đã đến đây gặp tôi – chắc Heloise đã kể cho hai người rồi.”
“Chưa hề,” Agnes nói.
“Tôi không giúp bà ta được nhiều,” Tom nói. “Bức tranh của chồng bà ta, một bức do Derwatt vẽ, cũng đã bị ăn trộm ở sân bay Orly.” Kể chuyện đó ra không có hại gì cả, Tom nghĩ, vì nó là sự thật và cũng đã được đăng trên báo.
Sau khi uống cà phê, Tom cáo lỗi, nói rằng anh muốn dọn va-li và sẽ quay lại ngay. Anh bực bội khi thấy bà Annette đã mang va-li của anh lên nhà, yêu cầu bỏ chúng lại dưới gác của anh đã bị tảng lờ. Lên tầng, Tom nhẹ nhõm khi thấy rằng bà Annette chưa hề mở cả hai va-li ra, có thể vì bà ta còn nhiều việc phải làm dưới nhà. Tom đặt chiếc va-li da lợn mới vào tủ quần áo và mở nắp chiếc va-li còn lại ra, nó chứa đầy đồ anh mới mua. Rồi anh xuống nhà.
Nhà Grais có thói quen thức dậy sớm và ra về trước mười một giờ.
“Webster có gọi lại không?” Tom hỏi Heloise.
“Không.” Cô nhẹ nhàng trả lời bằng tiếng Anh, “Để bà Annette biết chuyện anh đã đến Salzburg có sao không?”.
Tom mỉm cười, nụ cười nhẹ nhõm vì năng lực của Heloise. “Được chứ. Trên thực tế thì giờ em phải nói là anh đã đến đó.” Tom muốn giải thích nhưng anh lại không thể kể cho Heloise nghe về tro cốt của Bernard tối nay, hay bất kỳ một tối nào được. Tro của Derwatt – Bernard. “Anh sẽ giải thích sau. Giờ anh phải gọi tới Luân Đôn đã.” Tom cầm điện thoại lên và gọi tới studio của Jeff.
“Chuyện gì đã xảy ra ở Salzburg vậy? Anh có gặp gã điên đó không?” Heloise gặng hỏi, lo lắng cho Tom nhiều hơn là bực bội với Bernard.
Tom liếc vào bếp nhưng bà Annette đã chào đi ngủ và đóng cửa lại. “Kẻ điên đó chết rồi. Tự tử.”
“Thật à! Anh không đùa chứ, Tome?”
Nhưng Heloise biết rõ là anh không đùa. “Chuyện quan trọng – em phải nói với mọi người thế này nhé – là anh đã tới Salzburg.” Tom quỳ xuống trên sàn, cạnh ghế của cô, ngả đầu vào lòng cô trong giây lát, rồi đứng dậy và hôn cả hai má của cô. “Em yêu, anh phải nói là Derwatt cũng đã chết ở Salzburg. Và… trong trường hợp có người hỏi em thì nhớ nói Derwatt đã từng gọi tới Belle Ombre từ Luân Đôn, đòi gặp anh. Nên em cho anh ta biết là ‘Tom đã tới Salzburg’. Được chứ? Dễ nhớ lắm vì đó là sự thật.”
Heloise liếc nhìn anh ngờ vực, có phần tinh quái. “Cái gì là thật mà cái gì là giả?”
Giọng cô có vẻ triết học lạ lùng. Nó đúng là một câu hỏi dành cho các triết gia, mà sao anh và Heloise phải bận tâm về điều đó cơ chứ? “Lên gác đi và anh sẽ chứng minh là mình đã tới Salzburg.” Anh kéo Heloise rời khỏi ghế.
Họ lên phòng Tom và xem các món đồ trong va-li của anh. Heloise mặc thử áo gile xanh lục vào. Cô ôm chiếc áo khoác màu xanh dương. Cô thử nó lên người và nó vừa in.
“Anh lại còn mua một chiếc va-li mới nữa chứ!” Cô nói khi thấy chiếc va-li da lợn màu nâu trong tủ đồ của anh.
“Nó khá bình thường mà,” Tom nói bằng tiếng Pháp khi điện thoại reo. Anh đuổi cô ra xa cái va-li. Tom được báo là điện thoại của Jeff không có ai bắt máy và Tom nhờ tổng đài viên tiếp tục cố gắng. Giờ đã gần nửa đêm.
Tom tắm trong khi đó Heloise vẫn nói chuyện với anh. “Bernard chết thật rồi à?” Cô hỏi.
Tom đang rửa trôi xà phòng, sung sướng được về nhà, cảm giác có chiếc bồn tắm mà anh quen thuộc dưới chân. Anh mặc một bộ đồ ngủ lụa vào. Anh không biết phải bắt đầu giải thích từ đâu. Điện thoại reo. “Nếu em nghe anh nói chuyện,” Tom nói, “thì em sẽ hiểu”.
“Xin chào?” Giọng Jeff cất lên.
Tom đứng thẳng dậy, căng thẳng, giọng nghiêm trọng. “Xin chào. Tom đây. Tôi gọi tới để báo cho anh biết là Derwatt đã chết… Anh ta đã chết ở Salzburg…”
Jeff lắp bắp như thể điện thoại của anh ta đang bị nghe lén, và Tom vẫn tiếp tục nói như một công dân trung thực bình thường nhất:
“Tôi vẫn chưa báo cho cảnh sát ở bất kỳ đâu biết cả. Cái chết – nó diễn ra trong hoàn cảnh mà tôi không muốn miêu tả qua điện thoại.”
“Anh có… ch-chuẩn bị tới Luân Đôn không?”
“Tôi không tới đâu. Nhưng anh có thể nói chuyện với Webster và báo cho anh ta biết việc tôi đã gọi cho anh, rằng tôi đã tới Salzburg để tìm Bernard không… Mà thôi, đừng bận tâm đến Bernard vội, chỉ trừ một chuyện quan trọng này nữa. Anh có thể tới studio của anh ta và tiêu hủy mọi dấu vết của Derwatt không?”
Jeff hiểu. Anh ta và Ed quen người quản lý tòa nhà. Họ có thể lấy chìa khóa. Họ có thể nói dối là Bernard cần gì đó. Và Tom hy vọng chuyện này cũng sẽ giúp mang các bức phác thảo, những bức tranh sơn dầu dang dở mà có thể họ cần đưa ra ngoài.
“Làm cho kín kẽ vào,” Tom nói. “Tiếp tục nhé, Derwatt đã gọi cho vợ tôi vài ngày trước. Cô ấy cho anh ta biết là tôi đã tới Salzburg.”
“Rồi, nhưng vì sao…”
Tom đoán Jeff định hỏi vì sao Derwatt lại muốn tới Salzburg. “Tôi nghĩ chuyện quan trọng là tôi phải sẵn sàng gặp Webster ở đây. Trên thực tế, tôi muốn gặp anh ta. Tôi có tin mới.”
Tom dập máy và quay sang nhìn Heloise. Anh cười, gần như không dám cười. Vậy nhưng, không phải anh chuẩn bị thành công rồi sao?
“Ý anh là gì,” Heloise hỏi bằng tiếng Anh, “khi nói Derwatt đã chết ở Salzburg trong khi anh từng kể cho em là anh ta đã chết mấy năm trước ở Hy Lạp?”.
“Chưa có ai chứng minh là anh ta đã chết cả. Em biết không, em yêu, anh làm những việc này chỉ để bảo vệ… danh dự của Philip Derwatt mà thôi.”
“Làm sao người ta có thể giết một người đã chết rồi?”
“ Em có thể để chuyện đó lại cho anh không? Anh có…”
Tom nhìn đồng hồ đeo tay của anh trên tủ đầu giường. “Anh còn cần xử lý công chuyện trong ba mươi phút nữa và sau đó anh rất muốn được cùng em…”
“Công chuyện gì?”
“Những việc vụn vặt.” Thánh thần ơi, nếu một người phụ nữ mà không hiểu việc vụn vặt thì còn ai hiểu nữa? “Những công tác tủn mủn.”
“Chúng không thể chờ tới sáng được à?”
“Có thể thanh tra Webster sẽ đến ngay ngày mai. Thậm chí là ngay sáng mai. Và đến khoảng thời gian em thay đồ xong, tầm lúc đó, anh đã tới bên em rồi.” Anh kéo cô dậy. Cô vui lòng đứng dậy nên anh biết là cô đang vui vẻ. “Có tin gì từ cha em không?”
Heloise xổ ra một tràng tiếng Pháp, đại loại là, “Ôi, trong một tối như thế này thì kệ cha em đi!... Hai người chết ở Salzburg! Ý anh là một đấy nhỉ, anh yêu. Hay ý anh là không có ai cả?”.
Tom cười, vui vẻ trước thái độ báng bổ của Heloise, vì nó giống hệt anh. Vẻ đứng đắn của cô chỉ là một lớp ngụy trang, Tom biết, không thì chắc chắn cô đã chẳng bao giờ cưới anh.
Khi Heloise đi sang bên kia hành lang, Tom đi về phía chiếc va-li của mình và mang quyển sổ nâu cùng sổ vẽ của Bernard ra, đặt chúng gọn gàng trên bàn làm việc của anh. Anh đã vứt quần vải thô cùng áo sơ mi của Bernard trong một thùng rác ở một con phố của Salzburg, và vứt cái túi vải vào một thùng rác khác. Câu chuyện Tom định kể là Bernard nhờ anh cầm túi vải của anh ta trong lúc anh ta đi tìm một khách sạn khác. Bernard chẳng bao giờ trở lại nữa và Tom chỉ giữ lại những đồ vật giá trị. Rồi anh lấy chiếc nhẫn Mexico mà anh đã đeo trong lần đầu tiên đóng giả Derwatt ở Luân Đôn ra khỏi hộp trang sức của mình. Anh cầm nó xuống nhà, lặng lẽ, đi chân trần. Tom đặt chiếc nhẫn vào giữa đống tro tàn còn sót lại trong lò sưởi. Nó có thể sẽ chảy ra thành cục, anh đoán vậy, vì bạc Mexico rất tinh khiết và mềm. Thứ sót lại sẽ được anh cho vào đống tro của Derwatt – chứ không phải Bernard. Ngày mai anh phải dậy sớm, trước khi bà Annette dọn tro khỏi lò sưởi.
Heloise đang nằm trên giường, hút thuốc lá. Anh không thích hút loại thuốc lá màu vàng của cô nhưng thích mùi khói khi cô hút. Tom ôm chặt Heloise hơn khi họ tắt đèn đi. Tiếc là tối nay anh đã không quẳng hộ chiếu của Robert Mackay vào lửa. Liệu có khoảnh khắc bình yên nào dành cho anh không?