• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thiền Osho
  3. Trang 7

Hạt giống Thiền

Một người vừa mới hái một bông hoa và, không nói một lời, cầm nó lên giữa những người đang ngồi thành vòng tròn chung quanh anh ta. Từng người nhìn vào bông hoa rồi giải thích ý nghĩa, tầm quan trọng, tất cả những gì nó tượng trưng. Tuy nhiên, người cuối cùng nhìn bông hoa mà không nói gì, chỉ mỉm cười. Người ở trung tâm cũng bèn mỉm cười và không nói một lời, trao cho anh ta bông hoa. Đây là khởi nguyên của Thiền.

Một hôm Đức Phật có bài thuyết giảng, và từ nhiều dặm xung quanh, hàng ngàn đệ tử đến tham dự. Khi Đức Phật xuất hiện, ông cầm trên tay một bông hoa. Thời gian trôi đi nhưng Đức Phật không nói gì, chỉ nhìn vào bông hoa. Đám đông trở nên bồn chồn, nhưng Ma Ha Ca Diếp, người không kiềm chế được bản thân lâu hơn, bật lên tiếng cười. Đức Phật ra hiệu cho ông lại gần, trao cho ông bông hoa và nói với đám đông: “Tất cả những gì có thể trao bằng lời, ta đã trao cho các vị; nhưng với bông hoa này, ta trao cho Ma Ha Ca Diếp chìa khóa của mọi giáo huấn.”

31

Chìa khóa của mọi giáo huấn, không chỉ đối với Đức Phật mà đối với tất cả các bậc thầy – Chúa Jesus, Mahavira, Lão Tử – không thể trao thông qua giao tiếp bằng lời. Không thể trao chìa khóa thông qua tâm trí, không thể nói gì về nó. Bạn càng nói nhiều, càng khó trao, bởi vì bạn và một vị Phật sống trong những chiều khác biệt – không những khác biệt mà còn hoàn toàn đối lập – cho nên bất cứ điều gì một vị Phật nói cũng sẽ bị hiểu nhầm.

Tôi từng nghe rằng, một đêm nọ, ba người phụ nữ bị điếc nhẹ gặp nhau trên đường. Trời lộng gió, cho nên một người nói: “Gió (windy) nhỉ?”

Người khác nói: “Thứ Tư (Wednesday) hả? Không, hôm nay là thứ Năm (Thursday).”

Và người thứ ba nói: “Khát (Thirsty) à? Tôi cũng thế, vậy chúng ta hãy ra quán làm một tách trà đi.”

32

Đây là điều xảy ra khi một vị Phật nói gì đó với bạn. Ông ấy nói: “Gió nhỉ?” Bạn nói: “Thứ Tư à? Không, là thứ Năm.”

Tai nghe của thân thể thì có, nhưng tai nghe của tâm linh thì không. Một vị Phật chỉ có thể nói với một vị Phật khác – đây là vấn đề – và với vị Phật khác thì không cần nói. Một vị Phật phải nói với những người chưa chứng ngộ. Với họ tồn tại nhu cầu nói và giao tiếp, nhưng rồi giao tiếp là bất khả thi.

Hai người vô minh có thể nói chuyện. Họ nói nhiều, họ không làm gì ngoại trừ nói. Hai người chứng ngộ không thể nói chuyện – nó sẽ là ngớ ngẩn.

33

Hai người vô minh nói chuyện thì vô nghĩa bởi vì không có gì để truyền đạt. Họ không biết có thể nói gì, nên nói gì, nhưng họ cứ nói. Họ nói luôn miệng. Họ không kiểm soát nổi; nó chỉ là một sự thanh tẩy điên khùng, một sự giải tỏa.

Hai người chứng ngộ không thể nói chuyện bởi vì họ biết như nhau. Chẳng có gì cần nói. Chỉ một người chứng ngộ và một người chưa chứng ngộ mới có thể giao tiếp có ý nghĩa, bởi vì một người biết còn người kia vẫn chưa biết. Tôi nói là giao tiếp có ý nghĩa. Tôi không nói là có thể truyền tải chân lí. Nhưng có thể truyền đạt vài gợi ý, vài biểu thị, vài dấu hiệu, để người kia sẵn sàng thực hiện cú nhảy. Không thể truyền tải chân lí nhưng có thể trao cơn khát. Không giáo huấn nào đáng nêu danh có thể đưa ra chìa khóa thông qua lời nói.

Đức Phật đã nói – khó tìm ra người nào khác từng nói nhiều như vậy. Các học giả đã nghiên cứu toàn bộ kinh sách tồn tại dưới cái tên Đức Phật, và nó dường như là một thành tựu bất khả thi bởi vì sau khi chứng ngộ, ông chỉ sống 40 năm và liên tục đi từ làng này qua làng khác.

Ông đi qua toàn bộ bang Bihar ở Ấn Độ, nơi được đặt tên là Bihar vì Đức Phật đã bước đi ở đó. Bihar nghĩa là những con đường Phật bước đi. Toàn bộ bang được gọi là Bihar bởi vì đây là ranh giới những nơi Đức Phật đã bước qua – bihar của ông, cuộc lãng du của ông.

Ông liên tục bước đi, chỉ nghỉ ngơi vào mùa mưa. Ông lãng phí quá nhiều thời gian vào việc bước đi, và rồi ông cũng còn phải ngủ. Cho nên các học giả, sau khi tính toán, đã nói: “Điều này dường như là bất khả thi. Ông phải ngủ, bước đi, làm những việc thường ngày khác – nhưng lại có quá nhiều kinh sách, làm sao ông có thể nói nhiều đến thế? Trừ phi ông đã nói không ngừng suốt 40 năm, không một khắc nào ngơi nghỉ, chỉ thế mới có thể nhiều như vậy.” Ông hẳn đã nói rất nhiều – gần như liên tục – tuy nhiên ông vẫn nói rằng không thể truyền tải chìa khóa bằng lời.

35

Câu chuyện này là một trong những câu chuyện ý nghĩa nhất, bởi vì đây là sự ra đời của truyền thống Thiền. Đức Phật là cội nguồn, và Ma Ha Ca Diếp là người đầu tiên, bậc thầy nguyên thủy của Thiền. Đức Phật là cội nguồn, Ma Ha Ca Diếp là bậc thầy đầu tiên, và câu chuyện này là cội nguồn mà từ đó toàn thể truyền thống – một trong những truyền thống đẹp đẽ và sống động nhất tồn tại trên Trái Đất, truyền thống Thiền – bắt đầu.

Hãy cố gắng hiểu câu chuyện này. Một buổi sáng, Đức Phật tới và như thường lệ, đám đông tụ tập lại; nhiều người chờ đợi để lắng nghe. Nhưng có một điều bất thường – Đức Phật cầm trên tay một bông hoa. Trước đây chưa bao giờ ông đem theo thứ gì trên tay. Người ta nghĩ rằng ai đó hẳn đã tặng nó cho ông. Đức Phật đến, ông ngồi xuống dưới gốc cây. Đám đông cứ chờ đợi mãi mà ông không nói. Ông thậm chí không nhìn vào họ, ông chỉ nhìn vào bông hoa. Nhiều phút trôi qua, rồi nhiều giờ trôi qua, mọi người trở nên rất bồn chồn.

36

Người ta kể rằng Ma Ha Ca Diếp không thể kiềm chế được bản thân. Ông cười phá lên. Đức Phật gọi ông, trao cho ông bông hoa và nói với đám đông tụ tập: “Những gì có thể nói bằng lời ta đã nói cho các vị, và điều không thể nói bằng lời ta trao cho Ma Ha Ca Diếp. Không thể truyền đạt chìa khóa qua lời nói. Ta giao lại chìa khóa cho Ma Ha Ca Diếp.”

37

Các Thiền sư gọi đây là “sự chuyển giao chìa khóa không cần kinh sách” – vượt khỏi kinh sách, vượt khỏi ngôn từ, vượt khỏi tâm trí. Ông trao bông hoa cho Ma Ha Ca Diếp, và không ai có thể hiểu điều gì đã xảy ra. Cả Ma Ha Ca Diếp lẫn Đức Phật không bao giờ bình giải lại nó. Toàn bộ câu chuyện đã khép lại. Từ đó trở đi, ở Trung Quốc, Tây Tạng, Thái Lan, Myanmar, Nhật Bản, Sri Lanka – khắp mọi nơi – trong 25 thế kỉ vừa qua, các Phật tử đã hỏi: “ Ma Ha Ca Diếp đã được trao cho cái gì? Chìa khóa là gì?”

Toàn bộ câu chuyện dường như rất bí truyền. Đức Phật vốn thường không giấu kín, đây là lần duy nhất... Đức Phật là một người rất duy lí. Ông nói đầy lí trí, ông không phải kẻ mê cuồng điên loạn, ông biện luận đầy lí trí, và logic của ông thì hoàn hảo – bạn không thể tìm ra được lỗ hổng nào trong đó. Đây là lần duy nhất ông hành xử phi logic, lần duy nhất ông làm gì đó thần bí. Ông hoàn toàn không phải người thần bí. Bạn không thể tìm được bậc thầy nào khác ít thần bí hơn ông.

Chúa Jesus rất thần bí. Lão Tử vô cùng thần bí. Đức Phật thì dễ hiểu và trong sáng; chẳng có gì thần bí bao quanh ông, không có màn khói nào. Ngọn lửa của ông cháy sáng rực rỡ, hoàn toàn trong trẻo và không có khói. Đây là điều duy nhất có vẻ thần bí; cho nên, nhiều kinh sách Phật giáo không bao giờ thuật lại giai thoại này, họ bỏ nó đi. Cứ như thể ai đó đã sáng tác ra nó. Nó chẳng phù hợp chút nào với cuộc đời và giáo huấn của Đức Phật.

Nhưng đây là khởi nguyên của Thiền. Ma Ha Ca Diếp trở thành người đầu tiên giữ chìa khóa. Sau đó sáu người giữ chìa đã sống kế tiếp nhau ở Ấn Độ, cho đến Bồ Đề Đạt Ma, người giữ chìa thứ sáu1.

1 Theo nhiều nguồn thông tin và tư liệu thì Bồ Đề Đạt Ma được xem là Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ.

Đối với tôi, nếu tất cả kinh sách của Đức Phật biến mất thì cũng chẳng có gì mất mát. Chỉ có giai thoại này không nên biến mất. Đây là giai thoại quý báu nhất, tuy nhiên các học giả đã bỏ nó ra khỏi tiểu sử của Đức Phật.

39

Họ nói: “Chuyện này không thích đáng, nó không phù hợp với Đức Phật.” Nhưng tôi nói cho bạn nghe, hầu hết những gì Đức Phật làm chỉ là việc bình thường, ai cũng có thể làm, những điều này là phi thường, điều này là ngoại lệ. Chỉ một vị Phật mới có thể làm được.

Chuyện gì đã xảy ra vào sáng hôm đó? Chúng ta hãy thâm nhập vào trong nó. Đức Phật tới, ngồi xuống và bắt đầu nhìn vào bông hoa. Ông ấy đang làm gì? Khi Đức Phật nhìn vào cái gì đó, ý thức của ông được chuyển giao. Và bông hoa là một trong những thứ dễ thụ cảm nhất trên thế giới. Cho nên người Hindu và Phật tử mới đem hoa đến đặt dưới chân bậc thầy của họ hoặc đặt trong đền chùa, bởi vì một bông hoa có thể đem theo thứ gì đó của ý thức bạn.

40

Một bông hoa thì dễ thụ cảm và nếu bạn quan tâm đến những nghiên cứu mới ở phương Tây, bạn sẽ hiểu. Giờ đây người ta nói thực vật còn nhạy cảm hơn con người. Hoa lại là trái tim của thực vật, toàn bộ bản thể bước vào trong nó. Người ta đang thực hiện nhiều nghiên cứu về sự nhạy cảm của thực vật ở Nga, Hoa Kì, Anh, và đã khám phá ra một điều kì diệu.

Một nhà khoa học đang nghiên cứu về thực vật – chúng cảm thấy ra sao, liệu chúng có cảm thấy gì hay không, liệu chúng có cảm xúc hay không. Ông ngồi cạnh một cái cây được gắn điện cực để phát hiện ra mọi chuyển động của bản thể bên trong nó, bất cứ cảm giác nào, bất cứ cảm xúc nào. Ông nghĩ: “Nếu ta cắt cái cây này, nếu ta phá bỏ một cành hoặc cắt nó khỏi mặt đất, điều gì sẽ xảy ra?” Đột nhiên, kim vẽ biểu đồ vọt lên. Ông ấy chưa làm gì cả, ông ấy mới chỉ có ý nghĩ: “Nếu ta cắt cái cây này...” Cái cây sợ chết và kim tăng đột ngột ghi nhận rằng cái cây đang run sợ. Ngay cả nhà khoa học cũng trở nên hoảng hốt bởi vì ông ấy chưa làm gì cả – chỉ một ý nghĩ và cái cây đã nhận được nó. Thực vật có thần giao cách cảm.

Không chỉ có vậy, nếu bạn nghĩ đến việc cắt một cái cây, tất cả những cây xung quanh khu vực đó sẽ trở nên lo lắng, xúc động. Ngoài ra, nếu ai đó đã từng cắt một cái cây bước vào vườn, tất cả cây cối trở nên lo lắng bởi vì người này không tốt và chúng mang theo kí ức. Mỗi khi người này đi vào vườn, toàn thể khu vườn cảm thấy rằng một con người nguy hiểm sắp đến. Giờ đây một vài nhà khoa học nghĩ rằng thực vật có thể được sử dụng để liên lạc bằng thần giao cách cảm, bởi vì chúng nhạy cảm hơn trí óc con người.

Ở phương Đông, chúng ta luôn luôn biết rằng bông hoa là thứ dễ thụ cảm nhất. Khi Đức Phật nhìn vào bông hoa và không ngừng nhìn vào nó, ông đã chuyển giao một điều gì đó của mình sang bông hoa. Đức Phật bước vào bông hoa. Phẩm chất bản thể của ông – sự tỉnh giác, sự nhận biết, bình an, cực lạc, điệu vũ bên trong – chạm vào bông hoa. Với cái nhìn của Đức Phật vào bông hoa – vô cùng thoải mái, như ở nhà, không chút dục vọng – bông hoa hẳn phải nhảy múa trong bản thể bên trong của nó. Đức Phật nhìn để chuyển giao điều gì đó cho bông hoa. Chỉ bông hoa và ông hiện hữu – suốt một hồi lâu, cả thế giới mất đi. Chỉ Đức Phật và bông hoa ở đó. Bông hoa bước vào bản thể của Đức Phật, và Đức Phật bước vào bản thể của bông hoa.

43

Rồi bông hoa được trao cho Ma Ha Ca Diếp. Giờ đây nó không chỉ là một bông hoa. Nó mang theo Phật tính, nó mang theo phẩm chất bên trong của bản thể Đức Phật. Và tại sao lại cho Ma Ha Ca Diếp? Có những học giả lớn khác. Lịch sử ghi nhận mười đại đệ tử của Đức Phật. Ma Ha Ca Diếp chỉ là một, và ông ấy được nằm trong mười người kia chỉ bởi vì câu chuyện này; nếu không, ông sẽ không bao giờ được tính.

Chúng ta không biết nhiều điều về Ma Ha Ca Diếp. Những học giả lớn như Xá Lợi Phất có mặt ở đó – bạn không thể tìm đâu ra một trí tuệ sáng chói hơn. Mục Kiền Liên cũng ở đó; một học giả lớn, ông ấy thuộc làu tất cả bộ Veda, và không có gì từng được viết ra mà ông không biết. Bản thân ông là một nhà luận lí học, có hàng ngàn đệ tử. Và còn những người khác. A Nan Đà ở đó, người anh em họ không ngừng đi cùng với Đức Phật suốt 40 năm. Nhưng không, một người chưa từng được biết đến trước đây – Ma Ha Ca Diếp – đột nhiên trở nên rất quan trọng. Toàn thể cấu trúc thay đổi. Mỗi khi Đức Phật thuyết pháp, Xá Lợi Phất là người quan trọng bởi vì ông ấy hiểu được lời hơn bất cứ ai khác, và khi Đức Phật biện luận, Mục Kiền Liên là người quan trọng. Không ai nghĩ nhiều về Ma Ha Ca Diếp. Ông ấy ở trong đám đông, là một phần của đám đông.

Nhưng khi Đức Phật trở nên im lặng, toàn thể cấu trúc thay đổi. Giờ đây Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất không còn quan trọng. Họ rơi ra khỏi hiện hữu như thể họ không có ở đó. Họ trở thành một phần của đám đông. Một người mới, Ma Ha Ca Diếp, trở nên quan trọng nhất. Một chiều hướng mới mở ra. Mọi người đều bồn chồn, nghĩ: “Tại sao Đức Phật không nói gì? Tại sao ngài lại giữ im lặng? Chuyện gì đang xảy ra vậy? Bao giờ nó sẽ kết thúc?” Họ trở nên không thoải mái, bồn chồn.

Nhưng Ma Ha Ca Diếp không thấy bất tiện hay bồn chồn. Thay vào đó, lần đầu tiên, ông thấy thoải mái với Đức Phật, lần đầu tiên ông thấy như đang ở nhà với Đức Phật. Khi Đức Phật thuyết giảng, ông ấy có thể cảm thấy bồn chồn. Ông ấy có lẽ đã nghĩ: “Sao vô nghĩa thế này? Sao cứ nói mãi? Chẳng có gì được truyền tải, chẳng có gì được thấu hiểu; sao cứ tiếp tục đập đầu vào tường? Người ta bị điếc. Họ không thể hiểu được...” Ông ấy hẳn đã bồn chồn khi Đức Phật nói, và giờ đây lần đầu tiên ông ấy thấy như đang ở nhà. Ông ấy có thể hiểu được im lặng là gì.

Hàng ngàn người ở đó và ai cũng bồn chồn. Ông ấy không thể kiềm chế được bản thân khi nhìn vào sự ngu xuẩn của đám đông. Họ thoải mái khi Đức Phật nói, giờ đây họ bồn chồn khi Đức Phật im lặng. Khi điều gì đó có thể chuyển trao thì họ lại không mở, khi chẳng có gì có thể được chuyển trao thì họ lại đợi chờ. Thông qua im lặng, Đức Phật có thể trao một điều bất diệt, nhưng họ không hiểu được. Cho nên ông ấy không thể kìm nén được bản thân mà cười phá lên – ông cười vào tình huống ấy, cười vào sự ngớ ngẩn ấy.

Ma Ha Ca Diếp cười vào sự xuẩn ngốc của mọi người. Họ đang bồn chồn và nghĩ: “Khi nào thì Đức Phật mới đứng dậy và bỏ sự im lặng này đi để chúng ta có thể về nhà?” Ông ấy cười. Tiếng cười bắt đầu với Ma Ha Ca Diếp và tiếp diễn mãi trong truyền thống Thiền. Không có truyền thống nào khác có thể cười. Tiếng cười có vẻ rất phi tôn giáo, rất trần tục. Thậm chí khó có thể tưởng tượng ra Moses1 cười nồng nhiệt, hoặc Jesus cười ầm ĩ. Không, tiếng cười đã bị chối bỏ. Sự buồn bã, bằng cách nào đó, đã trở thành tôn giáo.

1 Người sáng lập ra Do Thái giáo.

Một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng người Đức, bá tước Keyserling, đã viết rằng sức khỏe là phi tôn giáo. Bệnh tật có tính tôn giáo nào đó bởi vì người bị bệnh thì buồn rầu, không có dục vọng – không phải vì anh ta không còn dục vọng mà vì anh ta yếu ớt. Người khỏe mạnh sẽ cười, tận hưởng và vui vẻ – người đó không thể buồn rầu. Cho nên những người theo tôn giáo luôn tìm cách làm cho bạn ốm yếu: nhịn ăn, đè nén bản thân, tra tấn chính mình. Bạn sẽ trở nên buồn thảm, bạn sẽ tự vẫn, tự đóng đinh câu rút. Làm sao bạn cười được? Tiếng cười xuất phát từ sức khỏe. Nó là một năng lượng chan chứa. Đó là lí do tại sao trẻ em có thể cười và tiếng cười của chúng vô cùng trọn vẹn. Toàn bộ thân thể tham gia vào đó – khi chúng cười, bạn có thể thấy ngón chân chúng cười. Toàn bộ thân thể – mọi tế bào, mọi thớ thịt – đều đang cười và rung động. Chúng tràn đầy sức khỏe, tràn đầy sức sống; mọi thứ đang tuôn chảy.

Một đứa trẻ buồn bã là một đứa trẻ bệnh tật còn một người già đang cười thì vẫn trẻ trung. Ngay cả cái chết cũng không thể làm ông ấy già cỗi, không gì có thể làm ông ấy già cỗi. Năng lượng của ông ấy tuôn chảy và chan chứa, ông ấy luôn luôn tràn ngập. Tiếng cười là sự tràn ngập năng lượng.

Trong các Thiền viện, họ cứ cười và cười không ngừng. Chỉ trong Thiền tiếng cười mới trở thành sự cầu nguyện, bời vì Ma Ha Ca Diếp đã khởi xướng nó. 25 thế kỉ trước, vào một buổi sáng giống như thế này, Ma Ha Ca Diếp đã bắt đầu một xu hướng mới, hoàn toàn mới, hoàn toàn xa lạ đối với tâm trí tôn giáo trước đó – ông ấy cười. Ông cười vào sự xuẩn ngốc, sự ngớ ngẩn. Và Đức Phật không chê trách ông; ngược lại, Đức Phật gọi ông lại gần, trao cho ông bông hoa và nói với đám đông.

Và khi đám đông nghe tiếng cười, họ hẳn đã nghĩ: “Người này điên rồi. Người này bất kính với Đức Phật. Sao ông ấy có thể cười trước một vị Phật? Khi một vị Phật đang ngồi im lặng, sao ông ấy có thể cười? Người này không thể hiện sự tôn trọng.”

Tâm trí sẽ nói rằng đây là bất kính. Tâm trí có luật lệ của nó, nhưng trái tim không biết những luật lệ đó; trái tim cũng có luật lệ riêng mà tâm trí chưa bao giờ nghe. Trái tim có thể cười mà vẫn tôn trọng. Tâm trí không thể cười, nó chỉ có thể buồn rầu rồi tôn trọng. Nhưng kiểu tôn trọng gì mà lại không thể cười? Một xu hướng mới đã bước vào cùng tiếng cười của Ma Ha Ca Diếp, và trải qua nhiều thế kỉ, tiếng cười vẫn tiếp tục.

Chỉ các Thiền sư và môn đệ Thiền mới cười. Khắp nơi trên thế giới, các tôn giáo đã trở nên bệnh tật bởi vì sầu não đã trở nên nổi bật. Đền thờ và nhà thờ trông như bãi tha ma, chúng trông không giống như một lễ hội, chúng không tạo ra cảm giác hân hoan. Nếu bạn bước vào nhà thờ, bạn thấy gì ở đó? Không phải sự sống mà là cái chết – hình ảnh Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá làm trọn vẹn nỗi buồn ở đó. Bạn có thể cười, có thể nhảy múa, có thể ca hát trong nhà thờ không? Vâng, có ca hát, nhưng nó buồn bã và mặt mọi người thuỗn dài. Không lấy làm lạ khi chẳng ai muốn đến nhà thờ – nó chỉ là nghĩa vụ xã hội phải hoàn thành. Không lấy làm lạ khi chẳng ai bị nhà thờ thu hút – nó chỉ là hình thức. Tôn giáo đã trở thành một việc làm trong ngày Chủ Nhật. Trong một giờ, bạn phải chịu đựng việc buồn rầu.

Ma Ha Ca Diếp cười trước mặt Đức Phật và kể từ đó, các Thiền tăng cùng Thiền sư đã làm những điều mà những tâm trí được coi là có tôn giáo thậm chí không thể tưởng tượng nổi. Nếu bạn từng xem quyển sách Thiền nào đó, có lẽ bạn đã thấy hình ảnh các Thiền sư được khắc họa và vẽ lại. Không hình ảnh nào là thực. Nếu bạn nhìn vào chân dung Bồ Đề Đạt Ma hay chân dung Ma Ha Ca Diếp, bạn sẽ thấy chúng không đúng là khuôn mặt họ, nhưng nhìn vào chúng bạn sẽ có cảm giác buồn cười. Họ vui nhộn và nực cười.

Hãy nhìn vào những bức tranh Bồ Đề Đạt Ma. Ông ấy hẳn là một trong những người đẹp đẽ nhất; không thể khác được, bởi vì mỗi khi một người chứng ngộ, một vẻ đẹp sẽ giáng xuống, một vẻ đẹp tới từ cõi cao xa. Phúc lành đến với toàn bộ bản thể người đó. Nhưng hãy nhìn vào những bức tranh Bồ Đề Đạt Ma. Trông ông thật dữ tợn và nguy hiểm. Trông ông nguy hiểm đến nỗi bạn sẽ hoảng sợ nếu ông ghé thăm bạn vào ban đêm – cả đời bạn sẽ không thể ngủ được nữa! Ông trông quá nguy hiểm, như thể ông sắp sửa giết bạn. Nó chỉ là trò đùa của các môn đệ dành cho bậc thầy, họ tạo ra một chân dung nực cười trông giống như một nhân vật hoạt hình.

Tất cả các Thiền sư đều được khắc họa theo cách nực cười. Các môn đệ thích như vậy. Nhưng những bức chân dung đó mang theo thông điệp Bồ Đề Đạt Ma rất nguy hiểm; nếu bạn đi tới gặp ông ấy, ông ấy sẽ giết bạn; bạn không thể thoát khỏi ông; ông sẽ theo bạn và ám ảnh bạn. Cho dù bạn đi đâu, ông cũng sẽ ở đó; ông sẽ không buông tha bạn trừ phi ông giết được bạn. Đó là thông điệp được khắc họa cùng tất cả các Thiền sư, thậm chí cả Đức Phật.

Nếu bạn nhìn vào những bức họa Đức Phật của Nhật Bản hay Trung Quốc, bạn sẽ thấy chúng không giống Đức Phật của Ấn Độ. Họ đã thay đổi ông ấy hoàn toàn. Nếu bạn nhìn vào những bức họa Đức Phật của Ấn Độ, bạn sẽ thấy thân thể ông rất cân đối như nó phải thế. Ông là một hoàng tử, rồi là một vị Phật – một người đẹp đẽ, hoàn hảo, cân đối. Một Đức Phật bụng bự ư? Ông không bao giờ có cái bụng to. Nhưng ở Nhật Bản, trong những bức họa và bản kinh của mình, ông có cái bụng to bởi vì cười nhiều thì bụng phải to. Cười rung cả bụng – làm thế nào bạn có thể làm được điều này với một cái bụng nhỏ? Bạn không thể làm được. Họ đang đùa cợt với Đức Phật và họ đã nói những lời như vậy về Đức Phật. Chỉ có tình yêu rất sâu sắc mới có thể làm vậy, nếu không thì nó sẽ giống như sự xúc phạm.

Im lặng và tiếng cười là những chiếc chìa khóa – im lặng bên trong, tiếng cười bên ngoài.

Thiền sư Bàn Khuê1 luôn yêu cầu treo một bức họa Đức Phật đằng sau ông, và khi thuyết giảng cho các đệ tử, ông sẽ nói: “Hãy nhìn thằng cha này đi. Mỗi khi các vị gặp hắn, hãy giết hắn ngay lập tức; đừng cho hắn cơ hội nào. Khi thiền định, hắn sẽ đến quấy rối các vị. Mỗi khi các vị thấy gương mặt của hắn trong lúc thiền định, hãy giết hắn ngay và luôn; nếu không, hắn sẽ theo các vị.” Và ông từng nói: “Hãy nhìn thằng cha này đi! Nếu các vị lặp lại tên hắn” – bởi vì Phật tử không ngừng lặp đi lặp lại,Namo Buddhaya, namo Buddhaya2 – “nếu các vị lặp lại tên hắn thì hãy đi súc miệng.” Phát biểu này giống như một sự xúc phạm. Tên của Đức Phật mà Bàn Khuê lại nói: “Nếu các vị lặp lại, điều đầu tiên phải làm là súc miệng. Miệng các vị đã bẩn rồi.”

1 Một thiền sư danh tiếng người Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế.

2 Nam Mô Phật Đà Gia, có nghĩa là thành tâm đảnh lễ Ðức Phật, xin đảnh lễ Ðức Phật.

Nhưng ông ấy đúng – bởi vì ngôn từ là ngôn từ, cho dù là tên Đức Phật hay không thì cũng chẳng khác gì. Mỗi khi một từ đi qua tâm trí bạn, tâm trí bạn bị vấy bẩn. Hãy súc nó đi ngay, kể cả là tên của Đức Phật.

Và người này, người luôn giữ bức chân dung Đức Phật phía sau, sẽ cúi lạy trước nó mỗi buổi sáng. Cho nên các đệ tử hỏi: “Thầy đang làm gì vậy? Thầy liên tục nói với chúng tôi là giết người này đi, đừng để ông ấy cản đường. Thầy nói: ‘Đừng dùng tên hắn; đừng nhắc lại nó; nếu nó đến với các vị, hãy rửa sạch miệng.’ Vậy mà bây giờ chúng tôi lại thấy thầy cúi lạy trước ông ấy!”

Bàn Khuê nói: “Tất cả những điều này là thằng cha này dạy cho ta, cho nên ta phải bày tỏ sự kính trọng với hắn.”

Ma Ha Ca Diếp cười – và tiếng cười của ông ấy đem theo nhiều chiều hướng bên trong nó. Ở chiều đầu tiên, tiếng cười nhằm vào sự ngu xuẩn của toàn bộ tình huống, vào sự im lặng của Đức Phật và vào việc không ai thấu hiểu ông, mọi người đều mong đợi ông nói. Cả đời mình Đức Phật đã nói rằng chân lí không thể được nói ra, song mọi người vẫn trông đợi ông nói ra. Ở chiều thứ hai, ông ấy cũng cười vào cả Đức Phật nữa, vào toàn bộ tấn kịch mà ông đã tạo ra, ngồi đó với bông hoa trên tay, nhìn vào bông hoa, khiến mọi người vô cùng khó chịu và bồn chồn. Về cử chỉ đầy tính kịch này của Đức Phật, ông cứ cười và cười mãi.

Còn chiều thứ ba, ông cười chính bản thân mình. Tại sao trước đây ông lại không thể hiểu? Mọi chuyện thật dễ dàng và đơn giản. Và ngày mà bạn hiểu, bạn cũng sẽ cười, bởi vì chẳng có gì để mà hiểu. Chẳng có khó khăn nào để mà giải quyết. Mọi thứ đã luôn đơn giản và rõ ràng. Sao bạn có thể bỏ lỡ nó chứ?

Với việc Đức Phật ngồi im lặng, chim hót trên cây, gió nhẹ thoảng qua và mọi người bồn chồn, Ma Ha Ca Diếp đã hiểu. Ông đã hiểu ra điều gì? Ông hiểu ra rằng chẳng có gì để mà hiểu, chẳng có gì để mà nói, chẳng có gì để mà giải thích. Toàn bộ tình huống thật đơn giản và minh bạch.

Không có gì ẩn giấu bên trong nó. Không cần phải tìm kiếm, bởi vì tất cả ở đây và bây giờ, bên trong bạn. Ông cười vào cả cái tôi của mình, vào toàn bộ những nỗ lực ngớ ngẩn của nhiều kiếp sống chỉ để thấu hiểu sự im lặng này – ông cười vào việc suy nghĩ quá nhiều.

Đức Phật gọi ông, trao cho ông bông hoa và nói: “Đây, ta trao cho ông chìa khóa.” Chìa khóa là gì? Im lặng và tiếng cười là những chiếc chìa khóa – im lặng bên trong, tiếng cười bên ngoài. Và khi tiếng cười bước ra từ im lặng, nó không phải của thế giới này; nó là siêu phàm.

Khi tiếng cười bước ra từ suy nghĩ, nó xấu xí; nó thuộc về thế giới tầm thường, trần tục này; nó không thuộc về vũ trụ. Khi đó, bạn đang cười vào người khác, cười trên sự đau khổ của người khác, nó xấu xí và bạo lực.

Khi tiếng cười bước ra từ im lặng, bạn không cười trên sự đau khổ của người khác, bạn cười vào toàn thể trò đùa của vũ trụ. Và nó thực sự là một trò đùa! Đó là lí do tại sao tôi liên tục kể những chuyện cười... bởi vì những chuyện ấy mang theo nhiều điều hơn bất cứ kinh sách nào. Nó là chuyện đùa bởi vì bên trong bạn, bạn có mọi thứ – nhưng bạn lại tìm kiếm khắp nơi! Còn gì có thể hài hước hơn được nữa chứ? Bạn là vua mà lại diễn như kẻ ăn mày ngoài phố – không chỉ diễn, không chỉ đánh lừa người khác, mà còn đánh lừa bản thân mình rằng bạn là kẻ ăn mày. Bạn có nguồn cội của mọi tri thức nhưng bạn lại đang đặt những câu hỏi; bạn có cái tôi hiểu biết nhưng lại nghĩ rằng mình ngu ngốc; bạn có sự bất tử bên trong mình nhưng lại sợ hãi cái chết và bệnh tật. Đây thực sự là một chuyện đùa, và nếu Ma Ha Ca Diếp cười, ông ấy đã làm tốt.

Nhưng ngoại trừ Đức Phật, không ai hiểu cả. Ông chấp nhận tiếng cười và ngay lập tức nhận ra rằng Ma Ha Ca Diếp đã đạt tới. Tiếng cười đó thuộc về vũ trụ, ông ấy thấu hiểu toàn bộ sự hài hước của tình huống. Nó chẳng còn gì khác. Tất thảy giống như thần thánh đang chơi trốn tìm với bạn. Những người khác nghĩ Ma Ha Ca Diếp là một anh hề cười trước mặt Đức Phật. Nhưng Đức Phật nghĩ rằng người này đã trở nên thông thái. Những anh hề luôn luôn có một trí tuệ tinh tế bên trong, và những người thông thái luôn luôn hành động giống như những anh hề.

Thời xa xưa, tất cả những hoàng đế vĩ đại luôn luôn có một anh hề trong triều đình. Họ có nhiều nhà thông thái, cố vấn, thượng thư và tể tướng, nhưng luôn luôn có một anh hề. Mặc dù nhiều người trong số họ thông minh và uyên bác nhưng các hoàng đế trên khắp thế giới ở cả phương Đông lẫn phương Tây đều có một người pha trò trong triều, một anh hề. Tại sao? Bởi vì có những thứ mà những người được gọi là thông thái không thể hiểu được, chỉ có những người xuẩn ngốc mới có thể hiểu, bởi vì những người thông thái có thể ngu xuẩn đến mức sự láu cá và lanh lợi của họ đã đóng trí tuệ của họ lại.

Anh hề là người đơn giản và cần thiết bởi nhiều lần những người được gọi là thông thái sẽ không nói điều gì đó vì họ sợ hoàng đế. Anh hề thì chẳng sợ ai cả. Anh ta sẽ nói bất chấp hậu quả là gì. Anh hề là người không nghĩ đến hậu quả. Người khôn ngoan luôn luôn nghĩ đến kết quả trước tiên, rồi mới hành động. Suy nghĩ tới trước, sau đó là hành động. Người xuẩn ngốc hành động, suy nghĩ không bao giờ tới trước. Mỗi khi ai đó nhận ra cái tối thượng, anh ta không giống như một người thông thái. Anh ta không thể. Anh ta có thể giống một anh hề nhưng không thể giống một người thông thái. Khi Ma Ha Ca Diếp cười, ông giống như một anh hề, và Đức Phật thấu hiểu ông. Về sau, các tu sĩ Phật giáo không hiểu ông cho nên họ bỏ đi giai thoại này.

Giai thoại này bị loại bỏ khỏi kinh Phật bởi vì thật báng bổ khi cười trước mặt Đức Phật. Không nên lấy nó làm nguồn gốc cho một truyền thống vĩ đại như Thiền. Một người cười trước Đức Phật thì không phải tiền lệ tốt, và Đức Phật trao chìa khóa cho người này mà không phải Xá Lợi Phất, A Nan Đà, Mục Kiền Liên hay những người quan trọng khác cũng không phải điều hay. Và suy cho cùng, Xá Lợi Phất, A Nan Đà và Mục Kiền Liên mới là những người ghi lại kinh sách.

Chưa từng có ai hỏi Ma Ha Ca Diếp. Ngay cả khi người ta có hỏi thì ông cũng sẽ không trả lời. Chưa từng có ai hỏi Ma Ha Ca Diếp rằng liệu ông có gì cần nói để họ ghi lại không.

Khi Đức Phật tịch diệt, toàn bộ chư tăng tụ họp và bắt đầu ghi lại cái gì đã xảy ra và cái gì không. Không ai hỏi Ma Ha Ca Diếp. Người đàn ông này hẳn đã bị tăng đoàn loại bỏ. Cả tăng đoàn hẳn đã cảm thấy ghen tị. Chìa khóa đã được trao cho con người chẳng biết gì này, người vốn chẳng phải chuyên gia hay học giả uyên thâm. Trước kia không ai biết ông ta, nhưng đột nhiên sáng hôm ấy, ông trở thành người quan trọng nhất nhờ tiếng cười, nhờ sự im lặng.

Và theo cách nào đó thì họ đúng, bởi vì làm sao bạn có thể ghi lại sự im lặng? Bạn có thể ghi lại lời, bạn có thể ghi lại cái xảy ra hữu hình, nhưng làm thế nào bạn có thể ghi lại cái không xảy ra hữu hình? Họ chỉ biết bông hoa được trao cho Ma Ha Ca Diếp, không gì khác.

Nhưng bông hoa chỉ là vật chứa. Có thứ gì đó bên trong nó – Phật tính, cái chạm của bản thể bên trong Đức Phật, hương thơm không thể nhìn thấy, không thể ghi lại. Mọi chuyện như thể chưa bao giờ xảy ra hoặc như thể đã xảy ra trong một giấc mơ.

Những người ghi lại kinh sách là những người của ngôn từ, thành thạo việc truyền đạt bằng lời, nói chuyện, thảo luận, biện luận. Nhưng không ai nghe được thêm gì về Ma Ha Ca Diếp nữa. Đây là điều duy nhất được biết về ông, một điều nhỏ bé đến nỗi kinh sách hẳn đã bỏ lỡ. Ma Ha Ca Diếp vẫn giữ im lặng, và dòng sông bên trong lặng lẽ tuôn chảy. Đối với những người khác, chìa khóa đã được trao, và chìa khóa vẫn sống, vẫn mở cánh cửa.

Đây là hai phần: im lặng bên trong – im lặng sâu sắc đến nỗi không có rung động trong bản thể của bạn; bạn hiện hữu, nhưng không có gợn sóng; bạn như mặt hồ phẳng lặng, không một gợn sóng; toàn bộ bản thể im lặng, tĩnh tại; bên trong, ở trung tâm, im lặng – còn ở bên ngoài, lễ hội và tiếng cười. Chỉ im lặng mới có thể cười, bởi vì chỉ im lặng mới có thể thấu hiểu chuyện đùa của vũ trụ.

Do đó, cuộc sống của bạn trở thành một sự hoan ca, mối quan hệ của bạn trở thành một thứ lễ hội. Bất kể bạn làm gì, mỗi khoảnh khắc đều là một lễ hội. Bạn ăn, và việc ăn trở thành lễ hội; bạn tắm, và việc tắm trở thành lễ hội; bạn nói, và việc nói trở thành lễ hội. Mối quan hệ trở thành lễ hội. Cuộc sống bên ngoài của bạn trở thành lễ hội, không có nỗi buồn trong nó. Làm sao nỗi buồn có thể tồn tại cùng im lặng? Nhưng bình thường bạn nghĩ khác: Bạn nghĩ nếu bạn im lặng, bạn sẽ buồn.

Bình thường bạn nghĩ, làm sao bạn tránh được nỗi buồn nếu bạn im lặng? Tôi xin nói với bạn rằng im lặng mà tồn tại cùng nỗi buồn thì không thể là thật. Có gì đó đã sai. Bạn đã bỏ lỡ con đường, bạn đã trật đường ray. Chỉ hân hoan mới có thể chứng minh rằng im lặng thật sự đã xảy ra.

Đức Phật hẳn đã biết Ma Ha Ca Diếp. Ông hẳn đã biết khi ông lặng lẽ nhìn vào bông hoa và mọi người bồn chồn, ông hẳn đã biết rằng chỉ một người ở đó, Ma Ha Ca Diếp, không bồn chồn.

Đức Phật hẳn đã cảm thấy sự im lặng đến từ Ma Ha Ca Diếp, nhưng ông không gọi ông ấy ngay. Khi ông ấy cười thì Đức Phật gọi ông và trao cho ông bông hoa. Tại sao? Im lặng chỉ là một nửa.

Ma Ha Ca Diếp sẽ bỏ lỡ nếu im lặng một cách ngây thơ mà không cười. Thế thì chìa khóa sẽ không được trao cho ông. Ông mới chỉ trưởng thành một nửa, chưa trưởng thành hoàn toàn, chưa nở hoa. Cái cây ở đó, nhưng hoa vẫn chưa đến. Đức Phật chờ đợi.

Bây giờ, tôi sẽ nói cho bạn nghe tại sao Đức Phật lại chờ lâu đến vậy, tại sao ông lại chờ đợi trong một hoặc hai hoặc ba giờ.

Ma Ha Ca Diếp im lặng nhưng đang cố kìm nén tiếng cười, ông đang cố kiểm soát tiếng cười. Ông cố gắng không cười bởi vì như thế thật thiếu lễ độ: Đức Phật sẽ nghĩ gì? Những người khác sẽ nghĩ gì? Nhưng rồi, chuyện kể rằng, ông không thể kiềm chế thêm nữa. Tiếng cười đã bật ra. Dòng lũ trở nên quá lớn và ông không thể kìm nén thêm nữa.

Khi im lặng quá nhiều, nó trở thành tiếng cười; nó ngập tràn đến mức bắt đầu lan khắp mọi hướng. Ông cười. Nó hẳn phải là một tiếng cười điên dại, và trong tiếng cười đó không có Ma Ha Ca Diếp. Im lặng đang cười, im lặng đã nở hoa.

Ngay lập tức Đức Phật gọi Ma Ha Ca Diếp: “Nhận lấy bông hoa này – đây là chìa khóa. Ta đã trao cho tất cả những người khác thứ có thể được trao bằng lời, nhưng với ông, ta trao thứ không thể trao bằng lời. Thông điệp vượt khỏi ngôn từ, cái cốt yếu nhất, ta trao cho ông.”

Đức Phật đợi chừng ấy giờ để sự im lặng của Ma Ha Ca Diếp có thể tràn ra và trở thành tiếng cười.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 24
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 24
  • Sau