Suối Tiên từ mạch ngầm dãy núi Tây Côn Lĩnh chảy ra, chia làm hai ngả: Một đường mương máng chảy về đồn binh Cổng Trời, một dòng suối chảy xuyên rừng già Khuổi Nghè đổ vào sông Cả. Hàng trăm hộ dân người Dao Áo Dài làm nhà bám theo bờ suối, quần tụ thành làng đặt tên gọi theo cánh rừng: làng Khuổi Nghè. Người dân đến đây lập làng từ bao giờ? Ai đã đặt tên làng? Đã lâu không ai còn nhắc tới. Làng tồn tại tự nhiên, dân cư trú đàng hoàng theo quy ước chặt chẽ. Bàn Văn Củi được dân làng bầu giữ chức Giằng Châu (Trưởng làng) từ lâu lắm rồi. Năm nào dân làng cũng bầu cho ông, không ai thay được. Dân làng bảo: “Bàn Văn Củi đã được ma miếu họ Bàn chấp nhận, họ đã bẻ gãy nén hương đang cúng, lửa đã cháy qua vết gãy nén hương rồi. Bàn Văn Củi được dân làng cho là công tâm, biết cúng bái, am hiểu phong tục tập quán người Dao, nắm vững quan hệ họ hàng. Làng được ông chủ trì các nghi lễ, quản lý tài nguyên, quản lý con người, phân chia nguồn nước, chọn người nhập cư thì yên tâm lắm. Hàng năm có đóng góp cho ông vài hào bạc trắng cũng xứng đáng.
Quân đội viễn chinh từ nước con gà ùn ùn kéo đến đóng đồn ở Cổng Trời. Chúng bảo đến đây để khai hóa văn minh. Quan Ba chỉ huy đồn binh cho thực hiện chính sách chia để trị và mị dân để vơ vét thuế, bắt lính, bắt phu, cướp đất lập đồn điền. Quan Ba chọn Triệu Quầy Phượng, kẻ có tiếng giả dối để giao cho chức Quản Chiểu cai quản dân bản địa với chân tay là các động trưởng và thầy cúng. Nhà ông Bàn Văn Củi và nhà anh Bàn Văn Tòng muốn khai phá đất đai để trồng trọt, Quản Chiểu bắt phải xin phép và nộp thuế. Đàn ông nộp thuế đinh thêm ba đồng, thuế nương rẫy một đồng sáu, thuế rượu năm hào. Thuế nền nhà tính theo số lượng hàng cột, nhà ông Củi năm hàng cột đóng ba đồng, nhà Bàn Văn Tòng ba hàng cột đóng một đồng rưỡi, nhà dựng cột ngoãm phải đóng năm hào. Chưa tính vào đó mấy thứ thuế phải nộp thêm: Thuế lấy gỗ làm nhà, thuế cầu gãy chưa kịp sửa, thuế đường rậm chưa kịp phát. Bàn Văn Tòng không làm gì ra đồng tiền, loay hoay tìm cách nhập vào đội quân tá điền làm thuê cho ông chủ Gạc Đì. Bàn Văn Tòng nghe nói ở đó mỗi người được cấp một thẻ thuế thân với mức hai đồng bảy hào hai và hàng ngày được trả lương từ hai hào đến hai hào rưỡi. Bàn Văn Tòng vào đồn điền thì ông chủ thông báo không trả lương cho tá điền như cũ mà sẽ thực hiện tá canh. Tá canh là gì thì Tòng không biết, anh chỉ biết không có khoản tiền công hai hào mỗi ngày là hết kế mưu sinh. Không lâu sau đó quan Ba cho bắt phu, thu thuế và giết chết vợ con ông Củi. Ông Củi vì uất ức đã theo người anh em Triệu Tiến Kiên lập nghĩa quân chống lại đội quân viễn chinh. Nghĩa quân người Dao của thủ lĩnh Triệu Tiến Kiên được nhân dân trong vùng ủng hộ, đánh đâu thắng đấy. Bọn lính viễn chinh ở Tây Côn Lĩnh khiếp sợ, tìm kẻ phản bội tung tiền mua chuộc Triệu Quầy Phượng để hãm hại thủ lĩnh của nghĩa quân. Quân viễn chinh củng cố đồn binh Cổng Trời thành trung tâm chỉ huy quân đội và mạng lưới mật vụ ở vùng biên ải. Người Kinh, người Tày, người Mông, người Dao các châu, xã, làng, bản cực khổ hơn. Quân thực dân ở đồn binh Cổng Trời tràn vào cướp phá làng Khuổi Nghè, bắt vợ Bàn Văn Tòng rồi thay nhau hãm hiếp cho đến khi người đàn bà tắt thở. Nhà Tòng cùng họ nhưng khác ngành với ông Củi. Ông Củi thuộc ngành họ Bàn trắng, nhà Tòng thuộc ngành họ Bàn xanh, không quan hệ huyết thống nhưng cùng cảnh ngộ. Ông Củi thương và thông cảm không cầm được nước mắt. Ông Củi thay mặt dân làng cãi lý với quan Ba chỉ huy quân viễn chinh ở đồn binh Cổng Trời. Ông Củi đòi quan Ba phải đền bù cho nhà Bàn Văn Tòng; phải hứa với dân làng không được để cho quân lính cướp phá bừa bãi. Quan Ba có tên gọi là Crê-măng cười, mũi nghe như tiếng hắt xì hơi, cất giọng lơ lớ:
- Quân đội viễn chinh đến đây không phải để ăn cướp mà là khai hóa văn minh, chỉ tiếc là chúng tôi không mang theo được giống cái...
- Đúng là lời lẽ sặc mùi của một tên thực dân đểu giả! - Ông Củi lẩm bẩm.
Con giun xéo lắm cũng oằn, ông Củi và anh Tòng dẫn một đoàn người từ làng Khuổi Nghè lên đồn binh Cổng Trời kiện quan.
*
Quan Ba chỉ huy đồn binh nhập đội quân dõng của Quản Chiểu, tuyển mộ thêm lính khố xanh và chọn Triệu Tà Khé - con trai độc nhất của Triệu Quầy Phượng, phong cho chức quan Quản làm chỉ huy. Từ đấy mọi người gọi Triệu Tà Khé là Quản Khé. Quản Khé béo, lùn, da chì, môi thâm, mắt trắng dã, chỉ huy hai trăm lính có sự tham gia của lính viễn chinh để hễ ở đâu dân bản xứ chống đối liền thực hiện “ba sạch: giết sạch, cướp sạch và đốt sạch” theo lệnh quan Ba. Quản Khé tận tụy với quan Ba, hành hạ dân lành, nhiều người đã gọi hắn là “con chó trung thành của nhà quan mũi lõ”. Dân làng bảo Quản Khé làm tay sai có tiếng trung thành là theo gương cha hắn. Cha hắn vốn họ Lý giở trò đổi thành họ Triệu để tỏ ra ta đây là người trung thành với lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Triệu Tiến Kiên. Triệu Quầy Phượng nổi tiếng là kẻ tráo trở, tàn bạo. Dân vùng Tây Côn Lĩnh lan truyền câu chuyện rằng: Hôm trước Triệu Tà Khé còn cắt máu uống rượu thề với thủ lĩnh nghĩa quân Triệu Tiến Kiên; hôm sau làm tay sai dẫn lính viễn chinh phục kích sát hại vị lãnh tụ cuộc khởi nghĩa. Người nhà hắn được độc quyền mua bán gỗ; khi mua thì dùng quyền uy với thợ sơn tràng để chỉ phải trả tiền đồng loạt một loại gỗ “bất cập phân”; khi bán cho lái buôn gỗ từ dưới xuôi lên thì đòi tiền sòng phẳng cả chục loại gỗ, mua đứt, bán đoạn, cho người đóng cốn bè lỏng lẻo, đẩy ra giữa thác, nước chảy xiết đánh bè gỗ vỡ tan. Cánh buôn gỗ từ dưới xuôi lên, lạ nước lạ cái, biết thủ đoạn của chủ gỗ nhưng vẫn phải nuốt quả bồ hòn làm ngọt. Hắn chiếm bãi cỏ cửa suối Khuổi Nghè, nơi dòng suối nước bốn mùa trong leo lẻo đổ vào dòng sông Cả đỏ nặng phù sa, cỏ non xanh mơn mởn thật hấp dẫn với những con trâu quanh năm nhai rơm khô. Hắn rào chặt rồi bỏ tiền thuê kẻ trộm trâu các làng thả vào đó. Trâu đã ở trong chuồng nhà ông quan Quản đầy quyền uy thì ai còn dám đến đòi? Hôm qua quan Quản xuống làng bắt phu xây đồn đã ra oai nổ súng dọa người cãi lại. Quan Ba đã đoán biết hôm nay dân làng sẽ kéo lên kiện. Crê-măng uốn cong ngón tay cái giơ ra trước mặt:
- Rất tốt, tôi đã không nhầm khi lựa chọn ông Quản Khé.
Quan Ba gõ nhẹ tay xuống bàn, ngước mắt xanh nhìn về phía ô cửa sổ nhỏ đầu người chui không lọt. Ô cửa chính là lỗ châu mai mà quan Ba đã chuẩn bị sẵn một khẩu súng máy thò nòng qua bức tường đá dày. Quan Ba một mình lẩm bẩm như đe dọa ai:
- Ông phải nhớ, tôi đem quân viễn chinh tới đây không phải là để chứng kiến dân bản xứ thể hiện quyền dân chủ.
Quan Ba cho người gọi Quản Chiểu:
- Ông Quản Chiểu hầu chuyện quan Ba không được chậm trễ.
Từ ngày quan quân Crê-măng đóng đồn binh ở Cổng Trời, Quản Chiểu được trọng dụng. Hắn dùng uy quyền và thần quyền chiếm đoạt đất đai, rừng núi và các nguồn của cải thiên nhiên, dùng những thứ chiếm được làm phương tiện để quản lý dân chúng, cống nạp quan đồn. Quản Chiểu tự cho mình những đặc quyền đặc lợi về khai thác và kiếm chác. Hắn cùng bọn thầy cúng làm mê hoặc tinh thần dân chúng để họ mù quáng mà hạ mình cho quan thỏa sức mà đè đầu cưỡi cổ. Đến mùa vụ sản xuất, Quản Chiểu bắt dân chúng phải làm không công. Nhiều người đã trở thành tôi tớ suốt đời không ra khỏi nhà Quản Chiểu, làm thuê, ở mướn, ăn đói, mặc rách như số phận gắn suốt cuộc đời họ. Quản Chiểu bước vào cửa, chưa kịp chào, quan Ba đã lên tiếng:
- Tôi không hỏi ông Quản Chiểu về chuyện dân chúng lộn xộn trong làng đâu. Tôi muốn thông báo cho ông một tin quan trọng: Ngài toàn quyền đã tổ chức xong hệ thống thuốc phiện thông với Miến Điện, Mã Lai, Hồng Kông. Công việc của chúng ta là bóc ra từ dân chúng mỗi năm đủ chục tấn, đủ cho quan toàn quyền cung cấp cho hệ thống. Ta phải coi đó là vinh dự mà vùng Tây Côn Lĩnh đã làm đẹp cho cả xứ Bắc Kỳ này.
- Thưa quan Ba! Đất nhà tôi có bốn mẫu rừng, một nghìn bó mạ ruộng nương, chỉ để ba trăm bó mạ trồng lúa ăn, diện tích còn lại vụ đông xuân tới cho trồng thuốc phiện.
- Ông nói diện tích ba trăm bó mạ là ông bỏ tiền ra mua, diện tích còn lại là dựa vào chức quan mà ông vơ được, ông phân chia số ấy thế nào?
- Dạ, có ruộng hầu khách, ruộng đón dâu, ruộng mắc màn, ruộng làm cối gạo, ruộng phướn đưa ma, ruộng làm cơm sáng, ruộng trải chiếu. Vì trong nhà nuôi mười sáu cặp vợ chồng đứa ở nên số thu được do phạt vạ, độc quyền muối, độc quyền diêm, độc quyền gỗ đắp vào. Riêng thuốc phiện quan Ba đã có lời thì tôi không dám chấm mút gì.
Quan Ba gật đầu:
- Được, cứ thế mà liệu.
Tên lính lắp bắp:
- Thưa quan Ba! Ông chủ đồn điền đã tới.
- Cho vào.
Gạc Đì là cái tên mà cánh tá điền vẫn thường gọi ông chủ của mình. Gạc Đì nguyên là lính pháo thủ, không to cao nhưng đôi mắt sắc như dao. Cánh tá điền ghé tai nhau thì thầm: “Nhất lé, nhì lùn” vận vào ông chủ thật là đúng. Quan Ba đã tinh ý chọn giao cái việc cướp đất lập đồn điền vào tay Gạc Đì. Bốn năm Gạc Đì đã trổ tài năng và khôn khéo lập liên tiếp bốn đồn điền, tự mình đứng làm chủ cả nghìn héc-ta đất chiếm được. Sau chuyến chạy chọt về phủ toàn quyền mới đây, Gạc Đì đã làm cho tất cả đều xáo trộn. Quan Ba lo ngại xảy ra bất ổn đã phải cho gọi Gạc Đì:
- Tại sao ông sa thải tá điền người nước láng giềng lại chiêu mộ thêm tá điền là người bản địa?
- Quan Ba biết đấy, không có người bản địa thì ta không thể trồng cấy. Người bản địa sinh ra ở đây là thích hợp nhất với việc này, ngoan ngoãn, quen thời tiết, chăm chỉ làm việc trong điều kiện của họ. Người nước láng giềng không dễ bảo, rất vô kỷ luật, chỉ chịu khó làm việc cho tới lúc mà số tiền dành dụm được có thể đi buôn bán và cho vay theo kiểu mua lúa non. Tuy vậy những người này có thể làm việc năm này qua năm khác ở bất kỳ đâu. Nếu nhân công này dùng vào việc phá hoang còn người bản địa dùng cho giai đoạn tiếp theo thì kết quả tuyệt vời.
- Ông lính pháo thủ rất giỏi quản trị đồn điền. Việc trả lương cho tá điền vì sao mà ông cũng đảo lộn?
- Trước đây tôi trả lương nhân công bằng tiền theo ngày quá tốn kém và không thực tiễn. Người bản địa vốn đã vô lo, sẽ bỏ đồn điền khi được trả lương hậu hĩnh mà không một chút lo lắng nào về sự lúng túng của điền chủ trước vụ thu hoạch sắp tới. Chính từ thực tế đó mà tôi đã nghĩ về chế độ tá canh mà các lãnh chúa thời Trung cổ ở nước mẹ đã áp dụng, nhân công được thuê để làm theo công việc và được hưởng thành quả từ chính công việc đó, chủ đồn điền thu được tối đa sản phẩm lao động, giảm đến mức tối đa việc chi tiêu chung và việc coi sóc của các chủ đồn điền. Tôi đã trình ngài toàn quyền về tá canh, được ngài đánh giá là kiểu mẫu có triển vọng nhất của công cuộc khai hóa và còn đặc biệt quan tâm khuyến khích.
Quan Ba há hốc miệng, giữ im lặng rất lâu. Trong lòng quan Ba thấy ghen tỵ với tay lính pháo thấp tè và cũng cảm giác thấy mình thấp xuống trước anh ta. Tay pháo thủ khoe khoang một hồi trước khi ra về:
- Quan Ba ít quan tâm nên không biết liên đoàn điền chủ Bắc Kỳ khi thấy Gạc Đì thực hiện tá canh đã phải thốt lên: Đó là phương thức kinh tế giúp các điền chủ tước đoạt dân cư, bóc lột không giới hạn và không quy chế, núp trong cái vỏ tá canh là sự bóc lột hết sức tồi tệ. Tôi nói điều này để quan Ba biết, tá điền phản ứng là đương nhiên, dẹp loạn không phải việc của điền chủ.
Tiễn Gạc Đì ra về, Crê-măng hậm hực, vậy là hắn đã ném trứng thối vào mặt mình.
Tên lính canh chạy đến cửa đứng khựng, miệng lắp bắp. Quan Ba chỉ huy đồn binh như hiểu được thứ ngôn ngữ kỳ lạ phát ra từ miệng tên lính:
- Dân chúng kéo đến khởi kiện hử? Cho họ vào sân đồn!
Tay quan Ba vuốt nhẹ trên hàng khuy áo quân phục mạ đồng, hất hàm ra hiệu cho cấp dưới đi cùng. Quan Ba hai tay đút túi quần, khệnh khạng bước tới đứng giạng hai chân trước mặt mấy người dân mặc quần áo chàm lấm láp bùn đất:
- Nghe quan đồn hỏi đây, các người muốn gì?
- Chúng tôi đại diện cho dân làng Khuổi Nghè.
Quan Ba ngửa mặt cười lớn:
- Ô hô... Các người nhầm! Bố ông quan Quản đây mới là người có quyền đại diện cho dân làng Khuổi Nghè. Ông ta không xúi giục các người đi kiện quan đấy chứ... ô hố...
- Quan Ba nở một nụ cười với cái miệng rộng méo xệch, đểu cáng.
Bàn Văn Tòng không kìm được tức giận:
- Chúng tôi tự biết việc mình phải làm. Dân làng yêu cầu quan đồn giảm thuế, hoãn phu, đền bù cho người dân bị quân lính viễn chinh làm hại.
- Có chuyện ấy à?
Quan Ba hất hàm ra hiệu cho Quản Khé rồi bước vội vào cửa sau lô cốt có lỗ châu mai với cái họng súng đen ngòm thò ra. Quản Khé cất giọng khàn khàn:
- Quan Ba đồng ý xử kiện, mỗi người nộp lệ phí một đồng bạc già.
- Không mang tiền theo, nộp sau được không?
- Phải nộp ngay, nếu để ngày mai thì một người ở lại làm tin.
Bàn Văn Tòng ở lại để mọi người về tìm tiền nộp quan, Quản Khé sai lính dẫn giải anh vào nhà giam phía sau đồn. Đêm ấy ngẫm nghĩ trong thâm tâm thấy sự chẳng lành, Bàn Văn Tòng khoét tường đất nhà giam, thoát về làng.
Ông Củi bảo Bàn Văn Tòng:
- Già này nghe người dân bên kia sông sang nói chuyện, có người gọi là cán bộ vận động dân đoàn kết đấu tranh chống bọn thực dân xâm lược.
Ông Củi và Bàn Văn Tòng tìm đường sang căn cứ đón cán bộ về làng xây dựng phong trào cách mạng. Ông Củi kể hết mọi chuyện với cán bộ Bàn Tiên:
- Cán bộ ơi, dân làng Khuổi Nghè chỉ muốn sống trung thực, thân thiện, đem điều tốt đẹp đến mọi người. Gặp phải lũ quân viễn chinh xảo trá, tàn bạo, không nói chuyện được với nhau rồi, khác biệt mà. Chúng nó là súc vật chứ có là người nữa đâu. Cán bộ về giúp dân đuổi chúng đi thôi.
Cán bộ Bàn Tiên là người của Xứ ủy Bắc Kỳ, đã được qua lớp huấn luyện. Anh nói với ông Củi và Bàn Văn Tòng:
- Làm cách mạng đánh đuổi quan quân thực dân đế quốc phải kiên trì vận động đoàn kết cả dân tộc.
Ông Củi nói luôn:
- Tôi đã là nghĩa binh của Triệu Tiến Kiên nên cũng có biết làm cách mạng là khó lắm, nhưng không thể làm nô lệ thuộc địa mãi được.
Cấp trên chấp thuận cử Bàn Tiên về Khuổi Nghè xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng xung quanh dãy núi Tây Côn Lĩnh.
Đường về Khuổi Nghè xuyên qua khe sâu, rừng rậm. Đêm trăng sáng, Bàn Tiên cùng ông Củi và anh Tòng ngủ trong lán lợp lá chuối giữa rừng. Bàn Tiên trải lòng tâm sự với hai người bạn cùng chí hướng:
- Đêm nào tôi cũng nhớ tới mẹ, cha - Anh kể về cha, mẹ. Cha anh là chàng trai họ Bàn chịu khó nhất làng, mùa nào cũng tra được nương lúa rộng từ khe suối lên đỉnh núi Cánh Tiên. Mẹ anh họ Lý, là con gái nhà nghèo lam lũ nhưng có tiếng là xinh đẹp nhất vùng. Hai người cùng giỏi hát đối đáp mà yêu nhau và về ở cùng nhau. Hai người không thể tổ chức cưới vì người con trai mồ côi cả cha lẫn mẹ. Họ hàng không ai lo cho được những nghi lễ theo tập quán. Hai người vì quá yêu nhau bỏ làng lên lều nương sinh sống và sinh con trai đặt tên là Bàn Tiên với ngụ ý con trai họ Bàn chôn nhau thai ở núi Cô Tiên. Bàn Tiên được cha kể lại ngày chào đời rằng, mẹ khó đẻ, cha phải bỏ ba hạt gạo vào bát nước lã và niệm thần chú rồi dùng ngón tay nhúng vào bát nước vuốt dọc bụng người mẹ. Cha chôn nhau thai ở gốc cây to lưng núi, dùng hòn đá lấp kín. Mấy ngày sau cha ra nương thấy thú rừng ăn mất nhau thai nên Bàn Tiên không khỏe mạnh, thân hình mảnh dẻ và hay ốm vặt.
Bàn Tiên năm nay đã hai mươi tuổi mà vẫn bị người làng cho là trẻ con vì chưa được thầy làm lễ cấp sắc, chưa được đạo cấp sắc, chưa có tên âm. Vậy là Bàn Tiên chưa biết lẽ phải trái ở đời, khi chết hồn không được đoàn tụ với tổ tiên! Sau khi cha mẹ chết, Bàn Tiên lang thang kiếm sống theo dọc sông Cả, tận mắt chứng kiến những gì mà đội quân viễn chinh thực dân gây ra cho đồng bào, thật ác độc. Sau này được cán bộ cách mạng chỉ bảo thì anh dần hiểu vì đâu mà chúng độc ác đến như vậy. Bàn Tiên lựa chọn con đường đi theo cách mạng đoàn kết dân tộc, đánh đuổi thực dân đế quốc. Bàn Tiên cũng có hình dung gian lao thử thách nhưng trong tâm hồn chàng trai trẻ sinh ra giữa núi rừng đang phơi phới, như cánh chim dang rộng giữa trời cao. Anh tự nhủ: “Mình trải qua những ngày cơm không đủ ăn thì sao phải lo chuyện no, đói cản đường; áo mặc đã lành đâu mà phải sợ rách rưới. Chuyện mình đấu tranh sẽ phải hy sinh thì nòng súng quân xâm lược đang ngày ngày chĩa vào mặt cớ sao phải sợ. Bàn Tiên này thề suốt đời trung thành với sự nghiệp cách mạng! Việc gì mọi người làm được không lý do gì Bàn Tiên không vượt qua, dù đó là gian khổ khó khăn”.
Bàn Tiên đến làng Khuổi Nghè là để tìm người cùng chí hướng cách mạng nhưng cũng sẽ không tốt cho công việc khi họ biết anh là một chàng trai người Dao chưa tròn bổn phận với những tập quán của dòng tộc. Bàn Tiên tâm sự chân thành với ông Củi, anh Tòng:
- Mong đồng bào, đồng chí thông cảm, hết thực dân đế quốc bản thân xin hết lòng phụng sự tổ tiên dòng tộc.
Ông Củi khen Bàn Tiên biết nghĩ:
- Dù thế nào thì ta vẫn phải là người Dao trung thực, hiền lành, tốt đẹp. Được như thế thì ta còn lo gì không tìm được người đồng chí, không đuổi được thực dân đế quốc.
Bàn Văn Tòng có cô con gái tên là Mùi Nái, mười sáu tuổi đã phổng phao xinh đẹp, đám trai làng bám theo như lũ ong quanh quẩn bên bông hoa rừng. Bàn Văn Tòng bảo:
- Lũ quan quân viễn chinh trên đồn Cổng Trời cứ lấm lét đánh hơi. Tôi cứ nơm nớp lo cái ngày chúng tìm được con gái mình thì không biết sự thể sẽ như thế nào. Đàn bà Khuổi Nghè khổ thế đấy, hễ xinh đẹp là khó thoát khỏi mắt cú vọ của quan quân viễn chinh để sống cho thành người tử tế.
Ông Củi thì lại không nghĩ như thế.
Đàn bà con gái có ba bảy loại. Người như Mùi Nái ông thấy lạ lắm. Đã nhiều lần ông ngồi một mình ngẫm nghĩ và tự hỏi: Có phải trời thương dân làng Khuổi Nghè nên đã cho làng người con gái này không? Ông Củi bảo rằng, bằng kinh nghiệm cuộc đời mình, ông nhận thấy ở Mùi Nái như thế. Ông không thể nói ra thành lời cho rành rẽ được. Ông chỉ biết rằng già làng Khuổi Nghè rất tôn trọng và yêu quý Mùi Nái.
Về đến làng Khuổi Nghè, Bàn Tiên theo Bàn Văn Tòng lên nhà, cái nhà sàn nhỏ bé nép dưới tán rừng bên suối nước chảy róc rách. Bàn Tiên đặt mình xuống sàn là muốn ngủ ngay. Trong góc nhà có tiếng con gái nói chuyện thì thầm, cười khúc khích. Anh Tòng bảo đó là Mùi Nái con anh và Mùi Mẩy - con người hàng xóm đến ngủ bạn. Bàn Văn Tòng không ngủ được, đứng dậy đến bên bếp thổi lửa. Mùi Nái khẽ khàng bước đến bên cha:
- Thưa cha, đi đường xa mệt mỏi mà sao cha không nằm nghỉ? Hay là tại chúng con làm ồn khiến cha không ngủ được?
- Không phải như thế đâu con gái. Cha và ông Củi đã đón được cán bộ cách mạng về làng. Cán bộ cùng cảnh ngộ, dễ dàng thông cảm lắm. Tại cha vui quá, trong lòng bộn bề bao nhiêu mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp, khó mà chợp mắt được.
- Con cũng thấy mừng vì thấy cha vui.
- Ngày mai con đi cùng dân làng để học tập.
- Cha cho con đi học? Ôi, vui quá! Học tập điều gì vậy cha?
- Học làm cách mạng đánh đuổi thực dân đế quốc.
- Ôi, cha nói học gì mà con nghe thấy khó thế.
- Khó mấy dân làng Khuổi Nghè cũng học và làm cho được. Khó sống quá rồi, nhất định phải một phen sống chết với kẻ thù.
Mùi Mẩy, cô bạn hàng xóm của Mùi Nái, cũng đến ngồi bên bếp lửa góp chuyện:
- Khó quá thì ai làm được, nhắm mắt mọi chuyện nó cũng qua thôi mà. Đời người như ở giữa hai lỗ kim khâu chỉ màu, to lớn gì đâu mà phải vùi đầu vào gian khó.
Bàn Văn Tòng thấy khó chịu, cố gắng giảng giải:
- Người làng Khuổi Nghè ta không nghĩ thế. Đã một lần theo người anh em Triệu Tiến Kiên khởi nghĩa chống thực dân không thành, nay ta đón cán bộ về, làm khởi nghĩa theo cách mới, nhất định phải thoát khỏi cảnh sống nô lệ.
Mùi Nái ngồi lặng lắng nghe, như chợt nhớ ra điều gì:
- Được như thế hả cha?
Mùi Nái hỏi cha nhưng trong lòng nghĩ là để hỏi chính mình. Mùi Nái mong cuộc sống không còn những kẻ đã giết chết mẹ, không còn thiếu muối, thiếu cơm.
Đêm nào Mùi Nái cũng nhớ mẹ, một người đàn bà trẻ đẹp và có tiếng là giỏi giang nhất làng. Ông Củi thường bảo Mùi Nái giống mẹ nhiều.
- Mẹ đã để lại cho cháu tất cả trước khi về với tổ tiên. Mẹ cháu tự trồng bông, dệt vải, nhuộm chàm, khâu cho cháu khăn đội đầu, áo dài, quần, dây lưng, xà cạp. Xà cạp cháu đang quấn quanh bắp chân là do mẹ cháu ngày ngày ngồi khâu chỉ màu ở giữa nương lúa mùa chín vàng thành hoa văn theo ý riêng của mình, thầm mong cho con gái sau này khôn lớn vững bước trong đường đời đầy chông gai; nhẫn, vòng tay, vòng cổ, xà tích cháu đang đeo là do mẹ cháu đứng hàng ngày bên ông thợ chạm bạc để chọn cho vừa và hợp ý mình. Từ khi mang thai đến ngày sinh ra cháu, cha mẹ kỹ càng từng điều kiêng cữ. Cha Tòng kiêng kéo cây ngược vì sợ con đẻ ngược, kiêng đánh rắn vì sợ con lè lưỡi... Sinh được ba ngày, bà ngoại bế cháu xuống sân, mang theo cuộn chỉ màu và giỏ hái rau... để sau này cháu biết nối nghiệp mẹ. Tên con được đặt một lần, cha mẹ, ông bà chọn đặt Mùi Nái. Cha mẹ chưa mắng con lần nào. Lên bảy tuổi, con được mẹ cho làm quen và tập công việc. Mẹ khuyên bảo con lời hay lẽ phải để sớm trở thành người có ích.
Mùi Nái quý trọng tất cả những gì mà cô đã có. Từ tấm thân mảnh dẻ nhưng chắc khỏe, đủ sức leo đồi, lội suối, đến đôi tay thuôn dài đủ mạnh khi vung dao phát rừng, đủ khéo để lùa con cá, con ốc vào rổ xúc. Cô thường đi theo mẹ lên nương hái rau bí, quả dưa, nghe lời mẹ khuyên dạy. Mẹ không còn, cô đi một mình, tay làm, đầu nghĩ, lặng lẽ để tự hiểu bản thân mình. Trong lễ hỏa táng mẹ, khi thầy cúng thổi ba tiếng tù và sừng trâu để cầu khấn các ma, Mùi Nái tự hỏi: “Ta muốn gì, làm gì, phải sống như thế nào cho thỏa lòng mong đợi của mẹ đối với đứa con gái bé bỏng này?”. Từ đấy Mùi Nái ít khi ngồi một mình buồn khóc nhớ mẹ. Mùi Nái chăm giúp việc cha, đỡ đần bè bạn cùng hội chăn trâu trong làng... Mùi Nái ngày một khôn lớn, bỡ ngỡ nhiều nhưng cũng biết thêm nhiều điều. Cô nghĩ: “Đời là một chuỗi những lựa chọn như tay ta lần theo từng hạt bạc trong bộ xà tích”.
Dân làng Khuổi Nghè họp dưới tán cây hạt dẻ cổ thụ, nghe cán bộ Bàn Tiên nói chuyện Mặt trận Việt Minh tập họp đoàn kết các dân tộc đánh đuổi thực dân đế quốc, bầu Ban Việt Minh và cử Bàn Tiên làm chủ nhiệm. Chọn người dũng cảm vào đội tự vệ và cử anh Tòng làm người chỉ huy. Bầu Hội Nông dân cứu quốc và cử ông Củi làm Chủ tịch. Bầu Mùi Nái làm Chủ tịch Hội Phụ nữ cứu quốc... Làng Khuổi Nghè bước sang trang sử mới rồi: Đoàn kết một lòng làm cách mạng giải phóng mình thoát khỏi áp bức bóc lột của thực dân đế quốc. Gió nổi! Lửa trại bùng cháy! Tiếng tù và, thanh la, trống dài... đổ nhịp giục giã. Không còn một làng Khuổi Nghè bên Suối Tiên im lìm đầy bí ẩn!
Mùi Nái cũng đã có câu trả lời với nỗi băn khoăn trong lòng bấy lâu nay: “Mình đã lựa chọn con đường cùng dân làng chống thực dân đế quốc. Mình sẽ phải làm tốt việc đoàn thể giao cho. Mình đủ sức làm được mà. Mẹ ơi, vui cùng con gái nhé!”. Mùi Nái hòa vào đám đông dân làng đang đóng góp gạo, lợn, gà, hương, giấy, rượu... để làm lễ Khoi Kềm, cúng ma trời đất, thần lúa, thần chăn nuôi, thần mưa, thần gió, diệt trừ sâu bọ; cầu cho mùa màng bội thu; cầu cho đoàn thể vững mạnh, đánh đuổi được thực dân đế quốc.
Quản Khé được cha là Quản Chiểu chia cho khối tài sản mà không người dân Khuổi Nghè nào dám mơ: Ngôi nhà năm gian, cột bằng gỗ tứ thiết to đến cả vòng tay người ôm. Cột nào cũng được bào nhẵn quét dầu bóng. Chân cột kê bằng những phiến đá đục đẽo tròn, chạm trổ hình long, ly, quy, phượng. Nghe nói bộ đá kê chân cột là của ông quan người Kinh dưới hạ lưu sông Cả vì nể phục tài buôn bán gỗ của ông Quản Chiểu gửi tặng kèm theo lời nhắn: “Bái phục chúa sơn lâm Tây Côn Lĩnh”. Có người lại nói họ biết chuyện này do quan Ba chỉ huy đồn binh Cổng Trời đặt ra để ngầm thưởng công cho Triệu Quầy Phượng đã diệt được thủ lĩnh khởi nghĩa Triệu Tiến Kiên. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước đấy mà. Quản Khé bỏ ngoài tai chuyện đồn thổi của thiên hạ, coi đây là báu vật trong nhà lưu truyền đời con cháu. Hôm nay hắn đặt bên mỗi cây cột một tên lính hầu, ăn mặc nửa Tây nửa ta: Quần áo nhuộm chàm, đai lưng lính viễn chinh, đầu đội mũ phớt, vai vác khẩu súng kíp hai nòng, đứng không nhúc nhích. Đám người hầu chạy lăng xăng tất bật quanh nhà, thỉnh thoảng lại nghe tiếng quát như tiếng gầm của Quản Khé:
- Câm mồm! Cấm không ai được nói gì.
Chẳng là hắn được tin dân làng Khuổi Nghè đã đón cán bộ, lập nên Mặt trận Việt Minh. Thoạt nghe tin hắn phát khùng:
- Đám người to gan, dám giở trò trước mặt Quản Khé!
Triệu Tà Khé còn nhận được tin ghê gớm hơn: Việt Minh đòi nói chuyện với ông quan Quản. “Đã thế Quản Khé này sẽ cho các người biết tay”. - Hắn thầm nghĩ. Hắn sai người nhà mổ dê, bày tiệc rượu để xem mặt, nếu mạnh thì hắn xử nhũn, còn nếu yếu thì cho ăn no, uống say, tống vào sọt buộc đá thả xuống sông là gọn chuyện.
Một đoàn người đến trước nhà Quản Khé nói là đại diện Việt Minh làng Khuổi Nghè. Ông Củi đứng ra trước đám đông, giới thiệu từng người. Quản Khé lướt mắt một lượt nhận ra toàn người quen trong làng. Hắn ti hí mắt nhìn xoáy vào gương mặt tròn như trăng của vị Chủ tịch Hội phụ nữ cứu quốc. Hắn lấm lét nhìn như dò xét ông Chủ nhiệm Việt Minh, người cao ráo, trắng trẻo, đẹp trai nhưng xem ra “yếu ớt như đám con trai trong làng đói ăn”. - Hắn lẩm bẩm bụng bảo dạ. Quản Khé hạ giọng ngọt xớt:
- Nhà có con dê lên nương trúng bẫy, tôi làm món nộm tái dê với quả khế chua, lại có vò rượu nếp nương vừa độ men chín, mời các ông, các bà Việt Minh cùng dùng với gia đình.
Chủ, khách ngồi tròn trên chiếc sập gỗ lim xanh bóng loáng kê giữa nhà, một phong cách ông quan người Kinh dưới hạ nguồn sông Cả. Bàn Tiên miễn cưỡng:
- Chủ nhà cho phép tôi nhé, chúc cho cuộc gặp gỡ đoàn kết hòa thuận.
Quản Khé tợp cạn chén rượu:
- Họ nhà tôi mang tiếng ba đời làm quan mà có của cải gì đâu, phần cũng phải nộp cho quan trên, phần vì thương người nghèo lúc thất bát mà giúp đỡ họ.
Bàn Văn Tòng nhấp nhổm:
- Quan Quản ủng hộ Việt Minh chứ?
Quản Khé cao giọng:
- Ủng hộ ngay!
- Vậy thì ông có dám đốt văn tự trước dân làng trong lễ mít tinh không?
Quản Khé không chần chừ:
- Được ngay!
Tiệc tàn, Quản Khé nắm tay Bàn Tiên:
- Chúng ta thề không làm hại nhau.
Đèn vụt tắt. Tiếng kêu la ầm ĩ:
- Cướp!...
Tiếng súng nổ, những vệt sáng lao vun vút từ trên chái nhà xuống sân.
Mờ sáng, Quản Khé ngửa mặt chạy hộc tốc lên đồn binh Cổng Trời, xộc vào phòng quan Ba:
- Dạ thưa quan Ba, dân làng Khuổi Nghè theo Việt Minh làm loạn.
- Là tiếng súng ầm ĩ đêm qua phải không?
Quản Khé kể lể một hồi:
- ... Họ đòi đốt thẻ phu, đốt văn tự thuế...
Quan Ba cười hô hố:
- Tôi biết dân bản xứ tụ tập trong rừng tuyên truyền cộng sản... Nhìn mặt quan Quản kìa, đừng vãi tè ra phòng tôi đấy nhé!... Việt Minh là tổ chức cách mạng của người bản xứ, tên đầy đủ là Việt Nam Độc lập đồng minh, đã xuất hiện ở nhiều nơi. Ông quan Quản là đồng loại phải ủng hộ họ chứ.
Quản Khé ngồi thụp xuống, vái lạy:
- Nhà con ba đời làm quan phụng sự nước mẹ, không bao giờ ăn ở hai lòng.
Quan Ba với tay lấy khẩu súng “giáp năm” treo trên tường đưa cho Quản Khé:
- Súng này tôi giao cho ông, đừng có vì lẽ gì mà lại lọt vào tay họ. Ý tôi là phải bóp chết từ trong trứng!
*
Vận động Quản Khé không thành, Bàn Văn Tòng đi đi lại lại, vò đầu bứt tai. Bàn Tiên nhìn theo sốt ruột:
- Anh Tòng, dừng lại, rối cả ruột gan. Tại tôi làm hỏng việc lớn của làng phải không?
Bàn Tiên một mực nhận trách nhiệm về mình khiến ông Củi ấp úng mãi không nói được thành lời:
- Có phải đến hôm nay hắn mới tráo trở như vậy đâu, đời ông, đời cha hắn đã như vậy rồi. Gian giảo, xảo trá, côn đồ là của riêng nhà nó, cha truyền con nối. Dân làng Khuổi Nghè ai cũng biết như vậy. Ta cầu mong cho tổ tiên người Dao sẽ trừng phạt hắn.
Bàn Văn Tòng bức xúc:
- Để tôi dẫn đội tự vệ đến nhà hỏi tội hắn.
Bàn Tiên vội ngăn anh Tòng:
- Đó không phải là cách làm hay, sẽ dẫn tới đổ máu vô ích và thất bại. Ta nín nhịn để tích lũy sức mạnh. - Bàn Tiên bớt căng thẳng. - Tôi mang ơn ông Củi đấy. Người già nói phải mà. Chỉ tại ta vội vàng, chưa tìm hiểu kỹ mưu mô của hắn mới nên nỗi. Bây giờ thì ta phải phát triển phong trào mạnh mới mong thuyết phục được hắn.
Ba người lại chụm đầu bàn cách phát triển phong trào Việt Minh. Bàn Tiên bảo:
- Nên cử người vào đồn binh Cổng Trời vận động. Ta có vào hang cọp mới thuần phục được thú dữ.
Cách mà Bàn Tiên nêu ra khó thực hiện, làm thế nào để đưa được người của mình vào nơi hang hùm, miệng sói ấy? Ông Củi nghĩ rằng Bàn Tiên muốn con trai ông làm việc đó vì biết Bàn Sáng đang có lệnh gọi đi lính cho quan đồn. “Mình là Việt Minh cho con đi lính làm tay sai, gian ngay lẫn lộn, ai còn tin cái thằng già trưởng làng này không?” - Ông Củi nghĩ và thấy trong lòng ấm ức nhưng chưa vội nói. Công việc đem ra Ban chủ nhiệm Việt Minh để bàn, bỗng dưng rối tung. Mỗi người hiểu theo ý riêng của mình:
Bàn Văn Tòng ủng hộ kế hoạch của Bàn Tiên, đưa Bàn Sáng vào vận động binh lính trong đồn là phù hợp. Ông Củi biết chuyện Bàn Sáng muốn Mùi Nái làm vợ nên nghi ngờ Bàn Văn Tòng không tốt, muốn ngăn cản con cái. Bàn Văn Tòng thấy có thanh minh lúc này cũng không ai hiểu. Anh đâu có ý ngăn cản con cái mà chỉ nghĩ việc chung của dân làng đang cần kíp, đưa Bàn Sáng vào đồn binh vừa tin tưởng sẽ được việc, vừa qua được sự nhòm ngó của lũ quan đồn. Bàn Văn Tòng phăm phăm đi tìm Bàn Sáng. Mùi Nái đang xúc cá ở khe suối cửa rừng:
- Hôm nay con xúc được nhiều cá, nấu canh lá chua ăn cho mát, cha cho con tự làm nhé?
- Cha không muốn ăn canh chua đâu. Cha muốn con gái tìm Bàn Sáng để lên đồn binh làm lính cho quan Ba.
Mùi Nái đánh rơi cả giỏ cá, sững sờ:
- Cha làm việc cho quan thực dân đế quốc?
Bàn Văn Tòng giảng giải muốn con gái hiểu theo ý mình. Mùi Nái tỏ ý hờn giận:
- Đây có phải là cớ để cha ngăn Bàn Sáng làm con rể?
- Con gái hiểu cho cha, Bàn Sáng đi lính đồn là vì dân làng.
Mùi Nái bực dọc, đập cái vợt xuống mặt nước, lặng lẽ cúi đầu bước theo cha.
Anh Tòng cùng Bàn Sáng và Mùi Nái về đến đầu nhà thấy ông Củi nhấp nhổm trên hòn đá chân cầu thang:
- Tao chờ chúng mày đến mềm cả hòn đá rồi.
Ông Củi muốn bàn chuyện cái mộ xếp đá ven sông Cả của hai đứa trẻ cho ra nhẽ:
- Không bàn bạc cho thấu đáo lỡ lộ chuyện thì hậu quả khôn lường. Bàn Sáng sẽ như thế nào nếu quan đồn biết chuyện?
Chuyện xảy ra vào buổi trưa nắng ấm cách đây chưa lâu, Bàn Sáng cùng Mùi Nái ra sông xúc cá. Bàn Sáng đi trên bãi sông tìm hòn đá cuội kẹp súng cao su bắn xuống mặt nước, vừa là để canh chừng cho Mùi Nái tắm. Lù lù một thằng lính viễn chinh rình rập bên tảng đá lớn vồ lấy Mùi Nái. Mùi Nái chỉ kịp kêu lên một tiếng:
- Ối!
Mùi Nái giãy giụa trên cát. Bàn Sáng nấp tảng đá thấy tên lính tụt quần liền giương súng cao su đã kẹp sẵn hòn đá cuội: “Pựt!”. Thằng lính viễn chinh dính cú đòn hiểm bất ngờ, há miệng kêu không thành tiếng, như con thú trúng đạn thợ săn, rời rã buông con mồi. Mùi Nái vùng chạy. Bàn Sáng đến bên tên này. Hắn chỉ mặt Bàn Sáng:
- Mày là ai? Mày thờ con gì?
Bàn Sáng tay cầm hòn đá giơ lên đầu hắn:
- Tao thờ con chó! Còn mày, con bò phải không?
Bàn Sáng đập hòn đá vào đầu tên lính viễn chinh khiến hắn đổ gục xuống cát như cây gỗ mục. Bàn Sáng hổn hển đuổi theo Mùi Nái:
- Về thôi, nó chết rồi.
Mùi Nái đứng khựng:
- Không về được, phải chôn nó.
Hai người nhặt đá xếp xung quanh xác tên này thành nấm mộ. Mùi Nái không biết cúng, chỉ biết chắp hai bàn tay trước mặt, mắt nhìn theo dòng nước chảy, miệng lẩm bẩm cầu khấn cho linh hồn tên lính về với tổ tiên của nó. Cô thầm nghĩ: “Chắc nó cũng sẽ bị quở trách vì Mùi Nái nghĩ sẽ không có tổ tiên nào muốn con cháu hư hỏng. Nó cũng là nô lệ đi lính đánh thuê sao không chọn con đường chống thực dân đế quốc?”.
Trên đồn binh, quan Ba cho lính điểm danh, không thấy có mặt tên lính Pri-ghết. Quan Ba nghi ngờ dân làng Khuổi Nghè hãm hại nhưng sự thể thế nào thì còn phải xem. Dẫu sao thì cũng không thể nương tay, nhân việc này mà xử luôn cái tổ chức Việt Minh khi nó còn trứng nước. Quan Ba chỉ huy đồn binh ra lệnh thực hiện theo phương châm ba sạch, giết sạch, phá sạch, cướp sạch đối với dân làng Khuổi Nghè. Vị quan đồn binh suốt ngày nhai nhải: Văn minh, khai hóa, dân chủ, nhân quyền, tự do, bác ái buộc phải lột bỏ cái áo ngụy trang để lộ nguyên hình thực dân đế quốc. Quan Ba thừa biết việc làm của mình thật dễ giải thích về thực hiện quyền cai trị, còn về công việc của một nhân viên mật thám thì không thể chấp nhận được. Cái kim trong bọc đã phải lòi ra quá sớm sẽ khó khăn về sau. Hắn đã ra lệnh rồi, không thể rút. Quan Ba suy tính:
- Mình làm như thế có khi lại là hay, Việt Minh hết đường thực hiện kế chui sâu phân hóa kẻ thù trong lòng đối phương.
Hắn sẽ giao việc thực hiện cho Quản Khé. Hắn nghĩ: “Gà cùng mẹ đá nhau thì ít bị nhòm ngó”. Hắn cho gọi Quản Khé:
- Ông đã nghĩ thêm được gì về cái làng Việt Minh Khuổi Nghè chưa?
- Dạ thưa..., làng làm gì còn người mà có Việt Minh. Họ đã trốn vào rừng hết rồi.
- Ngay bây giờ ông phải cho lính lục tung các làng tìm cho ra cán bộ Việt Minh.
Quản Khé cho lính chặn các ngả đường, lùng sục trong làng, ngoài rừng. Không tìm thấy người lớn, Quản Khé cho lính bắt trẻ con tra khảo để tìm ra người lớn. Mấy ngày không tìm được cán bộ Việt Minh, Quản Khé như con trâu điên, khi thì lao như thiêu thân chỗ này, chỗ kia; khi thì khùng lên chửi bới. Chửi Việt Minh chán hắn quay chửi quân lính:
- Một lũ ăn hại, một đội quân tiêu hao thực phẩm khủng khiếp! Trâu bò, gà vịt, ngan ngỗng bao nhiêu cũng ngốn hết sạch.
Hắn vung tay tát đánh bốp:
- Mày cãi lại quan trên, tao cho mày chết như con ngóe thả xác trôi sông!
Quản Khé dựng một tên lính vào cột nhà, lấy khẩu súng “giáp năm” quan Ba Crê-măng giao cho, gí đầu nòng vào đầu tên lính, bóp cò; không có tiếng nổ phát ra như thông lệ. Quản Khé tái mặt, sững sờ nhặt viên đạn vừa văng ra từ khẩu súng. Hắn hét lên:
- Đít viên đạn phẳng lỳ thế này, súng không có kim hỏa, mẹ kiếp!
Hắn hạ giọng hô quân lính:
- Về!
Quản Khé chạy xộc vào buồng quan Ba:
- Thưa, tại sao súng không có kim hỏa?
Quan Ba cười hề hề:
- Tôi cần ông mang về những thằng Việt Minh chứ không phải những cái xác. Ngài quan Quản làm được chứ?
Quản Khé biết quan Ba không tin tưởng ở hắn nhưng vẫn phải nuốt quả đắng làm ngọt. Quản Khé như hỏi chính mình:
- Để làm gì?
- Việc đó ông sẽ hiểu sau này. Còn bây giờ thì ông tạm hiểu là để tẩy não, biến một chiến sĩ đầy dũng khí thành kẻ mất hồn, bỏ đi cũng dở, ở lại với đoàn thể cách mạng cũng không xong.
Quản Khé sai quân lính bắt dân làng Khuổi Nghè đánh đập, tra hỏi:
- Người nào là Việt Minh?
- Ta là Việt Minh!
- Ta cũng là Việt Minh!
- …
Người dân làng bị bắt ai cũng nhận mình là Việt Minh. Quản Khé càng điên dại hơn:
- Bắt lấy nó! Giết sạch! Đốt sạch!
Lửa cháy, làng Khuổi Nghè rừng rực ngọn lửa!
Ông Củi lên tảng đá cao đầu làng. Ông căm giận lũ quân viễn chinh đã tàn phá làng Khuổi Nghè thành tan hoang. Ông nhìn về phía đồn binh Cổng Trời, nơi quân viễn chinh giam giữ dân làng chúng bắt trong trận càn, lầm rầm cầu khấn:
- Máu đã chảy, mong sao đừng có cảnh đầu rơi.
Bàn Tiên bàn với ông Củi cách đấu tranh chống địch tra tấn, đánh đập. Ông Củi bồn chồn:
- Vậy là chúng ta đã thất bại phải không cán bộ?
- Nói thành công hay thất bại bây giờ là quá sớm và không đúng lúc. Mà thất bại là mẹ thành công khi ta biết lựa chọn những gì thành công trong thất bại để tiếp tục bước lên. Chúng ta đừng vội nản lòng; sẽ đến ngày thực dân đế quốc không còn làm mưa làm gió được nữa.
Bàn Tiên nói vậy nhưng không làm dịu nỗi chua xót trong lòng. Cơ sở cách mạng đầu tiên ở vùng núi Tây Côn Lĩnh vừa nhen nhóm bị tổn thất nặng nề. Làng bị đốt cháy tan hoang. Dân phải chạy vào rừng sâu. Người tích cực hoạt động bị địch bắt. Ước mơ có một lực lượng cách mạng mạnh lên để đánh đuổi thực dân đế quốc bị dập tắt. Anh đang nghĩ xem kẻ địch sẽ còn giở trò man rợ nào.
Bàn Tiên nói với ông Củi:
- Hay là chúng ta tạm thời thỏa hiệp để hạn chế tổn thất?
Bàn Tiên vội vàng im bặt như muốn rút lại lời vừa nói. Anh không muốn ông Củi nghĩ là đã gặp một thằng nhát gan, chưa gì đã bàn chùn. Sau một lúc bần thần với những ý nghĩ ngổn ngang trong đầu, Bàn Tiên cũng nói rõ ràng với ông Củi:
- Chúng ta chấp nhận hòa để tiến.
Ông Củi nhìn Bàn Tiên như thăm dò để tìm hiểu. Con người trẻ tuổi nhưng thân xác không khỏe mạnh cho ông cảm giác không vui. Ông tự hỏi: “Thằng này nhát gan thật sao?”. Ông gạt phắt ý nghĩ thoáng qua, trả lời dứt khoát với lòng mình: “Đây là cán bộ cách mạng, mọi việc trước khi nói ra thành lời hẳn là đã suy xét”. Bàn Tiên đến bên ông Củi:
- Bàn Tiên đoán được người già nghĩ gì cho dân làng rồi.
- Không có, cán bộ nghĩ đúng mà, làng Khuổi Nghè cần thời gian củng cố phong trào, phát triển lực lượng, không vội vàng được.
*
Quan Ba Crê-măng ra lệnh cho Quản Khé:
- Bắt được người nào thì phải đánh tuốt xác cho đến khi khai báo những cán bộ Việt Minh còn trốn trong rừng.
Quản Khé như con thiêu thân trước lửa, hò hét quân lính vào rừng lùng sục. Hắn xuống nhà giam phía sau đồn, sai lính dùng dây da trâu trói chặt từng người vào những cái cột gỗ chôn sẵn trong nhà giam. Chúng trói Bàn Văn Tòng vào cột to chôn giữa nhà. Hai tên lính mình trần thay nhau dùng roi da trâu quất liên tiếp vào mặt, vào chân, vào ngực. Quản Khé tới gần, giơ tay ra hiệu cho lính ngừng quất roi da. Hắn vênh mặt nhìn khuôn mặt tóe máu của Bàn Văn Tòng:
- Mày không quên là đã có một lần khoét vách để trốn khỏi cái trại giam này à? Bây giờ thì mày đã biết là không chạy đâu cho thoát khỏi tay tao chưa? Mày làm chỉ huy tự vệ của Việt Minh thì phải biết cái thằng cán bộ mặt xanh nanh vàng đang ẩn nấp ở đâu chứ? Mày nói cho tao biết thì tất cả đám người bị bắt này sẽ được tha.
Bàn Văn Tòng nhổ nước bọt vào mặt Quản Khé:
- Đồ mặt người dạ thú!
Quản Khé vung tay, hét bọn lính:
- Đánh cho đến bao giờ nó chịu khai mới thôi!
Mùi Nái bị chúng buộc trong bao tải òa khóc.
- Khiêng nó về đồn cho ta! - Quản Khé hô lính.
Bọn lính bỏ mặc Bàn Văn Tòng ngất xỉu, nghẹo cổ trên cột bị trói, khiêng Mùi Nái đi.
- Quan Quản bảo thấy nó tỉnh lại thì đánh tiếp.
Đợi cho trời tối, Bàn Sáng đem nắm cơm gói trong lá chuối rừng hơ lửa và ống nứa đựng nước uống lẻn vào nhà giam. Bàn Sáng đến bên anh Tòng, tay lần theo sợi dây da trâu tìm nút thắt để nới ra.
- Chúng nó trói chặt, đánh đau thế này bằng giết người ta còn gì!
- Chúng nó muốn mình chết từ từ để hiểu thế nào là đòn thù. Bàn Sáng cho tôi hụm nước, khát quá.
- Máu chảy ra đầy mặt thế này thì khát nước lắm. Chú Tòng phải ăn miếng cơm cho có sức. Chúng nó ác lắm, không thương mình đâu.
Anh Tòng bảo Bàn Sáng chia cơm, nước cho những người xung quanh:
- Những người bị chúng bắt vào đây không ai tránh được đòn roi của chúng.
Nhà giam tối đen như mực, Bàn Sáng khó khăn lắm mới lần tới chỗ người bên cạnh:
- Tối quá không phân biệt được tuổi mà xưng hô cho phải lẽ. Người làng mình cả, ăn miếng cơm, uống hụm nước cho tôi mát lòng. Quân giặc dã man độc ác quá.
- Bàn Sáng đã gặp Mùi Nái chưa?
- Tôi sẽ đi tìm.
Bàn Sáng đến nhà của quan đồn phía trước cổng tìm Mùi Nái. Bàn Sáng đi nhanh tới nhà giành cho quan Quản. Bàn Sáng đã nghĩ trong đầu ý định nếu gặp Quản Khé sẽ dùng báng súng đập vào đầu hắn. Bàn Sáng lạnh người khi thấy nhà quan Quản vắng lặng, khẽ cạy cửa bước vào. Bàn Sáng nghe có tiếng khóc sụt sịt. Bằng linh cảm, Bàn Sáng nhận ra Mùi Nái ngồi nép góc tường nhà, Bàn Sáng.
- Bàn Sáng đây.
Tiếng khóc nấc nghẹn.
Bàn Sáng đến gần kéo tay Mùi Nái quàng lên cổ:
- Chúng ta đi khỏi đây.
Mùi Nái nói trong tiếng nấc:
- Bàn Sáng đi đi. Bọn chúng không tha đâu.
- Chúng ta đi khỏi đây thì còn gì mà phải sợ.
- Muộn rồi.
- Sao thế?
- Chúng nó đã cướp cả cuộc đời… con gái của… Mùi Nái rồi.
Bàn Sáng đứng lặng lúc lâu. Máu trong người anh như dồn cả lên đầu. Đôi mắt nóng, hai tai ù, Bàn Sáng nắm chặt tay đấm mạnh vào tường nhà:
- Đồ súc vật!
Bàn Sáng kéo tay Mùi Nái ra đến cổng đồn, không thấy một bóng người. Bàn Sáng nghi ngờ: “Chúng mai phục để bắt mình ở chỗ nào?”. Bàn Sáng nhìn về phía đường quốc lộ, đèn ô tô chiếu loang loáng. Bàn Sáng không hiểu chuyện gì đã xảy ra mà đồn binh bỗng dưng vắng lặng. Trên đường về làng, Mùi Nái nói với Bàn Sáng trong nước mắt:
- Vậy là chúng đã bắt buộc Mùi Nái từ bỏ tình yêu với người bạn trai của mình. Chúng còn muốn Mùi Nái từ bỏ dân làng để làm vợ quan suốt đời làm tay sai cho thực dân đế quốc. Thế là cuộc đời Mùi Nái đã mất tất cả, sống như chết có ích gì nữa đâu.
Bàn Sáng an ủi bạn:
- Đời như cái chăn, ta làm ấm cho chăn, chăn giữ ấm cho ta. Bàn Sáng mong Mùi Nái đừng nghĩ quẩn.
Buổi chiều ngày hôm ấy, quan Ba Crê-măng đứng trong lô cốt nhìn qua lỗ châu mai thấy phía đường cái thấy ô tô nhà binh của quân nước mặt trời bịt bạt kín ngược xuôi vun vút. Hắn tự hỏi: “Chẳng lẽ nguồn tin mật về một cuộc đảo chính của quân đội nước mặt trời lại diễn ra nhanh đến thế. Rõ ràng những đoàn ô tô trên đường kia là một cuộc hành binh”. Hắn không còn giữ được vẻ oai nghiêm lạnh lùng thường ngày, lập cập ra lệnh cho binh lính rút sang bên kia biên giới. Hắn nịnh Mùi Mẩy:
- Người đẹp đi cùng ta, hy vọng sẽ có ngày trở lại đất này ta cùng nhau làm lại cuộc đời.
Quản Khé thấy Crê-măng tháo chạy liền cho lính về nhà, “khi có lệnh lại tập trung”. Hắn phi ngựa một mạch về nhà Quản Chiểu, nơi trú ngụ an toàn bất kể đất này thuộc quyền cai trị của giặc nào. Về đến nơi an toàn hắn mới nhớ ra còn đang giữ Mùi Nái trong buồng ngủ ở đồn binh. Hắn không có ý định quay lại đón, “ta đã lấy được thứ quý nhất của nó. Nó sẽ phải làm vợ ta suốt đời”.
*
Bàn Tiên ngồi một mình trên hòn đá to nhìn làng bị quân giặc đốt phá tan hoang mà đau lòng. Anh nhớ ngày đầu về làng tuyên truyền chủ trương đoàn kết toàn dân đánh đuổi thực dân đế quốc, người già, thanh niên hăm hở nhiệt tình ủng hộ. Anh nhớ lắm một cơn gió lạnh chiều mùa xuân khiến anh rùng mình. Tiếng mõ của đàn trâu gặm cỏ từ rừng xa vọng về. Nóc nhà sàn trong thung sâu lơ lửng vệt khói lam. Mùi thơm rơm rạ thoang thoảng ấm nồng. Nhịp sống của làng Khuổi Nghè chậm rãi, lặng lẽ. Bàn Tiên nghĩ những náo nhiệt hăng say cách mạng đem đến cho người dân Khuổi Nghè đang được cất giấu, nuôi dưỡng trong lòng để một ngày bùng lên thành lửa, thành sức mạnh để giải phóng mình, giải phóng quê hương đất nước. Bàn Tiên lại tự trách mình là viển vông, còn bộn bề công việc trước mặt đã dễ gì vượt qua.
Ông Củi tìm gặp Bàn Tiên:
- Cán bộ phải tạm lánh sang bên kia sông.
- Đang lúc phong trào gặp khó khăn tôi đi sao được?
- Cán bộ nghe già làng, còn cán bộ là còn phong trào. Lũ thực dân đế quốc sẽ không từ thủ đoạn nào để diệt được cán bộ.
- Trưởng làng đã đón tôi về ở với dân. Tôi bỏ đi là có lỗi với lệ làng. Dân làng đã tạm lánh lên lều nương. Trưởng làng cũng nên cùng dân làng tạm lánh. - Bàn Tiên đứng lặng bên ông Củi. - Nếu những người bị lính đồn bắt được thả, khi bắt được tôi như chúng đã nói lúc tra khảo anh Tòng thì tôi đây đã sẵn sàng hy sinh.
- Cán bộ đừng nghĩ làm chuyện đánh đổi ấy. Chúng nó lừa đảo để bắt tất cả nhằm dập tắt phong trào cách mạng làng Khuổi Nghè.
Bàn Sáng dẫn một người lạ đi tìm cha. Ông Củi nghi ngờ khi nghe con ghé miệng vào tai nói khẽ:
- Người của cấp trên đến tìm gặp cán bộ Bàn Tiên.
- Sao con biết?
- Cha hỏi người ấy cho rõ. Con nói với cha chuyện này. Đêm qua binh lính trên đồn tự nhiên chạy đi đâu hết. Người làng bị chúng bắt đã phá nhà giam trở về nhà.
Bàn Tiên bắt tay người vừa đến. Anh nói với ông Củi:
- Đây là đồng chí An được cấp trên cử đến giao nhiệm vụ cho chúng ta. Đã mấy ngày tôi cùng Bàn Sáng chia nhau đi đón vì lo lính đồn phong tỏa.
Bàn Tiên đã nhận được chỉ đạo của liên Tỉnh ủy: Tình thế thay đổi mau lẹ, thực dân đế quốc hất cẳng nhau, ta nhanh chóng chuẩn bị lực lượng, đem sức ta mà giải phóng cho ta. Bàn Tiên thông báo chỉ đạo của liên Tỉnh ủy cho Ban lãnh đạo Việt Minh làng Khuổi Nghè. Tất cả đều im lặng, như nín thở lặn nước sâu đang tìm ánh nắng mặt trời để ngoi lên. Ban lãnh đạo Việt Minh làng Khuổi Nghè giao nhiệm vụ cho ông Củi tuyên truyền cho bà con trong làng ủng hộ Việt Minh xây dựng lực lượng chuẩn bị cho nhiệm vụ mới. Bàn Văn Tòng được giao nhiệm vụ mở rộng lực lượng đội tự vệ vũ trang. Anh sốt ruột chờ cán bộ Bàn Tiên phân công nhiệm vụ cho con gái:
- Cán bộ không giao việc cho Mùi Nái à?
Bàn Tiên đến nhà Tòng sửng sốt khi nhận ra người ủ rũ chân cầu thang là Mùi Nái:
- Đã xảy ra chuyện gì với Mùi Nái?
Mùi Nái kể chuyện bị Quản Khé cưỡng hiếp rồi dọa sẽ bắt làm vợ. Bàn Văn Tòng quát tháo át lời than phiền của con gái:
- Đã biết thế nào là tay sai của thực dân đế quốc chưa? Tệ bạc, xảo trá, sẵn sàng giết chết bịt đầu mối…
Bàn Tiên lựa lời an ủi:
- Âu cũng là cái số con người ta. Mùi Nái về làng là mừng lắm rồi. Sướng khổ thế nào bên làng nước là vui, phải không Mùi Nái?
Bàn Tiên bàn với Bàn Văn Tòng việc lập đội du kích chống quân nước mặt trời xâm lược:
- Thành phần tiểu đội phải gồm các dân tộc, người già, thanh niên…
- Có phụ nữ không? - Mùi Nái chen lời - Đừng có mà phân biệt đối xử đấy!
Bàn Văn Tòng lúng túng:
- Chuyện có cho phụ nữ tham gia du kích để sau bàn kỹ.
- Không phải làm khó thế đâu. - Ông Củi lên nhà lúc nào không ai để ý - Ta nghe hết mọi chuyện rồi, thành lập tiểu đội nữ du kích độc lập. Thành phần người già trong tiểu đội du kích đã có cựu nghĩa quân Triệu Tiến Kiên xung phong.
- Ta thành lập tiểu đội du kích ở xóm Năm nhà cho phù hợp với địa hình, vận động Sìa Páo làm chỉ huy tiểu đội. - Bàn Văn Tòng nêu ý kiến - Trưởng làng già quá nhường cho người trẻ tuổi tham gia.
- Thằng bố Mùi Nái nói như thế là không biết gì về ta rồi. Ta có súng, khẩu súng tự chế mất cả năm khoan nòng bên thác nước Suối Tiên. Ta biết bắn súng, từ ngày có súng chưa có con thú hoang nào vào phá nương lúa thoát khỏi bị trừng trị.
Cuối cùng thì ông Củi được chấp nhận làm chiến sĩ tiểu đội du kích chiến đấu.
*
Sìa Páo cùng mấy anh em người Mông ở xóm Năm nhà đang mơ về câu chuyện giếng nước thần ở đỉnh núi Mèo Vạc. Ở đó có đôi chim lông vằn, thường uống nước khe suối, nhặt lá cây để nước giếng được sạch, giúp mọi người uống được nước giếng ấy nếu ốm đau thì khỏi bệnh, khi thác thì được về với tổ tiên.
- Sìa Páo ơi, câu chuyện trong giấc mơ đẹp quá ta phải giữ. Bàn Tiên thấy câu chuyện thật đẹp. Bây giờ ta phải lập đội du kích chống quân phát xít nước mặt trời đến cướp nước ta.
- Ta làm du kích không cho nước mất vào tay quân giặc đâu. - Sìa Páo quả quyết.
Sáng hôm sau Bàn Văn Tòng yêu cầu tiểu đội du kích do Sìa Páo chỉ huy phục kích trên tuyến đường từ làng Khuổi Nghè về đồn binh Cổng Trời, nơi quân địch thường đi tuần tra. Ông Củi chọn cho mình một gốc cây to, quan sát rõ và thế bắn thuận lợi. Kia rồi, một con ngựa chở trên lưng một thằng giặc đầu đội mũ vải bịt tai, thanh kiếm dài bên hông như muốn quệt mặt đất. Tên lính qua trước mặt ông Củi. Khẩu súng kíp ông Củi cầm trên tay đã giương cần cò, từ từ nâng đầu nòng lên ngang mắt ngắm. “Đùm!”. Tên lính văng khỏi lưng ngựa. Ông Củi gom chiến lợi phẩm thu được đặt trước mặt Tòng:
- Hãy coi tiếng súng của già làng là lời hiệu triệu chống phát xít!
Chiều, quân địch tràn vào xóm Năm Nhà đốt phá. Tiểu đội du kích đòi đánh. Ông Củi ngăn:
- Nín nhịn, bảo toàn lực lượng là sức mạnh.
Sìa Páo nghe lời ông Củi, cho tiểu đội du kích rút lên rừng già.
Bàn Tiên giao cho Tòng xây dựng các trung đội, đội du kích chiến đấu:
- Chúng ta xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh làm nòng cốt cho nhân dân đấu tranh giành chính quyền từ tay bọn thực dân đế quốc.
Bàn Văn Tòng hào hứng nhận nhiệm vụ cách mạng đoàn thể giao cho. Anh đi khắp các xóm vận động:
- Cách mạng, đoàn thể không phân biệt dân tộc, giàu, nghèo, người nào tán thành điều lệ đánh đuổi thực dân đế quốc đều được kết nạp vào hàng ngũ.
Mùi Nái lặng lẽ theo cha đến các xóm. Cô nấp kín trong tán lá rừng theo dõi cha tổ chức lễ kết nạp người vào đội du kích. Cha đứng trước mọi người, tuyên bố: “Lễ kết nạp đội viên du kích bắt đầu!”. Tiết gà được cắt rỏ vào bát rượu. Dúng Vàng, người ở xóm Năm Nhà bước lên thắp nén hương, giơ tay thề: “Tên tôi là Dúng Vàng, xin thề với cách mạng, đoàn thể, nếu sau này tôi phản lại thì bản thân xin chết như con gà vừa mổ”. Dúng Vàng nói xong uống cạn bát rượu tiết. Mùi Nái nhận ra cha mình cũng là người rất biết dùng tập quán để tập họp mọi người đoàn kết. Mùi Nái đến bên cha năn nỉ xin được vào du kích. Bàn Văn Tòng gay gắt:
- Đừng nghĩ kết nạp nhiều đội viên du kích là làm ào ào. Cái đầu cán bộ phải tỉnh táo để không lâm vào cảnh gậy ông đập lưng ông. - Bàn Văn Tòng không nói toạc ra ý nghĩ: “Vợ Quan Quản không đủ tiêu chuẩn”, rồi hậm hực nuốt giận.
Bàn Tiên xoa dịu nỗi giận dữ hai cha con:
- Mùi Nái vận động phụ nữ cùng du kích đánh giặc. Du kích nào cũng phải có cơm ăn mới đánh được giặc.
Bàn Tiên tâm niệm, Bàn Văn Tòng chưa muốn dừng câu chuyện với con gái đã làm khó trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Chỉ có nhiệm vụ cách mạng mới có thể kéo Tòng ra khỏi chuyện của con gái đang như mớ tóc rối bời.
- Ngày Quốc tế Lao động mùng Một tháng Năm sắp đến, ta huy động du kích các làng đánh một trận làm kỷ niệm cũng là một công đôi ba việc, kiểm tra khả năng chiến đấu của du kích, cũng là thông điệp gửi tới cha con Quản Chiểu, Quản Khé hãy ủng hộ cách mạng.
Bàn Tiên nói kế hoạch trận đánh: Đánh tập kích vào đồn binh Cổng Trời, nơi quân nước mặt trời vừa chiếm đóng còn chân ướt chân ráo, huy động lực lượng du kích các làng ba trăm người tập kích quân địch từ hai hướng.
Bàn Văn Tòng phấn chấn:
- Cán bộ tin lời tôi nói, nhất định du kích lập công.
Đêm Ba mươi tháng Tư, lực lượng du kích chia hai mũi tiến công quân địch, mũi một do Sìa Páo chỉ huy từ xóm Năm Nhà đánh lên; mũi do anh Tòng chỉ huy từ đỉnh núi Suối Tiên đánh xuống. Bàn Tiên đứng trên tảng đá đầu làng quan sát trận đánh. Gà trong làng cất tiếng gáy. Tòng nhẩm tính: “Đã là canh ba, du kích đi chậm nhất cũng đã đến hàng rào bao quanh đồn”, giơ nắm tay, anh quả quyết:
- Bắn!
Tiếng súng du kích nổ lụp đụp, vệt lửa sáng đầu nòng. Lũ giặc nháo nhào lao vào cửa lô cốt, cửa hầm ngầm ngổn ngang cát, đá vì xây dựng dở. Anh Tòng thầm ước có một khối thuốc nổ khổng lồ đặt vào giữa sân đồn để giật cho nổ tung. Du kích giao chiến với địch đến khi trời mờ sáng. Anh Tòng lệnh cho du kích rút. Kiểm tra quân số thấy thiếu đến nửa. Anh Tòng túm vạt áo lau nước mắt. Sìa Páo bị thương vào gót chân vẫn cố tập tễnh đến bên anh Tòng:
- Đánh quân địch này khó khăn đấy, ta lấy hết tử sĩ về mai táng rồi rút kinh nghiệm để trận sau bớt thương vong. Bao giờ ta mới đủ mạnh để đuổi được chúng đi?
Bàn Tiên run run vì xúc động:
- Du kích ta dù vũ khí thô sơ nhưng có tinh thần chiến đấu hy sinh vì nước. Ta phải huấn luyện cho thật thuần thục cách đánh tập kích, phục kích.
*
Bàn Sáng bảo Mùi Nái:
- Báo tin cho du kích, quân giặc sắp rút chạy khỏi đồn binh.
Mùi Nái hớt hải nói với Bàn Văn Tòng. Người cha trợn mắt với con gái:
- Đây là việc lớn, không phải trò đùa, cô đừng giễu du kích chúng tôi.
Mùi Nái biết cha không tin. Cô ôm mặt khóc. Bàn Tiên lên tiếng từ cầu thang:
- Hai cha con lại có chuyện gì khúc mắc mà to tiếng với nhau?
Bàn Văn Tòng nói lại tin Mùi Nái vừa báo. Bàn Tiên ghé vào tai Tòng:
- Việc Mùi Nái nói là có thật. Quân nước mặt trời bỏ các điểm nhỏ, tập trung chiếm giữ thị xã, thành phố.
Bàn Văn Tòng hăng hái:
- Để tôi cho tụi nó bài học.
Bàn Tiên giữ vai anh Tòng:
- Việc này giao cho Trung đội trưởng Sìa Páo.
Sìa Páo bảo:
- Ta còn yếu, đánh có thắng được quân lính thiện chiến ấy không?
Bàn Tiên:
- Ta nghĩ được cách đánh phù hợp để giành thắng lợi.
Sau khi nghe Bàn Tiên hướng dẫn, Sìa Páo phân công đội viên bắt tay ngay vào việc tháo một số tấm ván lát cầu, lấy lá chuối rừng trải lên để ngụy trang. Rạng sáng hôm sau, lính đồn binh phi ngựa tới đầu cầu Suối Tiên. Ngựa của chúng dừng lại đầu cầu, hí ầm ĩ không chịu qua cầu. Sìa Páo nổ súng. Lũ ngựa phi đại lên cầu. Binh lính địch kêu la inh ỏi. Sìa Páo hài hước:
- Mày có sống sót mà về tới Đông Kinh cũng chưa hết tè dầm vì hốt hoảng.
Trời sáng, một số tên lính rơi xuống nước đang lóp ngóp vào bờ. Chiến sĩ du kích kéo cò khẩu súng kíp. Sìa Páo nhìn thấy vội ngăn:
- Nó thất trận rồi, không bắn nữa.
- Chúng nó đã đốt nhà của tao.
- Nghe lời cán bộ Bàn Tiên nói, phải nhân đạo với kẻ bại trận. Ta không giết để nó biết là đã bị thua du kích.
Quản Khé từ Đông Kinh trở về. Quản Khé đang rất cần một tình thế rối ren mới mong có cơ hội đổi đời. Thế là quân nước con gà bị quân nước mặt trời hất cẳng. Quân phát xít nước mặt trời lại bại trận trước quân Đồng Minh chống phát xít. Quân nước láng giềng lấy danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp quân nước mặt trời. Quân phản loạn ở bên kia biên giới do Trương Phát cầm đầu lập phái có tên gọi là Quốc dân, núp bóng quân Đồng Minh kéo về hòng chiếm Tây Côn Lĩnh làm bàn đạp mở rộng chiếm đóng ra các vùng lân cận. Quản Khé phải đánh liều xin nhập bọn, Trương Phát chấp thuận ngay vì đang cần lôi kéo các lực lượng trong nước về phía mình. Trương Phát giao cho Quản Khé nắm giữ Khuổi Nghè - Cổng Trời. Cha hắn cũng được viên tướng chỉ huy quân Đồng Minh phong chức “Khuổi Nghè đốc hiệu, biên khu xứ, sư trưởng và hàm trung tá”. Hắn thầm nhủ: “Các quan ngài cứ khuấy cho nước thật đục, Quản Khé này sẽ làm con cò mỏ nhọn tinh khôn nhất”. Hắn cho quân lính tập đi, đứng, chào, xưng hô y như những gì hắn được huấn luyện. Hắn cho lính sục vào làng Khuổi Nghè tìm bắt cán bộ Việt Minh. Hắn bắt trẻ con để tra hỏi. Hắn cho rạch bụng con ngựa đang cưỡi, nhét một đứa trẻ vào đó rồi khâu lại. Hắn hét:
- Chúng mày không muốn làm người thì tao cho vào đó đầu thai làm trâu, làm ngựa.
Một điều làm cha con Triệu Tà Khé không vui, đó là việc ngài sư trưởng quân đội nước láng giềng lại giao quyền quyết định công việc ở vùng Tây Côn Lĩnh vào tay Trương Phát, cha con hắn chỉ là kẻ dưới quyền. Tà Khé nghĩ mình chưa được lên voi nhưng cũng chưa đến mức phải xuống chó.
Đêm, Tà Khé cho lính bắt Mùi Nái về đồn:
- Nàng là vợ bé của quan, trở lại đồn binh để học mà biết cách cư xử, chuẩn bị cho sự nghiệp của chồng.
Mùi Nái đuổi bọn lính:
- Các người đi khỏi nhà tôi! Tôi làm vợ bé của hắn bao giờ?
- Từ cái đêm đưa bà từ nhà giam về buồng quan Quản.
- Đồ dã man! Đó đâu phải là phong tục của người Dao?
Bọn lính nói hết chuyện Mùi Nái chống lại khi bị bắt về đồn. Quản Khé cười hềnh hệch:
- Nàng cứ nói xấu ta, không tin tưởng ở chồng thế sao?
Mùi Nái im lặng. Quản Khé nổi khùng:
- Làm tay sai mà không sướng à? Việc lớn thì đã có chủ lo, việc bé thì đã có con hầu đứa ở. Ta chỉ việc lượn lờ như con cá thấy mồi ngon đớp miếng, may ăn to, rủi ăn nhỏ, có mất trắng đâu mà lo. Tay sai, mẹ cha đứa nào bảo ta là tay sai. Đã thế Khé này cho biết tay.
Quản Khé sai lính đi mai phục khắp các ngả đường. Chúng bắt được mấy người đi từ phía núi Hoàng Liên Sơn sang Khuổi Nghè. Quản Khé nghi ngờ là Việt Minh, cho lính trói chân, tay, buộc người này với người kia bằng một sợi dây chão to. Người nào cũng bị hắn đánh bằng roi da trâu lằn vết rớm máu trên mặt. Những đôi mắt của họ rất sáng nhìn cảnh vật xung quanh. Bị đánh đập họ không kêu la; bị trói chặt thành hàng mà họ cử động không vướng nhau; đó là điều kỳ diệu chỉ có ở những con người diệu kỳ. Mùi Nái đứng trong nhà nhìn ra sân qua lỗ châu mai, chăm chú nhìn đoàn người, trong đầu nghĩ tới đàn chim lửa, ríu rít chuyền qua những tán lá rừng, nhanh nhẹn nhưng đồng đều chính xác. Đoàn người gan góc như thách thức sự lựa chọn im lặng của cô. Mùi Nái tự hỏi: “Mình là ai? Mình phải làm gì?”.
Trằn trọc, rồi chợp mắt, Mùi Nái thấy mẹ đeo giỏ vào vai cô. Mẹ đưa cô lên nương hái rau rừng, vừa leo dốc vừa khuyên nhủ điều hay lẽ phải. Mẹ bảo cô phải biết quý trọng dân làng, những người đời trước nối đời sau đã sinh ra và nuôi dạy gia đình, tổ tiên của cô thành người nhân hậu.
- Vậy con là ai?
Mẹ chỉ nhìn mà không trả lời câu hỏi của cô. Cô thấy mình có bổn phận phải tự trả lời cho chính nỗi băn khoăn trong lòng lâu nay.
- Mình vẫn phải là người của đoàn thể.
Mùi Nái choàng tỉnh, bật ngồi giữa giường ngơ ngác nhìn ra xung quanh. Cô biết mình nằm mơ, ngẩn ngơ tiếc giấc mơ dang dở. Cô tự nhủ lòng: “Hãy biến giấc trở thành chuyện thật cuộc đời mình. Để đối phó được với người chồng bất đắc dĩ là không dễ dàng, mình còn trẻ lại đang phải sống đơn độc nơi hang hùm miệng sói. Khó mấy cũng làm đi Mùi Nái, lùi bước sẽ không xứng đáng là người của đoàn thể cách mạng”.
Bàn Sáng nói với Bàn Tiên về mấy người vừa bị lính đồn bắt:
- Tôi thấy có đồng chí An hôm trước đã đến Khuổi Nghè gặp cán bộ. Thương lắm cán bộ à, Quản Khé đánh vào mặt họ bằng roi da trâu đến bật máu.
- Ta phải tìm cách bắt liên lạc với họ. - Bàn Tiên bảo Bàn Sáng - Hẹn địa điểm gặp Mùi Nái xem có cách gì giúp được không - Thấy Bàn Sáng ậm ừ tỏ ý ngại, Bàn Tiên nói lời thông cảm - Tôi biết các bạn buồn nhiều vì hai bạn đã lâm vào hoàn cảnh khó là vợ chồng của nhau. Các bạn coi đó là sự hy sinh cho việc lớn của làng.
- Cán bộ nghĩ việc này là do mình gây ra à? Không phải thế đâu, tôi sẽ nói cho Mùi Nái hiểu.
Nhân lúc quân lính kéo nhau đi càn, Bàn Sáng đến nhà quan Quản tìm gặp Mùi Nái. Bàn Sáng lên tiếng:
- Chúng mình nói chuyện được không?
- Mùi Nái vẫn nói chuyện nhiều với Bàn Sáng mà.
- Là chuyện trước đây định làm vợ chồng của nhau kia.
Mùi Nái lúng túng nhưng rồi trấn tĩnh:
- Mùi Nái biết là mình có tội với Bàn Sáng.
- Bàn Sáng không giận Mùi Nái mà chỉ muốn hai chúng mình thật lòng thông cảm.
- Bàn Sáng mở lòng thì Mùi Nái mới dám nói thật lòng mình. Vì bị bắt buộc nên Mùi Nái mới là vợ bé của Quản Khé. Phụ nữ người Dao ta không quen đổi chỗ ngồi khi số phận đã sắp đặt cho đời người. Mùi Nái đành nhắm mắt cho hắn cái xác vô hồn. Hồn Mùi Nái vẫn ở với dân làng Khuổi Nghè. Mùi Nái luôn kính trọng trưởng làng Bàn Văn Củi, người đã cúng ma cho Mùi Nái ngày mẹ sinh con trên đời. Mùi Nái nhắm mắt cũng không quên được người bạn trai từ thuở nhỏ ngày ngày dắt tay nhau đi xúc cá, chăn trâu. Mùi Nái nói thế là có tội với thần thánh, vì mình đã là gái có chồng.
Mùi Nái hướng mặt về phía làng Khuổi Nghè, chắp tay cầu khấn:
- Bây giờ thì Mùi Nái quyết cùng đoàn thể giải phóng quê hương. Đó là thực lòng, không dám gian dối, thần thánh xá tội cho gái trẻ này.
- Cán bộ Bàn Tiên muốn gặp Mùi Nái.
Mùi Nái ghé vào tai Bàn Sáng nói địa điểm hẹn gặp Bàn Tiên.
Đêm hôm sau Bàn Tiên xách một túi quả đào đến điểm hẹn gặp Mùi Nái. Trong đêm không rõ mặt người nhưng Bàn Tiên biết Mùi Nái đang khóc thầm: “Mùi Nái khóc vì cán bộ vẫn còn tin tưởng Mùi Nái”. Bàn Tiên nói nhanh việc phải bắt liên lạc với cán bộ An đang bị Quản Khé giam giữ. Bàn Tiên lóng ngóng đưa vào tay Mùi Nái túi quả, rơi quả xuống đất. Mùi Nái đưa chân gạt đất lấp kín đề phòng bị phát hiện dấu vết.
Hai người bịn rịn chia tay.
*
Cổng Trời - Khuổi Nghè lọt vào tay Trương Phát. Bàn Tiên được giao nhiệm vụ đoàn kết, hợp tác giữa Việt Minh với phái do Trương Phát đứng đầu nhằm thống nhất chống giặc ngoại xâm đang lăm le xâm lược. Bàn Tiên vận động Quản Chiểu, hắn vội vã đồng tình như đang đứng ngược chiều gió xoay sang cho thuận. Đối với Trương Phát và đội quân khố xanh của Tà Khé, Bàn Tiên kêu gọi đoàn kết nhưng họ một mực chống lại. Bàn Tiên giao cho anh Tòng chỉ huy du kích bao vây chặt đồn binh Cổng Trời. Trương Phát thấy không thể ngoan cố đành giao cho hai tên lính đại diện và chọn Mùi Nái là vợ bé của Tà Khé làm con tin ra chân đồn gặp Bàn Tiên. Tà Khé chờ lâu không thấy hai tên lính và vợ trở lại hậm hực ra lệnh cho lính khênh khẩu súng đại liên ra cổng đồn, đặt chĩa nòng về phía du kích. Chưa đặt xong súng bọn lính đã bị tổ du kích luồn sâu tóm gọn. Trương Phát vội vàng cho người mời Bàn Tiên vào đồn binh đàm phán thương lượng.
Đoàn đàm phán của lãnh đạo Việt Minh làng Khuổi Nghè có ông Củi, Bàn Tiên, anh Tòng và Sìa Páo. Trương Phát cho tổ chức lễ đón long trọng để tỏ ra là một lực lượng bề thế, áp đảo đối phương. Binh lính xếp hàng hai bên đường bồng súng chào. Phòng hội đàm Trương Phát cho bố trí lộng lẫy: Một dãy bàn gỗ trải khăn vải hoa; phía bên Trương Phát có cờ đuôi nheo in hình mặt trời trắng trên nền xanh - bạch nhật thanh thiên, cờ của ông chủ đất láng giềng đã nuôi dưỡng hắn; phía bên Việt Minh có cờ đỏ sao vàng. Ngồi cạnh Trương Phát là viên tướng tư lệnh quân đoàn lính nước láng giềng. Viên tướng mặc trang phục nhà binh, hai ria mép vểnh luôn ngọ nguậy, lộ vẻ lấc láo xảo quyệt. Trương Phát giới thiệu:
- Đây là ông Bàn Tiên, một thanh niên ái quốc, cũng có thời lặn lội nơi đất khách quê người tìm đường cứu nước cùng chúng tôi. Nay ông may mắn về trước chúng tôi tham gia Việt Minh và hôm nay là đại diện phía Chính quyền Lâm thời mới thành lập ở Trung ương.
Viên tướng đứng phắt dậy, lớn tiếng:
- Các ông bảo đại diện Chính quyền Lâm thời, bằng chứng đâu?
Bàn Tiên bình thản:
- Ông Trương Phát giới thiệu rồi, tôi và ông ấy có thời cùng lặn lội nơi đất khách quê người, người thật việc thật là căn cứ làm bằng hơn bất cứ bằng chứng nào.
Viên tướng cúi mặt.
Bàn Tiên nói rõ đường lối đoàn kết và hợp tác của Chính phủ Lâm thời là thành thật, thức tỉnh những người có ý thức dân tộc độc lập, yêu nước thương nòi.
Trong khi Ban lãnh đạo Việt Minh làng Khuổi Nghè tập trung đàm phán với Trương Phát và phái Quốc dân thì Tà Khé thảo mật thư gửi đồng bọn: “Bí mật đánh úp cán bộ Việt Minh đang đàm phán trong đồn binh”. Một người lính khố xanh được giác ngộ trao thư cho Bàn Sáng. Bàn Sáng lặng lẽ chuyển mật thư cho Mùi Nái. Mùi Nái đọc thư mà rùng mình: “Bọn dã man, định thủ tiêu chúng ta”. Bàn Sáng bảo:
- Không được chậm, phải chuyển nhanh cho Bàn Tiên.
Bàn Tiên biết được kế hoạch đánh úp của Tà Khé giả vờ có điện gọi phải về Hà Nội ngay nên rất cần gặp Tà Khé để giao lại công việc ở làng Khuổi Nghè. Mùi Nái chuyển thư hẹn của Bàn Tiên cho Tà Khé. Tà Khé khấp khởi mừng thầm vì kế hoạch quá thuận lợi, Việt Minh đã sập bẫy.
- Vợ yêu ơi, đàn chim lửa sắp bay về tổ rồi, ta sẽ dắt tay nàng dung dăng trên đường làng, rừng của ta, làng của ta, tiền rừng bạc bể là của ta; tất cả là của ta… - Hắn hôn “chụt” vào má Mùi Nái.
- Điên à!
- Còn hơn cả điên ấy chứ, rồi vợ sẽ biết, Việt Minh vẫn tin tưởng ta.
Bàn Tiên ra thác nước Suối Tiên gặp Tà Khé. Mùa đông nước ít nhưng những cột nước từ trên cao vẫn đổ ầm ầm át đi tất cả. Bàn Tiên chìa bức mật thư:
- Tại sao anh lại có bức thư này? - Tà Khé tái mặt, ấp úng. Bàn Tiên nói tiếp - Bây giờ tôi cho anh lựa chọn: Phản bội Việt Minh hay tiếp tục hợp tác?
Tà Khé đành nhận tội không giữ trọn lời hứa và cắm cúi viết tờ cam đoan hợp tác với Việt Minh. Mùi Nái biết chuyện hỏi Bàn Tiên:
- Con người như hắn có cải tà quy chính được không?
- Mùi Nái ơi, đó là chặng đường dài và đầy gian khó.
- Còn hy vọng nhưng Mùi Nái thấy nó tít xa.
Trương Phát kiếm cớ nhùng nhằng để đàm phán không đi đến kết quả. Bàn Tiên nêu lý do phải về Hà Nội ngay. Trương Phát mừng thầm xin gửi người cùng đi về Hà Nội. Bàn Tiên đoán biết âm mưu của Trương Phát cho người cùng đi với đoàn để hãm hại cán bộ, nếu việc không thành thì cũng là cơ hội đưa người về cơ sở Hà Nội tìm cách liên lạc với các nơi trong cả nước.
*
Ba Duy với lực lượng ba đại đội lính khố đỏ từ thời Crê-măng chạy sang nước láng giềng hồi đảo chính được viên tư lệnh quân đoàn trang bị lại về nước cùng Trương Phát làm chủ vùng Cổng Trời - Khuổi Nghè. Dưới quyền Ba Duy là ba quan một tên là Hồ, Giang, Đức chỉ huy ba đại đội. Ba Duy phát hiện Mùi Nái và Bàn Sáng vận động lính khố đỏ ủng hộ Việt Minh liền nói:
- Tôi biết các người đang làm gì với binh lính của tôi, nhưng không bắt đâu. Hai người hãy cho tôi gặp người lãnh đạo cao nhất.
Thị Hoa, người tình của Ba Duy mới đem từ hải ngoại về, dang tay ngăn như với ai đó đứng trước mặt:
- Ngài quan ba có vội vã quá không?
- Thời thế đã thay đổi, anh tự nghĩ khó tìm ra con đường nào khác. - Ba Duy thuyết phục Thị Hoa - Ở Trung ương, Việt Minh đã thành lập Chính phủ Lâm thời; quanh vùng Cổng Trời - Khuổi Nghè, Việt Minh đã giải phóng nhiều nơi…
Thị Hoa chen lời:
- Có một vùng Việt Minh không thể giải phóng.
Ba Duy biết điều Thị Hoa muốn nói là lòng trung thành với Trương Phát và tư lệnh quân đoàn. Biết Ba Duy quyết tâm gặp Việt Minh, Thị Hoa báo cho Trương Phát tìm cách ngăn cản. Trương Phát cho lính mai phục trên đường đi của Ba Duy. Mùi Nái nắm được ý đồ của Thị Hoa muốn dằn mặt Ba Duy, liền báo cho cha:
- Con gái tài moi tin của chúng đến thế ư?
- Thị Hoa không giấu con điều gì.
- Cẩn thận với con người ấy kẻo lại ăn tin giả thì bẽ mặt.
Anh Tòng triển khai cho du kích phục kích lại lũ lính đi phục lõng Ba Duy.
Bàn Tiên biết Ba Duy từ khi còn là Một Duy chỉ huy đại đội lính khố đỏ. Ba Duy là con người lịch lãm, ít dùng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp. Đối với Bàn Tiên, khi nhận lời gặp Ba Duy đắn đo mãi, vì vốn ngoại ngữ của anh khá khiêm tốn. Bàn Tiên quả quyết: Mình và Ba Duy khác nhau ở lựa chọn con đường đi, đã là người vì nước vì dân thì không có khoảng cách. Ba Duy tìm gặp Bàn Tiên đã là phá lệ bất hợp tác giữa kẻ tay sai và người cứu nước. Ba Duy nói bằng tiếng mẹ đẻ:
- Người An Nam không nên ghét nhau.
- Đúng.
- Anh có thể kéo một số lính của Tà Khé về phía mình không?
- Được.
Ba Duy ngẫm nghĩ:
- Nhưng mà thôi, nhờ Trương Phát ta mới về được đây, nay lật hắn ta có phản trắc không? Anh cho tôi gặp Chính phủ Lâm thời Trung ương của Việt Minh được không?
- Bọn chúng đưa ông về nước với mưu đồ lợi dụng lòng yêu nước của ông. Tôi đã từng gặp Trương Phát ở hải ngoại, đó là lũ yêu nước giả hiệu, rước voi giày mả tổ. Chúng là con đẻ của viên tư lệnh quân đoàn. Về lực lượng, quân mà Trương Phát nắm trong tay sánh sao được với đội quân của ông. Đội quân của ông kém gì quân nước mặt trời khi làm đảo chính, vậy mà Crê-măng chỉ chịu đựng được có hai mươi bốn giờ.
Ba Duy thở dài nghĩ tới Thị Hoa.
Thị Hoa là người đàn bà nữ tính, tươi như bông hồng nhung mới hé cánh hoa. Viên tư lệnh quân đoàn nước láng giềng biết Ba Duy là kẻ khát tình đã trao Thị Hoa để có người “nâng khăn sửa gối”, bầu bạn sớm tối. Thực ra Thị Hoa là người của cục tình báo Nam Nam - cơ quan tình báo của quân đội nước láng giềng, có quan hệ chặt chẽ với Crê-măng. Thị Hoa được viên tư lệnh quân đoàn giao nhiệm vụ giám sát chặt chẽ hoạt động của Ba Duy, bảo đảm cho ông ta luôn trung thành với Trương Phát đang là kẻ bầy tôi của nước láng giềng. Được Thị Hoa chiều chuộng, con người Ba Duy trở nên nho nhã, lịch thiệp, mọi vẻ cứng cáp, lên gân của nhà binh như tan biến. Thực tình mà nói, Ba Duy vì nhan sắc đàn bà mà mất hết nhuệ khí cũng không sai. Thị Hoa sai khiến Ba Duy mọi lúc mọi nơi, trước hàng quân và trên bàn tiệc. Ba Duy cũng có lúc nghĩ lại, giật mình vì không còn là mình nữa. Hôm nay Ba Duy thử một lần trở lại chính mình với những suy xét thời thế cùng những mưu kế trận mạc:
- Tôi đã một lần lạc vào chốn giả dối, yêu nước giả hiệu, lửa tình cạm bẫy. Hôm nay tôi sẽ là tôi. - Ba Duy tự nhủ.
Mùi Nái biết Ba Duy là chỉ huy lính khố đỏ bên cạnh Quản Khé chỉ huy lính khố xanh dưới quyền thống lĩnh của Crê-măng. Ngay khi đặt chân tới đồn binh, Ba Duy đã giới thiệu với Thị Hoa:
- Đây là vợ bé ngài quan Quản chỉ huy lính khố xanh.
Hai người đàn bà cùng cảnh vợ quan thân nhau lúc nào không biết. Mùi Nái cứ hễ nhìn thấy Thị Hoa lại reo lên:
- Ôi bà chị của em trẻ đẹp, nữ tính như con gái mười tám đôi mươi!
Thị Hoa không giấu sung sướng:
- Được ở bên quan Ba chỉ huy lính khố đỏ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa nên trơn lông đỏ da, xuân sắc trở lại như thế đấy.
Nhìn hai người đàn bà xoắn xuýt, Ba Duy cười:
- Hai bà phải lòng nhau rồi. Bằng kinh nghiệm cuộc đời tôi cược là hai người không xa được nhau.
Thị Hoa lườm Ba Duy:
- Đàn ông đa nghi lại hay đoán mò là không hay đâu. - Thị Hoa nắm bàn tay Mùi Nái ngắm nghía - Lòng dạ đàn ông dễ thay đổi là sao nhỉ?
Mùi Nái chưa hiểu Thị Hoa định nói gì. Thị Hoa vỗ nhẹ vào lưng Mùi Nái:
- Đứng ngây người như con nai lạc mẹ, thương ơi là thương. - Thị Hoa ghé tai Mùi Nái thì thầm - Em có thấy nét mặt Ba Duy thay đổi không? Chàng đang như kẻ mất hồn ấy, chị nói to cũng giật mình như trẻ ăn vụng bị bắt quả tang.
- Đàn ông chỉ có chết trong tay chị chứ bỏ sao được.
- Bà Quản nghĩ thế thật sao?
- Em cược.
- Chị luôn hết lòng vì chồng, chẳng may có chuyện gì thì khó sống lắm. Chị chuẩn bị sẵn sàng rồi, một liều thuốc độc đặc hiệu.
- Chị liều thật đấy, em cầu mong cho chuyện ấy không bao giờ xảy ra.
- Em thật tốt, chị cảm ơn!
Ba Duy gặp lại Bàn Tiên:
- Đây là mệnh lệnh của tôi cho chỉ huy cấp dưới thuộc quyền. Tôi chỉ xin một điều, cho Thị Hoa đi cùng tôi về Hà Nội, công việc ở đây cấp dưới của tôi có mặt là đủ.
Bàn Tiên giao mật lệnh của Ba Duy cho Bàn Sáng. Ba Duy yêu cầu:
- Nếu các ông thuyết phục được bà Quản chuyển mật lệnh cho thuộc cấp của tôi thì thật yên tâm.
- Chúng tôi sẽ thực hiện theo yêu cầu của quan Ba.
Bàn Tiên tiễn Ba Duy ra ô tô. Bàn Tiên gặp Mùi Nái ra xe tiễn Thị Hoa. Bàn Tiên hỏi nhỏ:
- Họ đi với nhau được đến bao giờ?
- Điều đó còn phụ thuộc việc làm của chúng ta ở đây. Nếu không sớm bại lộ và kết quả tốt thì có thể cứu được cả cuộc đời họ.
- Hay lắm, bắt tay vào công việc đi.
Mùi Nái trao cho Một Hồ mật lệnh của Ba Duy. Một Hồ triệu tập Một Giang, Một Đức bàn thực hiện kế hoạch binh biến. Một Hồ yêu cầu Bàn Sáng đóng giả tội phạm bị quân khố đỏ bắt với lời hứa như đinh đóng cột:
- Tôi bảo đảm an toàn tính mạng cho anh.
Buổi sáng hôm sau, binh lính khố đỏ luyện tập như mọi ngày. Trương Phát ngồi trong phòng rộng có cửa nhìn ra cả sân trước, sân sau đồn. Một Hồ vừa bước vào phòng thì binh sĩ dưới quyền hớt hải chạy đến:
- Thưa sếp, đã bắt được tên ăn cắp súng.
Trương Phát gạt tay chỉ thị:
- Chờ ở ngoài để xử sau.
Cánh cửa trước đóng lại. Trương Phát nhìn qua cửa sau, nơi một đơn vị khố đỏ đang luyện tập:
- Tôi không nhầm thì hôm nay binh lính có gì khác thường?
Một Hồ bình thản:
- Thưa sếp, binh lính vẫn tập như thường lệ.
Trương Phát vẻ mặt đầy linh tính, giắt vội khẩu súng lục trên bàn vào cạp quần.
Một hồi kèn cơm của binh sĩ vang lên. Một lúc sau hồi kèn súp của sĩ quan chưa dứt thì có tiếng hô hoán ầm ĩ:
- Tù sổng! Tù… sổng…
Đó là hiệu lệnh, binh lính của Một Hồ ập vào phòng Trương Phát.
Trương Phát bị bắt nhưng Ba Duy đang ở Hà Nội. Một Hồ nhất định chờ Ba Duy mới phối hợp với Việt Minh. Bàn Tiên ngạc nhiên hỏi như hỏi chính mình:
- Tại sao lại có chuyện như thế này?
Một Hồ bảo Bàn Tiên:
- Tôi đã chấp hành mệnh lệnh của Ba Duy. Tôi còn phải chấp hành lệnh của Thị Hoa: “Tuyệt đối không được hợp tác với Việt Minh khi Ba Duy không có mặt!”.
Bàn Tiên ngửa mặt lên trời:
- Thì ra “lệnh ông không bằng cồng bà”.
Bàn Tiên nói với Mùi Nái:
- Tôi có lỗi vì đã chậm phát hiện ra con người thật của Thị Hoa. Thật không sai khi nói: Có những cái nhìn thấy mà vẫn không biết.
Ba Duy chưa kịp gặp Chính phủ Lâm thời ở Hà Nội đã vội vã ngược lên biên giới, để lại Thị Hoa và đám người hầu thưởng thức cuộc sống quý phái của Hà thành.
Gặp Ba Duy, Bàn Tiên đề nghị:
- Giao Trương Phát cho Việt Minh.
Ba Duy gạt phắt:
- Để Trương Phát đi Hà Nội cùng tôi.
- Không cần thiết phải đưa một kẻ phản động về Hà Nội.
Ba Duy trầm ngâm. Ba Duy nghe văng vẳng bên tai lời Thị Hoa: “Bằng giá nào cũng phải cứu được Trương Phát khi chưa phải là kẻ tội phạm của Chính phủ Lâm thời. Ngài tư lệnh quân đoàn giao tôi cho quan Ba là để đạt mục đích nâng đỡ Trương Phát”. Ba Duy lẩm bẩm: “Cái bẫy đàn bà, mỹ nhân kế”. Ba Duy thở dài: “Tình thế đang thay đổi, ta phải là ta mới mong vượt qua cơn phong ba bão tố này”. Ba Duy đồng ý giao Trương Phát cho Việt Minh.
*
Bàn Văn Tòng đổ mọi tội lỗi lên đầu con gái. Anh phăm phăm lên đồn binh, bụng bảo dạ: “Sẽ cho nó một trận, lành làm gáo vỡ làm môi, ăn ở hai lòng với dân làng thì cút theo cái thằng chồng khốn nạn ấy đi”. Mùi Nái đang chụm đầu cùng Một Hồ và anh em binh biến bàn kế hoạch giữ đồn. Tòng nghe loáng thoáng nhưng lạ tai và hấp dẫn bèn đến gần. Mùi Nái phân công rõ ràng và quyết định dứt khoát:
- Nếu Quản Khé và đồng bọn đông thì ta kiên quyết đánh bật ra, nếu chúng chỉ có vài người thì ta bắt sống giao cho dân làng xử tội.
Bàn Văn Tòng đứng ngồi không yên:
- Chẳng lẽ nó báo cho thằng chồng khốn nạn tẩu thoát để rồi lập kế bắt sống, không còn biết nó như thế nào nữa.
Bàn Văn Tòng đợi cho mọi người ra cửa. Anh sa sầm nét mặt nhìn con gái, giọng bực dọc:
- Cô giả vờ giỏi lắm, giúp chồng tẩu thoát lại còn ra vẻ trung thành với dân làng, bày kế tiêu diệt.
- Cha cũng nghĩ về con như thế sao? Con không biết con phải sống như thế nào thì cha mới hiểu cho nỗi lòng con.
- Cha nói thế thôi, không được nghĩ quẩn, làm liều.
- Thì cha đang khó sống vì có con gái lấy quan Quản làm chồng đấy thôi.
- Không, không... - Anh Tòng vội xua tay vì sợ con gái nghĩ quẩn lại liều thân thì biết nói sao với người vợ xấu số nơi chín suối.
Một Hồ nghe đối đáp qua lại của cha con Mùi Nái, chạnh lòng nhớ tới câu chuyện với Thị Hoa. Một Hồ đã nghe theo lời Thị Hoa làm khó cho cán bộ Việt Minh trong việc không giao nộp Trương Phát khi Ba Duy vắng mặt, hẳn là đã làm cho mọi người thiếu tin vào quyết tâm lập công chuộc tội, trở về với dân với nước của viên quan lính khố đỏ này. Một Hồ đến bên Mùi Nái:
- Lần này tôi nghe theo bà bày binh bố trận không biết rồi kết quả sẽ ra sao? Làm việc lớn mà nghe theo đàn bà, hậu quả thật khó lường.
Quản Khé trở lại đồn nhưng không phải theo cách mà Mùi Nái dự kiến mà đó là cuộc hành binh của quân viễn chinh do Crê-măng chỉ huy nhằm lần thứ hai chiếm Khuổi Nghè - Cổng Trời và vùng Tây Côn Lĩnh để lập ra ở đây xứ tự trị có cái tên rất đẹp: Xứ Hoa, có chính quyền, mạng lưới gián điệp, quân đội xứ tự trị nhằm mục tiêu lâu dài: Khép chặt biên giới, ngăn chặn Việt Minh bắt tay với thế giới bên ngoài. Ý tưởng của Crê-măng là lớn, loài hoa mà hắn mường tượng hẳn không chỉ đẹp mà còn tiêu diệt được những sinh linh dám đến gần, chia rẽ các dân tộc nhằm đối phó với chủ trương đoàn kết nhân dân để tạo sức mạnh đấu tranh. Hành động của Crê-măng mau lẹ và quyết liệt: Cánh quân đánh chiếm làng có một nhân viên phòng nhì người gốc Khuổi Nghè dẫn đường nên nhanh chóng đẩy đội du kích do anh Tòng chỉ huy vào sâu rừng già Suối Tiên. Quân viễn chinh quyết đánh bật lực lượng binh biến, thực hiện chiếm đồn binh Cổng Trời - một vị trí được Crê-măng xác định từ khi giao việc cho binh lính là rất quan trọng trong mục tiêu chiếm đóng lâu dài vùng biên ải.
Ngày đầu, Crê-măng bảo Mùi Mẩy:
- Người đẹp thông thạo đường rừng hãy dẫn hai trăm quân tiến đánh đồn Cổng Trời từ hướng Bắc.
Một Hồ chờ quân viễn chinh đến gần, bất ngờ nổ súng tiêu diệt hai tên. Mùi Mẩy dẫn đường cho quân viễn chinh chiếm núi cao phía Bắc, dùng súng cối bắn vào đồn để uy hiếp. Hôm sau, Mùi Mẩy dẫn đường cho quân viễn chinh chiếm đỉnh núi cao phía Tây làm bàn đạp cho các mũi tiến công vào đồn. Một Hồ chỉ huy quân dựa vào các lô cốt cũ đánh trả quyết liệt. Xác chết quân viễn chinh ngổn ngang trước cổng đồn. Mùi Mẩy dẫn quân viễn chinh vòng hướng Nam, cắt đứt đường liên lạc đồn binh với làng Khuổi Nghè. Đại đội do Một Hồ chỉ huy chiến đấu bảo vệ đồn hy sinh chỉ còn lại năm chiến sĩ. Một Hồ bị thương mất máu nhiều. Mùi Nái bảo anh em còn lại dìu Một Hồ lên hang đá Suối Tiên. Mùi Nái băng vết thương cho Một Hồ. Mùi Nái nói với các chiến sĩ:
- Phải để Đại đội trưởng nằm im, cử động lại chảy máu đấy. Chú ý giữ bí mật, tôi đi tìm thuốc và lương thực. Chúng ta phải ở đây để chữa vết thương cho anh Hồ.
Mấy ngày sau, vết thương đã đỡ, Một Hồ bảo Mùi Nái:
- Tôi ơn bà Quản nhiều, đã chữa cho tôi lành vết thương. Ngày mai tôi sẽ trở lại quê hương. Tôi đi làm phu ở bến cảng thì bị bắt đi lính. Có lẽ tôi sẽ trở về đó. Tôi mong được gặp lại bà để đền đáp công ơn.
Sau ngày chiếm đóng, quan Ba chỉ huy đồn binh giao cho Quản Chiểu rêu rao tung hỏa mù về Xứ Hoa tự trị:
- Phải làm cho mọi người thấy nó đẹp mà tìm đến. Khi họ đến rồi mọi việc để ta lo.
Cơ quan gián điệp không thể lộ diện do Crê-măng nắm giữ. Dồn quân, bắt lính xây dựng đội quân Xứ Hoa do Tà Khé chỉ huy. Crê-măng chọn mấy kẻ hư hỏng ở làng Khuổi Nghè trang bị súng trường, cả bao đạn và một vài đồ ăn đóng hộp được sản xuất từ nước con gà đem sang. Trẻ con Khuổi Nghè lạ lẫm với những thứ mới, tò mò nhìn ngó. Chúng hò hét đánh trận giả theo kiểu quân viễn chinh đánh chiếm đồn, bắt vài người làm tù binh, thổi kèn cuốn bằng lá chuối rừng để thu quân, chia cho tù binh quả này, quả kia. Mùi Nái nhìn lũ trẻ con mà lòng xót như xát muối mặc dù biết lũ trẻ chỉ là vô tư bắt chước.
Mùi Nái lững thững một mình lên thượng nguồn Suối Tiên. Đã lâu Mùi Nái không đi trên con đường rừng quen thuộc này. Càng đi Mùi Nái có cảm giác trở lại thời con gái cùng mẹ vào rừng hái rau, xúc cá. Mùi Nái thấy trong lòng nhẹ nhõm với cái cảm giác trẻ thơ trở lại. Mẹ vội ra đi trong tủi nhục để lại cho Mùi Nái sự khổ đau uất hận quân thực dân đế quốc. Mùi Nái đau đớn, dằn vặt trong tình thế bị dồn đến chân tường, mất trinh tiết không đến được với người mình yêu. Mùi Nái đã lựa chọn con đường cùng dân làng đoàn kết chống quân xâm lược. Mùi Nái sung sướng vì thấy mình được tự do lựa chọn. Cuộc đấu tranh của nhân dân bị kẻ thù đàn áp dã man. Mùi Nái không thấy mình cô độc, tổ chức luôn ở bên dìu dắt. Má Mùi Nái đụng vào cành lá chắn ngang. Mùi Nái chớp chớp mắt như bừng tỉnh. Bàn Tiên đang đứng đợi đầu nguồn nước:
- Chúng mình sẽ cùng nhau đi tiếp chặng đường kháng chiến trước mặt. Cảm ơn Mùi Nái nhiều nhé!
- Cán bộ Bàn Tiên chia tay Khuổi Nghè?
- Bàn Tiên được tổ chức phân công sang công tác ở đơn vị vũ trang, sẽ gặp lại Mùi Nái ở đâu?
- Mùi Nái sẽ như con chim lửa, ríu rít cùng đàn ở tán rừng Khuổi Nghè, bay chuyền đậu lô cốt đồn binh Cổng Trời đợi đón cán bộ về làng.
- Thật như thế sao?...