Sau hai tháng hành quân, đầu tháng 7 năm 1972, chúng tôi vào đến trạm nghỉ gần Binh trạm 42 (A Lưới) thì được tạm nghỉ ít ngày để dưỡng sức và cũng là chờ cán bộ đến tiếp nhận về Trung đoàn 6. Đang là mùa mưa, mưa ở A Vao, A Lưới xối xả trắng trời. Những ngày chờ đợi chúng tôi chỉ có nhiệm vụ vào rừng lấy rau, xuống bếp giúp anh em nuôi quân, sửa chữa lại doanh trại, kho tàng… Cán bộ trạm biết chúng tôi mới ở Bắc vào nên luôn luôn quán triệt đủ thứ bí mật, nhất là khi nấu nướng, phơi phóng quần áo… Những gì mà máy bay trinh sát OV-10 của địch có thể phát hiện được đều phải bí mật! Có lẽ từ quán triệt giữ bí mật ấy của cán bộ trạm nghỉ nên chỉ huy hành quân mới nghĩ ra một cuộc thi “Nấu cơm giữa trời đang mưa”.
*
Ban đầu cánh lính mới chúng tôi có ý kiến: “Trời mưa thì hầu như máy bay trinh sát của địch không hoạt động. Trời mưa thì khói không lên được, không qua được dưới tán lá dày đặc của rừng già, trên tán rừng già thì mây mù trắng xóa trời tối âm u… nấu cơm làm sao lộ bí mật được?”. Nhưng cán bộ dẫn quân thì có cái lý của họ. Rằng ở Trường Sơn một năm có đến sáu tháng mùa mưa, không biết nấu cơm dưới trời mưa thì sẽ phải nhịn đói, nấu được bữa cơm dưới trời đang mưa là một trong những kỹ năng của người lính chiến trường phải biết: “Đi không dấu, nấu không khói”.
Thế là cuộc thi “Nấu cơm giữa trời đang mưa” được ấn định. Đại đội tôi có bốn trung đội tổ chức thành bốn tổ thi nấu cơm. Đầu bài thi rất ngắn gọn: “Đặt bếp trên mặt đất, không đào bếp Hoàng Cầm; nấu không khói, tổ nào nấu cạn cơm trước là thắng cuộc”. Trời thì mưa rả rích, có lúc nước đổ xuống như trút, đất rừng nhão ra như cháo, trơn trượt. Bốn tổ thi nấu cơm về bốn góc rừng rồi mà vẫn chưa nghĩ cách làm thế nào bắc bếp lên được. Một vài anh em đã cắm cây, lợp lá thành bếp để che mưa, chắn gió nhưng không thể tìm ở đâu ra củi khô mà châm bếp. Sờ đến que củi nào, kể cả củi đã khô giữa mùa mưa cũng đã no nước rồi. Tổ nào cũng cử lính bí mật trinh sát các tổ khác xem dùng củi gì để nấu. Khổ nhất là mấy chàng lính sinh viên cứ lớ nga lớ ngớ. Ôm một bó củi tưởng là khô về bếp, chẻ đến đâu nước chảy ra đến đó.
Tự nhiên tôi bỗng nhớ ra, liền cầm dao xuống sườn đồi tìm mấy cây săng lẻ, một loại cây phổ biến ở Trường Sơn, vùng rừng nào cũng có. Săng lẻ là một loại cây thân gỗ, mọc thẳng, ruột chắc, đặc và rất khô, tước ra từng mảnh một là có thể đốt cháy ngay. Tôi chọn một cây săng lẻ to bằng bắp chân, chặt ra mấy khúc mang về bếp. Chúng tôi chẻ cây săng lẻ thành từng thanh mỏng như đóm hút thuốc lào. Để đóm nhanh khô tôi về hầm múc một muôi mỡ hóa học (loại mỡ ăn đựng trong can nhôm rất phổ biến đối với bộ đội trong những năm chiến tranh giải phóng), xé một miếng khăn tẩm mỡ vào đốt lên và hơ nắm đóm săng lẻ qua ngọn lửa. Cứ thế đặt vào bếp đóm săng lẻ cháy như củi khô mùa hè hết nắm này sang nắm khác. Đặc biệt của củi săng lẻ nữa là rất ít khói. Chẳng mấy chốc nồi cơm của chúng tôi đã sôi cạn. Chúng tôi chạy sang các bếp bạn, vẫn chưa có ai chụm được bếp. Nghe tôi nói, ai cũng tròn mắt không tin cho đến khi vào bếp chúng tôi mở vung ra thấy nồi cơm đã sắp chín.
*
Chuyện nấu cơm giữa trời mưa, tôi còn gặp lại khi tôi là giáo viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 dẫn học viên đi diễn tập tổng hợp trên núi Ba Vì. Trưa hôm ấy khi các bếp nuôi quân vừa nổi lửa thì gặp một trận mưa ập đến. Nhiều bếp Hoàng Cầm đào không đúng kỹ thuật bị nước dồn vào bếp tống cả củi đang cháy ra khỏi đáy nồi. Để bộ đội có cơm kịp ăn trưa chúng tôi đã phải cắt tình huống diễn tập và cho các bếp đặt nổi trên mặt đất. Tuy nhiên giữa trời mưa để đủ củi khô nấu một bữa ăn cho cả chục người không phải là chuyện dễ. Tôi tìm mấy cây săng lẻ cạnh hầm và bảo học viên chặt xuống chẻ mỏng ra mà nấu. Củi săng lẻ cháy vừa đượm, ngọn lửa như củi khô lại vừa ít khói ai cũng tấm tắc khen. Đấy cũng là một bài học, bài học rất thực tế tôi truyền lại cho học viên của mình.
Hôm ấy tôi lại nhớ cuộc thi nấu cơm giữa mùa mưa Trường Sơn hơn chục năm trước. Khi tổ bếp của tôi thắng cuộc anh cán bộ hậu cần của trạm nghỉ nói rằng anh ở Trường Sơn bao năm rồi mà vẫn không phát hiện được hữu ích của cây săng lẻ. Thế là chiều hôm sau, khi trời mưa tạnh, nắng hửng lên anh đề nghị tôi giới thiệu cho lính nuôi quân trạm nghỉ và anh em chiến sĩ đại đội nhận biết cây săng lẻ. Đó cũng là một cách học. Tôi thì học lại trong quá khứ những năm còn học sinh kéo xe hai bánh lên rừng đốn củi. Những đêm mưa các bác, các chú đã dạy cho cách tìm củi săng lẻ nấu cơm giữa trời mưa. Và bây giờ, thực tế của những năm tuổi thơ ấy đã giúp tôi “thắng một cuộc thi” trước khi thực thụ là một người lính trên chiến trường.