• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 42
  • Sau

Đường Trường Sơn - Ký ức những bàn chân

Chúng tôi vừa có một cuộc gặp mặt đầy xúc động tại điểm xuất phát đầu tiên của cuộc đời binh nghiệp. Nơi đó trước kia là một cánh rừng già và bây giờ là một trường tiểu học khang trang mọc lên thuộc xã Nghĩa Hội, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Những người lính gần nửa thế kỷ trước là những cậu học sinh phổ thông, những sinh viên dang dở Trường Đại học Sư phạm Vinh bây giờ nhiều người đã lên chức ông bà, những cụ già U70… Vậy mà khi gặp nhau dường như họ còn trẻ hơn cả cái tuổi ngày mới vào quân ngũ. Sau bốn tháng huấn luyện, ngày 2 tháng 5 năm 1972 chúng tôi nhận lệnh hành quân vào miền Nam chiến đấu. Bước chân ra khỏi doanh trại huấn luyện hướng bàn chân về miền Nam có thể coi cuộc chiến đấu đã bắt đầu!

Ngày đầu tiên là một ngày thật đáng nhớ. Mờ sáng chúng tôi xuất phát từ Nghĩa Hội. Sau bốn tháng luyện tập, những thanh niên nông thôn nghèo, những cậu sinh viên vừa xếp bút nghiên đã rắn rỏi hơn, khỏe mạnh hơn. Ngoại trừ lễ xuất quân trang trọng, thời gian cuộc hành quân ấy được giữ bí mật nên trước và trong ngày hành quân đầu tiên không có một người thân, hoặc gia đình chiến sĩ đến đưa tiễn. Đêm đầu tiên của cuộc hành quân chúng tôi nghỉ lại một làng nhỏ huyện Yên Thành. Tôi ở trong nhà một bà mẹ, chắc trạc tuổi mẹ tôi. Bà mẹ hiền hậu có người con trai đang chiến đấu ở miền Nam, nhường lại chiếc giường duy nhất cho chúng tôi ngủ. Sau hai ngày chúng tôi nghỉ nhà mẹ, mờ sáng hôm sau báo thức hành quân đã thấy mẹ ngồi ngoài sân chờ tiễn chúng tôi. Mẹ không nói gì nhưng đôi mắt lưu luyến và khắc khoải. Đơn vị hành quân cứ hai ngày thì nghỉ một ngày, có lúc qua trọng điểm đánh phá của máy bay địch thì hành quân ban đêm, ban ngày nghỉ…

Đi hết đất Quảng Bình mới chính thức đặt chân lên dãy Trường Sơn. Đêm Trường Sơn, trục đường bộ đội hành quân không trùng với trục đường xe ô tô vận tải lương thực, vũ khí… vào Nam. Đó là con đường mòn len lỏi triền núi, ven sông luồn lách dưới rừng già. Mỗi chặng đường dài chừng một ngày hành quân bộ thì đặt một trạm nghỉ có người thì gọi nôm na là “bãi khách”. Trạm nghỉ thường là một vị trí bằng phẳng rộng, có thể trú được cả tiểu đoàn bộ binh và là nơi tiếp tế bổ sung lương thực, vũ khí đạn dược cho đoàn quân ra vào. Trạm nghỉ nào ở hai đầu đường hành quân cũng đều có một cổng chào làm bằng tre nứa, cây rừng. Mặt cổng chào đường hành quân vào thì có khẩu hiệu: “Kính chào những người con ưu tú của miền Bắc xã hội chủ nghĩa vào giải phóng miền Nam”. Mặt cổng chào đi ra thì có khẩu hiệu: “Kính chào những người con ưu tú đã hoàn thành nhiệm vụ trở về”… Con đường hành quân ấy dưới tán rừng già Trường Sơn lúc nào cũng nườm nượp quân vào, quân ra. Trên đầu những đoàn quân không khi nào ngớt tiếng vo ve của máy bay trinh sát OV-10 của địch. Chỉ cần một dấu hiệu đáng nghi ngờ là có thể máy bay B-52 ập đến trút xuống hàng loạt bom. Có những chặng đường hành quân, đơn vị đến trạm nghỉ thì trước đó trạm nghỉ vừa hứng hàng loạt bom B-52, rừng tan nát, trên những cành cây còn vương những mảnh vải quân phục, những búi tóc người...

Đường hành quân càng đi vào chiếc ba lô trên vai càng vơi đi, những đôi chân càng nặng nề. Có người bàn chân rộp phồng lở loét. Nhiều người còn vứt bỏ hết áo ấm (còn gọi là áo Bà Định), quân phục chỉ giữ lại một đến hai bộ, tư trang cá nhân mang từ Bắc vào cũng trút bỏ, bỏ được lạng nào, cân nào trên vai là cảm nhận được. Có người chỉ còn lại trên vai khẩu súng, bao gạo, túi thuốc cá nhân và bộ quân phục. Càng đi vào, càng gian khổ, càng ác liệt. Trên trục đường Trường Sơn không ngày nào không hứng bom B-52, pháo kích, biệt kích mật phục, không ngày nào không có người hy sinh,...

Ngay trên chặng đường hành quân đã xuất hiện những cán bộ, chiến sĩ có tư tưởng sợ gian khổ, sợ hy sinh. Tiểu đoàn tôi ngày ấy có khoảng gần 500 sinh viên, giáo viên Đại học Sư phạm Vinh được tổng động viên. Trên đường hành quân vào thỉnh thoảng có chiến sĩ đào ngũ, chúng tôi gọi là B quay. Có chiến sĩ giả vờ ốm, không ăn uống gì anh em thay nhau cáng từng đoạn, khi anh em phát hiện ra cậu ta giả vờ thế là họ thả uỵch cáng thật mạnh, bắt cậu ta dậy đi…

Ngược chiều với quân vào là quân ra. Quân đi ra không nhiều, không đoàn đoàn lớp lớp nhưng nếu dừng lại một điểm nghỉ trên chặng đường hành quân cũng có thể dễ nhận thấy: Đội quân đi ra thường là những người xanh xao, ốm yếu, thương binh, bệnh binh… cũng không ít người phải nằm trên cáng. Người đi ra thì vui vẻ, hớn hở vì họ coi như đã bước ra khỏi trận mạc, người đi vào thì khỏe mạnh nhưng gương mặt trầm tư, thoáng vẻ lo lắng. Cũng đúng thôi, họ đang đi vào cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh và không mong có ngày trở về. Người đi vào gặp người đi ra thường hỏi nhiều chuyện về trận mạc nhưng có một câu hầu như ai cũng hỏi “đã bị sốt rét chưa?”. Ở Trường Sơn không mấy ai thoát khỏi sốt rét, vì vậy hỏi mà hỏi chứ nhìn nước da người lính đi ra là biết liền. Sốt rét Trường Sơn như một thứ bệnh dịch, nhất là về mùa mưa. Ban đầu dính sốt rét người cứ như giả vờ, có khi cả ngày khỏe, đào hầm, gùi gạo, chiến đấu giữ chốt… bình thường, chiều tối lên cơn sốt như thể đã bị sốt hàng tuần, hàng tháng. Người bị nặng có thể lên đến 41, 42 độ. Người thì nóng hầm hập nhưng lại rét, rét thấu xương, rét từ trong rét ra. Người bị sốt nặng thì cơn sốt có thể đến bất ngờ, nóng tột độ. Sợ nhất là sốt rét ác tính. Nhiều người chết không biết, hoặc đi hành quân đêm sốt, sáng dậy mới biết đã chết. Tôi làm liên lạc, trinh sát thường chạy công văn hoặc đi trinh sát một mình trong rừng có những lúc thấy thấp thoáng trong rừng chiếc võng treo tưởng có bộ đội đi qua đang nằm nghỉ, lò dò đến thì mới biết anh chiến sĩ đã chết từ khi nào… So với nhiều người thì tôi ít bị sốt rét. Người bị sốt rét nhiều thường có nước da xanh, mắt trắng, môi thâm đen. Sau hai hoặc ba năm nếu không bị sốt lại thì mới được coi là không còn ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể.

Đêm ấy chúng tôi dừng lại ở trạm nghỉ. Có một chuyện tôi không thể nào quên được. Xế chiều chúng tôi hành quân đến trạm thì gặp mấy người lính đi ra. Họ cho biết trạm nghỉ chúng tôi sắp đến chiều hôm qua B-52 địch mới rải bom nhiều người hy sinh... Nghe tin ấy cả đại đội chúng tôi không ai nói với ai nhưng sự lo lắng lộ rõ trên gương mặt. Trong hoàng hôn xế chiều, cảnh tan hoang của một khu rừng vừa bị bom B-52 rải xuống thật là bi thảm. Đó đây còn vương vãi tăng võng, quần áo, ba lô… chưa thể nào dọn hết. Đại đội tôi được bố trí lệch sang một mé rừng của trạm nghỉ. Đêm ấy trời bỗng mưa, mưa ở Trường Sơn, nước cứ như đổ ào xuống, chỉ sau một tiếng đồng hồ những con suối bình thường lội qua bỗng trở thành những dòng lũ, thác cuồn cuộn đổ về. Hôm ấy đến phiên tổ tôi trực nhật, buổi chiều đến, chúng tôi đã lo chặt lá rừng quây bếp để đêm dậy nấu cơm cho tiểu đội. Khoảng ba giờ sáng chúng tôi thức dậy, trời đã tạnh mưa nhưng cũng phải mò mẫm lối đi đến bếp vì cơn mưa lớn đã xóa sạch lối mòn. Bỗng tôi trượt chân rơi xuống một căn hầm thùng, loại hầm không nắp, rộng, đào sâu xuống khoảng một mét để mắc võng cho được nhiều người. Tôi bơi bì bõm trong nước và chợt đụng phải một vật, tưởng là khúc gỗ, khi vớt lên, hoảng hốt nhận ra một khúc chân người…

Lại nhớ trong dịp kỷ niệm 40 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi có dịp đi dọc trên con đường Trường Sơn huyền thoại. Cũng trên con đường này gần nửa thế kỷ trước chúng tôi đã đi, đi dưới mưa bom bão đạn cho tới ngày toàn thắng. Hồi ức những bàn chân hôm nay lại trở về, trở về để thêm tin yêu một thời, thời của Đất nước “Máu và Hoa”.