• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 23

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 42
  • Sau

Phần haiCòn lại với thời gian

att

Đêm 22 tháng 12 năm ấy…

Mùa khô năm ấy, trên chiến trường Thừa Thiên - Huế, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã mở chiến dịch lớn tiến công địch. Chiến dịch mùa khô bao giờ cũng diễn ra vô cùng ác liệt, trên điểm chốt ta và địch giành giật nhau từng mét đất, từng mét chiến hào. Có những cao điểm bom pháo trút xuống đất đào lên lộn xuống không còn một ngọn cỏ. Con đường 12 được mệnh danh là con đường máu, là con đường chiến lược từ miền Tây A Lưới về thành phố Huế, ngày nay là quốc lộ 49 nối từ đường Hồ Chí Minh về Huế xuống biển. Tôi là chiến sĩ liên lạc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6 bộ đội chủ lực địa phương của Quân khu Trị Thiên - Huế thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1965. Trung đoàn 6 tự hào là Trung đoàn Anh hùng hai lần tham gia giải phóng Huế. Đó là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 và ngày 26 tháng 3 năm 1975, thời khắc lịch sử trên con đường giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Nhớ lại sau hai tháng hành quân, chúng tôi vừa đến khu trú quân của tiểu đoàn bộ thì anh Bảo, trung đội trưởng thông tin tiểu đoàn ra gặp, anh xem mặt chiến sĩ mới để chọn một vài người bổ sung vào tiểu đội thông tin 2 oát. Pháo địch bắn rát quá, chúng tôi chui vào trú ẩn trong căn hầm chữ A của trung đội thông tin. Tôi cũng được điểm mặt nhưng sau đó lại thôi, vì theo anh Bảo, tôi nói “đặc giọng Nghệ” vừa nặng, vừa khó nghe, nhất là trong chiến đấu, giữa ác liệt của bom đạn, tiếng bom pháo át tiếng máy. Vì vậy tôi được biên chế về một đơn vị chiến đấu, trong lúc đang chờ đợi cán bộ đơn vị đến nhận về thì anh Tăng Văn Phả, tiểu đoàn phó đến. Anh nhìn tôi thật lâu và nói: “Cậu này trông như con sóc đưa về tiểu đội liên lạc!”. Thế là tôi được biên chế về tiểu đội liên lạc thuộc trung đội thông tin của anh Bảo. Hơn ba mươi năm sau, trong một đám cưới con anh Tân cùng trung đội, gặp tôi anh Bảo còn nhắc lại câu nói của anh Phả. Lúc ấy anh Tăng Văn Phả đang là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam.

Trung đội thông tin có ba tiểu đội: Tiểu đội 2 oát, tiểu đội hữu tuyến điện và tiểu đội liên lạc. Tiểu đội liên lạc ngày ấy có Nguyễn Xuân Chín quê Thanh Chương, Nghệ Tĩnh làm tiểu đội trưởng, Vũ Tuấn Định quê Hà Nam Ninh làm tiểu đội phó… Chiến tranh ác liệt, người bị thương, người hy sinh thay đổi, bổ sung hàng ngày, có người vừa bổ sung về trung đội được mấy tiếng đồng hồ đã hy sinh nên không nhớ hết tên người.

Đêm đầu tiên tôi lên chốt là đêm 22 tháng 12 năm 1972. Tôi đi cùng anh Phả lên chốt Sơn Na, chúng tôi dừng lại dưới yên ngựa giữa hai điểm cao để chờ bộ đội thay quân xuống. Đêm tối, pháo sáng, pháo nổ, pháo chụp (loại pháo nổ trên mặt đất khoảng 2m mảnh đạn úp xuống như chiếc nơm) của địch thỉnh thoảng vẫn bắn vào trận địa chốt. Tôi và anh Phả ngồi vòng tròn với tiểu đội vừa xuống, cạnh bên một chiếc hầm chữ A, mọi người đều bày quà bác Giáp ra. Quà của Đại tướng nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội 22 tháng 12, mỗi người được một gói lương khô, một bao thuốc lá Đ’rao. Vừa hút thuốc, vừa ăn lương khô, vừa nói chuyện thì thào, không ai nói được thành tiếng vì gần địch dễ bị lộ. Thỉnh thoảng mọi người lại nằm bẹp xuống vì có quả pháo địch bắn gần. Bỗng một tiếng nổ xé đất, một quả pháo rơi trúng nơi tiểu đội đang ngồi. Cả tiểu đội đủ quân vừa được bổ sung, 8 người hy sinh chỉ còn một người ngồi cạnh tôi bị thương. Anh Phả nói tên anh ấy là Luyện và bảo tôi bế Luyện vào hầm chữ A để anh gọi y tá tới cấp cứu. Luyện to và nặng, tôi vừa bế vừa kéo vào hầm, máu bê bết cả hai ống tay áo, đầm đìa cả bàn tay. Không có nước rửa, tôi chỉ xoa tay vào cát để “rửa”. Tôi không bị thương, chỉ bị chảy máu tai. Sức công phá của quả pháo mạnh đến nỗi đôi dép cao su bốn quai trong chân tôi văng mất, trong đêm tối tôi quờ quạng mãi không tìm được. Anh Phả bảo cứ lấy một đôi của anh em hy sinh mà đi…

Đêm ấy tôi và anh Phả lên chốt Sơn Na ở với bộ đội. Cuộc sống của người lính chốt Sơn Na ác liệt, căng thẳng, đầy hy sinh. Ngày nào địch cũng giội bom, giội pháo xuống. Ngày nào chúng cũng tổ chức đánh chiếm chốt ít nhất một, hai lần. Có ngày nó xua quân đánh chiếm chốt từ sáng đến tối không biết mấy lần, cứ sau mỗi lần trút hàng loạt pháo xuống cao điểm là chúng xua quân lên. Ngày nào cũng có bộ đội hy sinh, có đợt trung đội hy sinh gần hết lại bổ sung quân mới… Đợt ấy tôi và anh Phả ở chốt bốn, năm ngày, trong làn bom đạn tôi cứ như con sóc luồn lách dưới chiến hào để truyền lệnh, truyền tin đến từng tổ chốt. Vài ngày đầu còn biết sợ, ngày sau đâm ra lì, ở trên chốt với bộ đội mới hiểu trong cuộc chiến đấu sinh tử ấy, một là hy sinh hai là bị thương chứ không thể rời trận địa được. Nhìn thấy bộ đội hy sinh, đôi khi thoáng nghĩ rồi có ngày sẽ đến lượt mình! Mấy ngày đầu ở trên chốt không có nước rửa tay, rửa mặt. Bàn tay và ống áo bết máu của Luyện khô dần và rụng xuống từng vảy như vảy nến.

Nói chuyện nước ở trên chốt, mỗi ngày anh nuôi gùi cơm lên một lần, có ngày hai lần, mỗi lần gùi lên một túi nilon nước, loại túi đựng gạo lót trong bì tải. Cơm chủ yếu là ăn gạo sấy, thịt hộp và rau môn thục, nước thì chia mỗi người một bình toong một ngày, hết thì phải chịu. Dưới chân cao điểm Sơn Na có một hố bom tấn địch thả xuống không biết lúc nào, mùa mưa còn đọng lại nửa hố nước. Những lúc trời nhá nhem ta và địch tranh thủ mò xuống múc nước. Hai bên phục kích nhau, có hôm địch chết mấy ngày sau nó vẫn không dám xuống kéo xác lên. Vậy mà bộ đội vẫn phải bò xuống múc nước, thứ nước đọng trong hố bom lâu ngày lẫn cả mùi xú uế xác người trở thành màu xanh đục. Trước khi uống phải bỏ vào bình toong mấy viên thuốc sát trùng giống như viên B1, lắc cho tan để một lúc mới dám uống. Nước vẫn có mùi xác người, hít vào là muốn ói ra, phải một tay bịt mũi mới nhắm mắt uống, không uống thì không chịu khát được. Để lấy được một gùi nước dưới hố bom, mỗi lần đi là một cuộc đấu trí, một trận chiến đấu. Mỗi gùi nước mang được lên chốt có cả máu của ta và địch…

Đầu năm 2013, tôi vào dự Lễ khánh thành Nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Trung đoàn Phú Xuân tại phường An Hòa, thành phố Huế. Gặp lại nhiều đồng đội chiến đấu một thời, Đại tá Hoàng An, nguyên trung đoàn trưởng, tuổi đã tám mươi mà vẫn nhớ như in những năm tháng khốc liệt ấy. Ôn lại chuyện những ngày trên chốt Sơn Na, ông thì thào: “Không hiểu sao sức chịu đựng của con người ngày ấy vô cùng đến thế. Bây giờ kể lại được mấy ai tin?”.